CHƯƠNG 14 ĐÊM THỨ NHẤT Ở MẠC QUANG
Đêm xuống. Trong thung lũng đã nổi lên những đám sương trắng nhẹ quện chung quanh những chòm cây cao. Lác đác đó đây, những điểm sáng lấp lánh trong bóng tối sau những cửa kính của các nhà. Những tiếng nói đã thấy lao xao trong làng, thỉnh thoảng lại có một hai câu hát vọng lên.
Nàng đã được luyện tập nên không sợ ở khuya nơi rừng vắng hay trên đường cái ban đêm. Nhưng tội gì ngồi mãi ở đây! Bây giờ nàng có đủ những thứ mà nàng thiếu thốn, thiếu khổ hôm qua: một mái nhà và một cái giường. Vả lại ngày mai nàng phải dậy sớm để đi xin việc. Như vậy ngủ sớm được thì tốt hơn.
Nàng thủng thỉnh xuống làng. Nàng nhận thấy những tiếng ồn ào và tiếng hát vẳng nghe ban nãy là do các tiệm rượu phát ra. Tiệm nào cũng đầy người ngồi ở các bàn. Mùi cà phê, mùi rượu mạnh, mùi thuốc lá đưa ra nồng nặc tưởng chừng cả đường phố là một tửu điếm mở rộng. Những quán rượu liên tiếp không hết. Có khi hai ba tiệm liền nhau, có khi cách hai ba nhà lại có một tiệm. Trong những cuộc lữ hành của nàng trên các đường cái, nàng đã đi qua nhiều quán rượu, nhưng chưa nơi nào ầm ỹ và lộn xộn bằng ở đây.
Khi về đến sân nhà bà Phăng Xoa, nàng thấy ông Biên Đích vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, đang đọc sách bên ngọn đèn nến, có tờ báo rách quây một bên để che gió. Chung quanh ngọn nến có những con nắc nẻ, con sâu có cánh bay lượn rối rít mà ông không hề chú ý vì ông đang mải đọc.
Tuy nhiên, khi nàng đi qua, ông ngẩng đầu lên, nhận thấy nàng, được dịp nói tiếng mẹ đẻ, ông liền nói.
– A good night rest to you (Chúc cô qua một đêm an tĩnh).
Nàng đáp.
– Good evening, Sir. (Kính chào ông).
Ông tiếp tục hỏi bằng tiếng Anh.
– Cô đi đâu về thế?
Nàng trả lời bằng tiếng Anh.
– Cháu vào rừng chơi, bây giờ giờ mới về.
– Đi một mình?
– Vâng, một mình, vì cháu không quen ai ở Mạc Quang.
– Thế sao cô không ở lại để đọc sách? Những ngày chủ nhật không gì thú hơn là thú đọc sách.
– Cháu không có sách.
– Cô có đi đạo Thiên Chúa không?
– Thưa ông, có.
– Tôi sẽ cho cô mượn vài quyển để xem. Thôi chào cô.
– Kính chào ông.
Lúc đó Hồng đang ngồi tựa lưng vào khuôn cửa, nghỉ mát.
Thấy Liên về, nàng nói.
– Chị đã muốn đi nghỉ chưa?
– Có.
– Để tôi đưa chị về phòng. Nhưng trước hết phải nói qua với bà tôi. Chúng ta hãy ra nhà ngoài đã.
Nhờ cô cháu giới thiệu nên công việc kết thúc rất nhanh chóng. Liên xỉa trên bàn hai mươi tám xu, thêm hai xu nữa về tiền nến thắp trong tuần.
Bà Phăng Xoa hỏi Liên với vẻ tử tế và hiền từ.
– Vậy cô có muốn ở lại làng này không?
– Nếu có thể được.
– Có thể được lắm nếu cô muốn đi làm.
– Cháu mong được đi làm.
– Thế thì tốt lắm. Thế nào cũng được. Không phải mười xu một ngày mãi đâu. Cô có thể lên tới một hoặc hai quan một ngày. Nếu sau này cô lấy một người thợ tốt, được ba quan, như vậy mỗi ngày trăm xu, giàu to rồi, nhưng đó là không uống rượu. Cần nhất là đừng nên uống rượu. May miền này có ông Vĩnh Phan có việc cho dân làm, ở đây tuy có ruộng đất đấy, nhưng ruộng đất không đủ nuôi tất cả mọi người.
Trong lúc bà Phăng Xoa nói chuyện, Hồng đến tủ lấy ra một bọc vải rải giường. Liên nhìn kỹ đó là thứ vải vàng bằng gai thô dùng để gói hàng. Đã lâu nàng không được ngủ trên đệm, nên mảnh vải kia dù cứng chắc, nàng cũng lấy làm thích. Khi nàng làm giúp cho Hai Kền, bà ta cũng không bỏ tiền ra mua khăn rải giường bao giờ, Và khi tới nước Pháp, trừ cái nệm của mẹ nàng nằm, còn những cái khác hoặc bán đi hoặc rách không dùng được.
Hồng cầm một tấm đưa cho Liên. Hai người về qua sân. Ở đó có đến hai mươi người thợ vừa đàn ông, đàn bà và trẻ con ngồi trên những cục gỗ hay những hòn đá to, nói chuyện hoặc hút thuốc để đợi giờ đi ngủ. Liên tự hỏi, cái gác xép thế kia chứa làm sao đủ ngần ấy người?
Khi Hồng thắp chiếc đèn nến có lưới sắt chắn gió đưa nàng lên gác, nàng mới rõ diện tích căn phòng của nàng. Trong một khoảng dài độ sáu mét, rộng hơn ba mét, người ta kê sáu cái giường cách nhau bằng những bức ngăn thấp, giữa để một lối đi không đầy một mét. Sáu người phải ở chung trong căn này đáng lẽ chỉ vừa chỗ cho hai người. Vì thế tuy có một cái cửa sổ đối diện với cửa ra vào, nhưng người ta vẫn ngửi thấy một mùi hôi hám khi mới bước chân vào. Liên thấy khó thở nhưng không dám kêu. Hơn nữa, Hồng vừa cười vừa bảo.
– Chị coi buồng hơi chật phải không?
Liên cũng gượng trả lời.
– Vâng, cũng hơi chật một chút.
– Bốn xu có phải trăm xu đâu!
– Đúng thế.
Dù sao, căn phòng nhỏ hẹp này vẫn còn hơn ven rừng và bờ ruộng. Và nàng đã quen mùi ngai ngái ở nhà Tư Mặn, tất nhiên nàng có thể chịu nổi cái không khí này.
Hồng chỉ cái giường ở cạnh cửa sổ, bảo Liên.
– Giường chị đây.
Cái gọi là giường, đây chỉ là một cái ổ cỏ đặt trên cái khung gỗ có bốn chân với một bao nhồi cỏ dùng làm gối.
Hồng nói.
– Chị xem cỏ mới thay cả. Không phải cỏ kinh niên đâu, nằm tốt lắm.
Trong phòng số giường quá nhiều, mà ghế thì không có một chiếc nào.
Hồng thấy Liên loay hoay như muốn tìm cái gì, liền nói.
– Ở tường có đóng đinh đấy, chị có thể treo quần áo rất tiện.
Dưới gầm các giường kia, Liên thấy có vài cái hộp sắt tay hay thúng của những người khách trỏ dùng để đựng đồ vặt và quần áo. Nhưng nàng, nàng chỉ cần một cái đinh đóng ở phía chân giường là đủ.
Hồng căn dặn.
– Chị ở đây, toàn là người tử tế cả. Nếu bà Lướt có nói dai là bởi bà say, chị đừng để ý. Sáng mai, chị dậy với các bạn bà. Tôi sẽ đến bảo chị cách thức đi xin việc. Chúc chị ngủ ngon.
– Chào chị và cảm ơn chị.
– Có gì mà cảm ơn.
Liên vội cởi áo ngoài, sung sướng được riêng biệt một mình, không bị người cùng phòng dòm ngó. Khi nàng đặt mình xuống giường, nàng thấy mảnh vải cứng nhắc, nhưng chẳng thấm vào đâu vì đất còn cứng rắn hơn nhiều, ban đầu nàng khó chịu rồi lâu dần cũng quen đi.
Cửa vào chợt mở toang, một cô gái độ tuổi mười lăm bước vào, vừa bỏ áo vừa nhìn về phía Liên nằm, không nói gì. Vì hôm nay là ngày chủ nhật, nàng ăn mặc chỉnh đốn, nên việc thay quần áo hơi lâu. Nàng xếp những quần áo tốt vào trong cái hộp nhỏ, còn quần áo thường thì treo lên đinh để mai vận đi làm.
Người nữa vào, rồi người thứ hai, thứ ba, thứ tư, thế là cuộc nói vã bắt đầu. Mọi người cùng nói một lúc, ai cũng khoe chuyện của mình trong ngày. Trên khoảng hẹp để làm lối đi, họ kéo ra, đẩy vào những cái hộp, những cái thúng, nó va chạm, nó vướng vào nhau làm cho họ bực mình và oán trách chủ nhà.
– Nhà như cái hang chuột!
– Họ sắp kê thêm giường vào kẻ hở.
– Đến phải dọn đi.
– Đi đâu? Các nhà khác cũng thế.
Phê bình chủ nhà chán rồi, hai người đầu tiên đi ngủ. Một chút trật tự được vãn hồi. Một lát sau trừ một giường bỏ trống, còn bốn giường kia đều có người nằm.
Tuy nhiên, câu chuyện gẫu cũng chưa chấm dứt. Nói hết chuyện về ngày hôm đó, họ bàn đến chuyện hôm sau: nào công việc trong xưởng, nào những sự thiệt thòi, những điều phàn nàn, nào những chuyện xích mích giữa người này với người nọ trong xưởng. Rồi họ bàn tán đến cả các ông chủ. Hai cháu ông chủ họ gọi là các “ông trẻ”, ông giám đốc Tạ Loan họ kêu là “Cáo già” hay nói tắt là “Kếu”. Nghe luận điệu của họ thì Tạ Loan là con Hổ Xám của thợ thuyền, họ vừa ghét vừa sợ. Cứ xem họ giữ gìn và rào đón câu chuyện thế này thì rõ họ sợ uy quyền của con Hổ Xám đó tới bực nào.
– Tuy vậy ông ta cũng là một người tốt.
– Và công bình.
– Và phải đấy.
Câu chuyện nhạt dần. Có tiếng nói.
– Thôi ngủ đi!
– Cứ việc
– Thím Lướt chưa về.
– Tôi vừa trông thấy thím ta.
– Làm gì?
– Đang uống rượu.
– Còn đủ sức lên thang gác chứ?
– Nào ai biết.
– Cứ đóng chặt cửa lại.
– Thím ấy sẽ khua cả xóm dậy.
– Như chủ nhật trước.
– Mà có lẽ hơn kỳ trước chưa biết chừng!
Lúc đó, mọi người nghe thấy tiếng lịch kịch ở dưới chân thang.
– Bà ấy đã về.
Chợt có tiếng người ngã và tiếng rên rỉ.
– Thím ấy ngã rồi.
– Không biết có dậy được không?
– Thôi để thím ta ngủ ở chân thang càng tốt.
– Chúng ta sẽ được ngủ yên.
Chợt thím ta vừa rên to vừa gọi.
– Lệ ơi! Xuống đỡ bác một tí, con ơi!
– Tôi đã xuống nhiều lần rồi!
– Lệ ơi! Ới Lệ ơi!
Lệ nằm yên không nhúc nhích, gọi chán bà Lướt im.
– Có lẽ thím ta ngủ rồi.
– Càng may!
Nhưng nào bà ta ngủ. Bà ta cố leo lên thang và nheo nhéo.
– Lệ ơi! Dắt bác lên! Con ơi! Lệ ơi! Lệ ơi!
Thím ta không lên được bước nào thật vì tiếng nói vẫn nghe thấy ở chân thang. Bà ta gào quá đến nỗi phát khóc.
– Lệ, con ơi! Con ơi! Lệ ơi! Thang gác sụt rồi! Trời ơi!
Tiếng cười bật lên từ giường nọ sang giường kia.
– Có phải Lệ chưa về không? Lệ ơi! Để bác đi tìm con, con ơi!
– Chúng ta nằm im đừng nói.
– Không được. Thím ấy đi tìm Lệ không thấy. Độ một giờ nữa thím ấy lại về. Tấn kịch lại tái diễn.
– Chúng ta sẽ phải thức cả đêm à?
– Lệ ơi! Xuống dắt bà ấy lên.
– Chị xuống mà dắt.
– Thím ấy thích chị kia mà!
Lệ chịu lời, mặc áo ngoài và xuống thang.
Thím Lướt cảm động quá kêu lên.
– Ô! Con đây à? Con ơi!
Mọi người đợi Lệ đưa thím lên, nhưng khi thấy mặt Lệ thì thím ta lại đổi ý kiến.
– Con ơi! Đi chơi với bác, uống vài ly.
Lệ không chịu và đáp.
– Thôi, bác lên đi ngủ.
– Không, cháu cứ đi với bác, cháu ơi!
Cuộc giằng co kéo dài vì thím Lướt không chịu rút lui ý kiến, cứ nhắc đi nhắc lại câu.
– Một ly con thôi!
Có tiếng nói.
– Lải nhải mãi à!
– Buồn ngủ chết đi!
– Mai phải dậy sớm.
– Chủ nhật nào cũng thế đấy.
Mới đây Liên mừng thầm được có cái mái nhà trên đầu, sẽ được ngủ yên. Nào ngờ nơi đồng vắng với những bóng tối hãi hùng, với thời tiết bất thường còn yên tĩnh hơn ở đây, một nơi hỗn tạp, ồn ào và sực mùi hôi hám bắt đầu làm nàng khó thở.
Ở bên dưới vẫn có tiếng cãi lộn. Thím Lướt cứ nài: “một ly con thôi”. Lệ cứ hẹn: “đến mai”. Một bà cùng buồng tức mình trỗi dậy nói.
– Tôi phải xuống giúp Lệ đưa thím ta lên, nếu không tấn bi kịch sẽ kéo dài suốt đêm.
Bà ta xuống gác. Rồi có tiếng ồn ào và lịch kịch trên thang. Tiếp theo là những lời kêu ca của những người khách trọ ở tầng dưới, bực tức vì cả nhà bị náo động.
Cuối cùng, thím Lướt bị lôi lên buồng. Thím vừa khóc vừa kêu.
– Tôi làm gì đến ai?
Kệ lời than vãn, người ta cởi áo thím ta ra và đặt nằm lên giường. Nhưng thím ta cũng chưa chịu ngủ cứ nói lải nhải mãi.
– Ta làm gì để các người hành hạ ta? Khổ thân tôi quá! Ta có phải là đứa ăn cắp đâu mà không thèm uống rượu với ta? Lệ ơi! Ta khát quá!
Thím càng nói, mọi người càng bực tức và mắng.
– Im đi để người ta ngủ!
Im được một lát rồi thím ta lại nói.
– Tại sao lại đánh ta? Thôi xin lỗi. Đủ rồi!
Mọi người lại nghiến nhau.
– Ai bảo đưa bà ta lên?
– Chính chị giục tôi!
– Hay là lại cho thím ta xuống?
– Sẽ phải thức suốt đêm.
Trước cảnh đó Liên tự hỏi nếu chủ nhật nào quả cũng có trò này mà những bạn cùng buồng chịu được thì cũng giỏi thật. Không biết ở Mạc Quang còn có nơi nào người ta có thể ngủ yên được hơn ở đây không? Ở buồng này không những náo động làm cho mất ngủ, mà không khí còn độc nữa làm cho Liên nôn nao, tức thở.
Sau cùng, cái máy nói của thím Lướt nhỏ dần rồi thỉnh thoảng phát ra vài tiếng líu ríu không rõ. Tấn kịch hạ màn bằng những tiếng ngáy khò khò.
Mặc dầu trong buồng, sự yên tĩnh đã trở lại nhưng Liên vẫn không sao chợp mắt được. Nàng bị ngạt thở: có những tiếng đập ở hai bên thái dương và mồ hôi toát ra từ đầu xuống đến chân. Nàng tìm nguyên nhân của bệnh đó: thiếu khí trời để thở! Nếu những bạn nàng không bị ngạt như nàng là vì họ quen sống trong bầu không khí tù hãm này, khó thở riêng cho những người thường ở những nơi thoáng đãng của đồng ruộng!
Nàng chỉ có cách không thở, không ngửi nữa là hơn. Rồi giấc ngủ sẽ đến. Khi người ta ngủ thì khứu giác cũng nghỉ và không làm việc nữa.
Nhưng hại thay! Người ta không thể nín thở theo ý mình. Nàng ngậm mồm, bịt mũi một lúc rồi há môi buông tay ra. Lúc đó nàng lại càng phải hít nhiều hơn trước. Bây giờ phải làm thế nào? Không thở thì chết ngạt mà thở thì ốm người.
Nàng đang trằn trọc, bàn tay bỗng đụng vào tờ giấy dán thay kính cửa sổ, ở ngay cạnh giường nằm. Tờ giấy không phải là miếng kính. Nàng có thể chọc thủng ra mà vẫn không có tiếng kêu loảng xoảng. Một khi giấy thủng rồi thì không khí có thể lọt vào được. Nhưng chọc thủng ra thì có hại cho chủ nhà, mà cứ chịu thở hơi độc thì cũng khổ. Vậy nàng bắt buộc phải xé miếng giấy kia ra.
Nhưng nàng không phải dùng đến cách đó, nó sẽ để lại dấu vết không hay. Nàng sờ khắp tờ giấy thấy dán không được kỹ, nàng dùng móng tay tách cẩn thận một bên ra. Sau đó nàng kề mặt vào lỗ cửa sổ và thở được dễ dàng. Rồi cứ nằm nghiêng như thế, nàng ngủ cho đến sáng.