← Quay lại trang sách

SÁNG TÁC

“Tạp chí thời báo NewYork” mời bạn Pankaji. Michenla viết một bài về tôi. Tháng 11 năm 2008, bạn đồng nghiệp Ấn Độ của tôi đến Bắc Kinh. Chúng tôi lúc thì ngồi nói chuyện trong phòng ấm áp, lúc thì đi dạo trong gió lạnh mùa đông. Chúng tôi đã đến mấy nhà hàng có phong vị khác nhau ăn cơm. Vị ăn chay này khi dời Bắc Kinh khen tôi có tài hoa gọi món ăn. Tôi nói với anh: “Tài hoa của tôi rất giản đơn, tức là gọi cho bằng hết các món ăn chay trong nhà hàng”.

Nhà thơ La Mã cổ Marcus Valerius Manialis nói: “Nhớ lại đời sống quá khứ chẳng khác gì sống lại lần nữa”. Cảm ơn bạn Pankaji. Michenla. Trong một tuần ngắn ngủi ở Bắc Kinh, anh đã khiến tôi ôn lại quá trình sáng tác của mình, đã cho tôi “sống lại một lần nữa”.

“ Nguồn sáng tác của tôi chảy mãi”. Tôi nói với Pankaji. Michenla. Khi nói câu này, về tâm lý hình như tôi đã già khú khụ. Bởi vì khi tôi nhìn laị sáng tác đầu tiên của mình,hình như đến từ câu truyện của một thế giới khác. Đây là lịch trình đặc biệt của cả thế hệ người Trung Quốc chúng tôi. Chúng tôi chỉ hao phí thời gian hơn bốn mươi năm đã traỉ qua hai thế giới hoàn toàn khác nhau trong cùng một đất nước.

Tôi tìm những sáng tác đầu tiên của mình. Suy nghĩ của tôi lướt nhanh trên những quyển vở làm văn cũ rích, dừng lại trên tờ báo chữ to phủ trời rợp đất thời đó. Tôi cảm thấy tập làm văn thời tiểu học của mình không đáng nhắc đến. Bởi vì những tập làm văn này chỉ có một người đọc, đó là người thầy giáo ngữ văn đeo kính. Tôi càng muốn đem sáng tác của mình bắt đầu từ báo chữ to, đây là những tác phẩm phát biểu công khai đầu tiên của tôi.

Thời kỳ cách mạng văn hóa người ta say sưa viết báo chữ to, càng thậm chí như hiện nay người ta say sưa với bờ lốc. Chỉ khác ở chỗ, báo chữ to thời đó “thiên biên nhất luật”, trên cơ bản là bản sao chép văn chương của “ Báo nhân dân “ ngôn ngữ cách mạng và khẩu hiệu trống rỗng tràn ngợp cả bài văn, leo lẻo không ngớt từ đầu chí cuối. Bờ lốc ngày nay lại muôn hình vạn trạng, tự bốc mình lên, chửi bới nhau, phô bày những điều thầm kín, khẳng khái say sưa, không bệnh cũng rên rỉ... còn có cả lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội... Có thế nói cái gì cũng có, cần gì có nấy. Nhưng có một điểm giống nhau, đó là viết báo chữ to thời cách mạng văn hóa, hay viêt bờ lốc hiện nay đều là để tỏ rõ giá trị tồn tại của mình.

Báo chữ to đã từng là vũ khí lợi hại nhất khi tôi học tiểu học. Mỗi sáng sớm khi khoác cặp sách đến trường, cặp mắt tôi căng thẳng rê trên báo chữ to mới nhất dán trên tường đường phố, xem những tiêu đề ấy có tên bố tôi không.

Bố tôi là một bác sĩ ngoại khoa, đồng thời cũng là một quan chức nhỏ đảng viên cộng sản. Thời kỳ đầu cách mạng văn hóa, tôi đã nhìn tận mắt bố của mấy bạn học là quan chức bị đánh đổ vì tôị là “ phái đương quyền đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”, bị phái tạo phản cách mạng thời đó đánh cho mặt mũi sưng tím, trước ngực đeo một tấm biển gỗ, đầu đội mũ cao bằng giấy dán hồ, suốt ngày tay cầm chổi, chăm chỉ quét đường phố. Người qua đường có thể sẵn sàng dơ chân đá họ một cái, hoặc nhổ bọt lên mặt họ. Con cái họ, mấy đứa bạn học của tôi đương nhiên là môi hở răng lạnh, luôn luôn bị bạn học khác nhục mạ và khinh rẻ.

Tôi còn thơ dại cứ lo ngay ngáy, lo bố mình đột nhiên bị rủi ro. Đó cũng là vận rủi của tôi. Hơn nữa bố tôi còn có lý lịch gia đình địa chủ. Nhà bố tôi đã từng có hơn hai trăm mẫu ruộng, là một địa chủ trăm phần trăm, may mà ông tổ tôi là kẻ ăn chơi hư hỏng, không có lòng tiến thủ, chỉ biết đua đòi lêu lổng, năm nào cũng bán mất hai ba mẫu ruộng cung dưỡng đời sống háu ăn lười làm của mình. Đứa con bại gia chi tử này, đúng năm 1949 vừa vặn bán sạch hơn hai trăm mẫu ruộng, do đó ông đã bán mất thân phận địa chủ của mình. Không thì sau khi giải phóng cả nước,ông rất khó thoát khỏi số phận bị xử bắn. Bố tôi vì họa được phúc,vứt bỏ được tội danh con cái địa chủ. Đương nhiên tôi và anh trai cũng là kẻ hưởng lợi cách đời của đời sống ăn chơi lêu lổng của ông tôi.

Mặc dù như vậy, lý lịch gia đình đen tối của bố tôi vẫn dày vò chúng tôi về tâm lý, chuyện rủi ro vẫn thường xảy ra. Một sáng sớm,tôi và anh trai cắp sách ra khỏi nhà, trên đường đi cuối cùng đã nhìn thấy tên bố mình xuất hiện nổi bật trên tiêu đề, hơn nữa còn có hai tội danh “địa chủ bỏ trốn” và “phái đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”.

Thời còn bé tôi rất nhút nhát, lúc ấy chắc chắn sắc mặt tôi nhợt nhạt. Tôi bảo anh trai, em không dám đến lớp, em phaỉ trốn về nhà. Anh tôi mặt tỉnh khô, anh bảo chẳng việc gìphải sợ, anh nhởn nha nhởn nhơ đi về hướng nhà trường. Anh tôi chỉ can đảm đi một đoạn độ một trăm mét, sau đó anh lập tức quay về. Anh vừa đi đến với tôi vừa nói:

- Mẹ kiếp ông cũng đếch đến trường nữa, ông cũng phải tránh một thời gian.

Sau đó một tờ báo chữ to đầu tiên ký tên tôi vì thế đã ra đời. Năm ấy tôi học năm thứ nhất tiểu học, anh tôi học năm thứ ba tiểu học. Bố tôi ở vào thế vực sâu của đời người, tự giàn dựng tự diễn một vở kịch chính trị, khiến cả gia đình chúng tôi ăn một tết xuân cách mạng hoá. Trong đêm ba mươi tết, các gia đình khác, sau một năm nhịn ăn nhịn tiêu, cuối cùng đã có thể ăn một bữa ngon có thịt có cá, nhưng gia đình tôi lại ăn cơm “ôn khổ nhớ nghèo”. Cái gọi là “ôn khổ nhớ nghèo” tức là trộn cám với rau dại nấu lên, bóp thành bánh nắm. Món ăn được gọi là bánh cám này do người nghèo trong chế độ cũ ăn. Trong đêm ba mươi tết chúng tôi ăn bánh cám, tức là ôn lại nỗi khổ của chế độ cũ để thấy cái ngọt ngào của chế độ mới.

Hai tay tôi bưng cái bánh cám nhạt nhẽo vô vị, nhỏ nhẻ cắn từng miếng. Tôi cảm thấy cám thô ráp khi tôi nuốt hình như cứa vỡ cổ họng. Rất tủi hổ tôi nói, ăn bánh cám thấy đau đau. Bố tôi giả vờ tỏ ra vui, ông nói bằng giọng của bác sĩ ngoại khoa.

- Đau mới tốt, đau mới chứng tỏ ôn nghèo nhớ khổ có hiệu quả điều trị.

Tôi và anh trai không biết bố đang xúi quẩy biểu diễn sự ưu tú cách mạng của ông. Bố chọn thời cơ tốt ba mươi tết, mấy hôm sau trong tài liệu kiểm thảo của mình bố đã hết lời ca ngợi cái tết xuân cách mạng hoá này, lấy đó để bày tỏ lòng trung son sẵt đối với Đảng cộng sản và Mao chủ tịch của ông.

Cả nhà bốn người chúng tôi nuốt bánh cám. Sau khi mẹ tôi dọn sạch mâm cơm

,bố tôi trải một tờ giấy trắng to lên bàn, cả nhà bắt đầu viết báo chữ to. Chủ đề của báo chữ to là đấu tư lợi phê xét lại, tức là phải đánh đổ và phê phán tư tưởng tự tư và tư tưởng của chủ nghĩa xét lại. Tay phải bố tôi mài mực trong nghiên, nói với chúng tôi một cách trang trọng:

- Đêm giao thừa năm mới, chúng ta phải cẩn thận tiến hành một cuộc tự phê bình và phê bình.

Điều này khiến anh em tôi hớn hở. Chúng tôi tranh nhau đòi phát biểu đầu tiên. Hai anh em tôi, không đứa nào chịu nhường đứa nào, đứa nào cũng muốn được tự phê bình trước. Bố mẹ bảo tôi nói trước, bởi vì anh lớn hơn tôi hai tuổi, anh nên nhường cơ hội cho em. Nhưng tôi chớp chớp mắt không biết nói gì? Trong giấy lát tôi không tìm ra tư tưởng tự tư và tư tưởng của chủ nghĩa xét lại. Ở bên cạnh, anh tôi sốt ruột nôn nóng. Anh muốn nói trước, bố mẹ tôi không đồng ý, bắt đầu gợi ý cho tôi, bố mẹ nói, vừa giờ khi ăn bánh cám con cảm thấy đau đau cổ họng, tức là tư tưởng tự tư đang tác oai tác quái. Tôi như trút gánh nặng, nhưng vẫn lo lo. Tôi hỏi bố mẹ:

- Liệu có thể còn coi là tư tưởng của chủ nghĩa xét lại hay không?

Bố mẹ tôi trao đổi với nhau một lát, coi đây là tác phong của giai cấp tiểu tư sản ở nơi sâu kín của tư tưởng tôi đang trỗi dạy, còn trong chủ nghĩa xét lại thìđầy rẫy cái xấu xa của giai cấp tư sản. Bố mẹ gật gật đầu nói:

- Có thể coi thế.

Tự tư và chủ nghĩa xét lại đều có, tôi đã yên tâm. Đến lân anh trai. Anh đã kiêu ngạo nói ra, có lần anh nhặt được hai xu trên phố không đem trao cho thầy giáo mà mua luôn hai cái kẹo bỏ mồm. Bố mẹ tôi đều gật đầu trịnh trọng, bảo hành vi này của anh tôi hết sức tương tự tư tưởng vừa giờ của tôi, cũng đều có tư tương tự tư và chủ nghĩa xét lại. Tiếp theo mẹ tôi đấu tự tư, phê xét lại, sau mẹ tôi là bố tôi. Bố mẹ tôi đều nói những sai lầm nho nhỏ, không đau không ngứa, khiến hai anh em tôi có vẻ thất vọng, đặc biệt là bố tôi, khi tự phê bình không hề nhắc đến một chữ “địa chủ chạy trốn” và “phái đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Anh trai tôi làm khó dễ cho bố tôi đầu tiên. Anh ấy nghiêm nghị hỏi:

- Ông có phải là địa chủ bỏ trốn hay không?

Nét mặt sa sầm, bố tôi lắc lắc đầu nói, gia đình tôi đã phá sản trước ngày cả nước giải phóng, cho nên khi cải cách ruộng đất được quy thành trung nông. Mẹ tôi ngồi cạnh kêu bị oan, mẹ nói nếu không từng có hơn hai trăm mẫu ruộng, thành phần gia đình bố tôi phải là bần nông. Anh trai tôi nghiêm khắc dơ tay phải, hỏi bố tôi:

- Ông có thể bảo đảm với Mao chủ tịch không?Ông không phải địa chủ?

Bố tôi trang nghiêm dơ tay phải nói:

- Tôi xin bảo đảm với Mao Chủ tịch, tôi không phải địa chủ.

Tôi không cam lạc hậu, cũng hạch sách bố:

- Ông có phải phái đi theo con đường tư bản chủ nghĩa không?

Bố tôi vẫn lắc lắc đầu. Bố nói bản thân tuy gia nhập đảng cộng sản trước giải phóng, nhưng luôn luôn làm công tác kỹ thuật, ông luôn luôn làm bác sĩ ngoại khoa không nên coi là phái đương quyền đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Tôi học kiểu anh trai dơ tay phải:

- Ông có thể bảo đảm với Mao chủ tịch không?

Bố tôi lại dơ tay phải nói:

- Tôi xin bảo đảm với Mao Chủ tịch.

Tiếp theo ba chúng tôi nhìn tờ báo chữ to tránh chỗ nặng nói chỗ nhẹ, do bố tôi viết. Đây là tờ báo chữ to đầu tiên phê phán bản thân chúng tôi, hơn nữa nó được viết vào đêm giao thừa. Sau khi viết xong, bố tôi ký tên mình, đưa bút lông cho mẹ tôi. Mẹ tôi ký xong đến anh tôi ký, tôi ký tên sau cùng.

Chúng tôi bắt đầu thảo luận dán báo chữ to chỗ nào? Tôi bảo dán ở cửa nhà mình, có thể để bà con hàng xóm nhìn thấy hành vi vĩ đại đêm giao thừa của chúng tôi. Anh tôi nói nên dán ở cửa sổ bán vé của rạp chiếu bóng, ở đấy có đông người xem báo chữ to hơn. Chắc chắn trong bụng bố mẹ tôi sẽ chửi chúng tôi hai đứa con mất dậy. Bố mẹ tôi chỉ để làm vì, để chứng tỏ tinh thần cách mạng và giác ngộ chính trị của mình. Bố mẹ tôi đâu có muốn người khác đọc được tờ báo chữ to này, hơn nữa tờ báo chữ to ba mươi tết này có giá trị thực dụng rất cao, có thể là một đoạn rạng rỡ xuất hiện trong bản kiểm điểm của bố tôi.

Bố mẹ tôi tuy trong lòng khó chịu, song nét mặt vẫn tỏ ra tán thành, hai bố mẹ gật đầu nói, ý kiến của hai anh em đều rất hay, vấn đề là nếu dán ra ngoài bản thân chúng ta không thể luôn luôn nhìn thấy tờ báo chữ to này. Bố mẹ kiên nhẫn giải thích, tờ báo chữ to này phê phán bản thân mình, nên dán trong nhà mình, để chúng ta luôn luôn cảnh giác sai lầm trước kia của mình, từ đó theo sát Mao chủ tịch vĩnh viễn đi trên con đường đúng đắn.

Thời đó gia đình chúng tôi vẫn chưa chuyển đến nhà gác tập thể của bệnh viện, Chúng tôi ở trong nhà mái bằng gọi là ngách Hướng Dương, là một gian nhà to. Tường ngăn ở giữa bằng tre dọc ngang buộc dây thép, rôì bồi dán giấy báo cũ lên tre. Bố mẹ tôi ngủ trên giường bên trong, Hai anh em tôi ngủ trên giường bên ngoài. Chúng tôi cảm thấy bố mẹ nói có lý, đồng ý dán tờ báo chữ to trong nhà. Nhưng chúng tôi có một điều kiện, tức là không được dán ở đầu giường bố mẹ bên trong, phải dán trên đầu giường hai anh em tôi. Bố mẹ tôi vui vẻ đồng ý.

Sau đó không lâu, bố tôi bị đưa về nông thôn. Ông đeo hộp thuốc đi giữa cánh đồng thôn quê chữa bệnh cho nông dân. Khi phái tạo phản nhận ra họ đã bỏ qua bố tôi, họ lại về nhà quê bắt ông, thì không tìm thấy bố tôi nữa. Bà con nông dân thật thà chất phác đã cất giấu bảo vệ ông, khiến bố tôi hết sức may mắn tránh được bạo lực cách mạng thời kỳ đầu cách mạng văn hoá.

Tờ báo chữ to ghê gớm đó dán trên tường đầu giừơng anh em tôi hơn một năm, bám đầy bụi và sau khi giấy bị ố vàng rách đi, nó bị rơi theo búc vách xuống gậm giường, rôì bị chúng tôi lãng quên. Lúc đầu ngày nào trước khi ngủ và sau khi dậy tôi đều nhìn chữ ký xiêu xiêu vẹo vẹo của mình với ánh mắt thiêng liêng.

Năm năm sau, tôi lên học lớp sơ trung, bắt đầu viết báo chữ to qui mô lớn, hơn nữa lại thân chinh viết, không bao giờ còn ký tên theo sau người khác. Lớp sáng tác nổi tiếng nhất thời kỳ cách mạng văn hoá đến từ đại học Bắc Kinh và đại học Thanh Hoa, bút danh là Lương Hiệu, là giai âm của hai trường. Tôi bắt chước Lương Hiệu, kéo thêm ba bạn học cũng thành lập một nhóm sáng tác, lấy bút danh từ bộ phim cách mạng nổi tiếng thời đó “ Mầm xuân ”.

Thời ấy, vừa vặn sự kiện Hoàng Soái loan khắp đất nước,Hoàng Soái một học sinh tiểu học chỉ mới mười hai tuổi đã viết một bài nhật ký phê bình thầy giáo: “ Hôm nay,xx không tuân thủ kỷ luật học đường,đã có hành vi nghịch ngầm, thầy giáo gọi cậu đến trước mặt nói: Ta thật muốn cầm thước dạy học gõ vào đầu ngươi. Câu này nói không đúng phải không? Thước là thứ để thầy dạy học, chứ không phải để đánh lên đầu học trò. Xin thầy kiên nhẫn giúp đỡ sai lầm của học sinh, khi nói cần chú ý hơn... ” Sau khi xem nhật ký, thầy giáo nổi giận đùng đùng, nhận xét Hoàng Soái là muốn đánh đổ thầy. Tiếp theo trong thời gian hơn hai tháng, thầy giáo luôn luôn phê bình Hoàng Soái, còn yêu cầu các học sinh khác bỏ mặc Hoàng Soái. Bị cô lập bơ vơ, Hoàng Soái đành phải viết cho “Nhật báo Bắc Kinh” một bức thư sáu trăm chữ, Trong thư em nói: “ Em là hồng tiểu binh, yêu chuộng Đảng và Mao chủ tịch,em chẳng qua chỉ viết lên nhật ký những điều trong lòng mình, nhưng thầy giáo túm chặt không buông. Nhiều ngày gần đây em không ăn nổi cơm, đêm nằm mơ sợ khóc. Xét đến cùng, em đã mắc sai lầm nghiệm trọng gì? Lẽ nào còn đòi thanh thiếu niên thời đại Mao Trạch Đông lại làm nô lệ dưới sự nô dịch “đạo thầy tôn nghiêm ”của chế độ giáo dục cũ? Ngày 12 tháng 12 năm 1974 “Nhật báo Bắc Kinh” đã đăng bức thư và bản sao nhật ký của Hoàng Soái. Ngày 28 tháng 12 “Nhân dân nhật báo” đăng lại toàn văn ngay trong dòng đầu trang đầu, còn thêm lời toà soạn. Sáng sớm hôm đó, Đài phát thanh nhân dân Trung ương cũng phát lại tin này trong chương trình thời sự và trích yếu báo chí. Hoàng Soái nổi lên một thời, trở thành anh hùng chống trào lưu cả nước ai ai cũng biết. Học sinh trung tiểu học cả nước nhao nhao học tập Hoàng Soái. Nhưng vận may chẳng được bao lâu, hai năn sau, cùng với sự qua đời của Mao Trạch Đông và “lũ bốn tên” bị bắt, Hoàng Soái mười sáu tuổi bỗng từ Thiên đường rơi xuống địa ngục, trở thành nanh vuốt nhỏ của lũ bốn tên, báo chữ to phê cô bé dán phủ trời rợp đất. Bố mẹ của cô bé cũng vì thế bị xúi quẩy, mẹ cô bé đã viết kiểm điểm mấy vạn chữ, bố cô bị tống giam, mãi đến năm 1981, bố Hoàng Soái mới được sửa sai, đươc ra tù.

Trong một thời đại như thế, số phận một con người kỳ thực không thuộc về bản thân. Tất cả mọi người đều như nước chảy bèo trôi, không ai biết, chờ đợi mình ở phía trước là vận may hay vận rủi.

Cuối năm1974 các trường trung tiểu học toàn quốc trỗi dậy làn sóng phê phán tôn nghiêm đạo thầy. Do tôi chắp bút, báo chữ to ký tên “Mầm xuân” đã thịnh hành trong trường phổ thông trung học chúng tôi. Tôi cũng nổi lên một thời trong nhà trường, trở thành cây bút đỏ có tên tuổi.

Tôi và ba bạn học hăng hái viết ngày viết đêm, ngôn ngữ cách mạng trong đó đều sao chép từ “Nhân dân nhật báo”, “ Triết Giang nhật báo “ và “Giải phóng nhật báo” của Thượng Hải, không đầy một tuần, chúng tôi đã viết ra gần bốn mươi bài báo chữ to, dán đầy tường trường phổ thông trung học của chúng tôi. Phê phán hết lượt các thầy cô giáo trong trường phổ thông trung học. Thầy giáo ngữ văn của chúng tôi là người duy nhất tôi bỏ qua. Thầy và tôi thân nhau, thầy thường hay len lén tung cho tôi một điếu thuốc. Tôi lấy trộm thuốc lá thơm của bố cũng hiếu kính thầy một điếu.

Thời ấy là thời đại giai cấp công nhân lãnh đạo tất cả, trong quân đội, nhà máy nông thôn và mọi đơn vị khác đều cử đội tuyên truyền công nhân đến ở. Trường phổ thông trung học chúng tôi cũng có đội tuyên truyền công nhân đến. Đội trưởng đội tuyên truyền công nhân là lãnh đạo cao nhất của trường học lúc đó. Tôi còn nhớ đó là lão công nhân hơn năm mươi tuổi, Ông cầm quyển sổ ghi chép, vừa xem báo chữ to của chúng tôi, vừa viết cái gì trên đó. Khi trông thấy tôi nét mặt ông tươi cười, rối rít khen tôi:

- Làm tốt lắm, làm tốt lắm!

Thời đó tôi không biết, tổ sáng tác Mầm xuân của chúng tôi trong thời gian ngắn đã viết ra gần bốn mươi tờ báo chữ to cũng trở thành thành quả cách mạng của nó. Chủ nhiệm uỷ ban cách mạng của huyện đã biểu dương tổ hết lời. Ông nói trường phổ thông trung học chúng tôi đã đứng đầu các trương trong huyện trong cuộc vận động học tập tinh thần chống Hoàng Soái và phê phán tôn nghiêm sư đạo, thậm chí đều có khả năng dẫn đầu các trường toàn tỉnh.

Ông đội trưởng tuyên truyền công nhân này cẩn thận ghi lại tên mỗi thầy cô giáo chúng tôi đã phê phán, sau đó phát hiện lại không có tên thầy giáo ngữ văn. Đội trưởng tuyên truyền công nhân rất không hài lòng, cảm thấy trong cuộc vận động phê bình tôn nghiêm đạo thầy vẫn có điểm mù. Ông gọi điểm mù này lên văn phòng của mình, đập bàn quát một thôi một hồi,nói điểm mù này áp chế và đả kích học sinh, cho nên mới không xuất hiện báo chữ to phê phán thầy.

Thầy giáo ngữ văn của chúng tôi khóc lóc nhăn nhó đến tìm tôi. Thầy kéo tôi ra bên ngoài tường vây nhà trường, đưa cho tôi một điếu thuốc lá, tự tay thầy bật diêm châm cho tôi, sau đó khẩn thiết hỏi:

- Tại sao không viết báo chữ to về tôi?

Tôi hút thuốc lá thơm của thầy đáp:

- Trên người thày không có tôn nghiêm sư đạo.

- Sao lại không có? - Thầy giáo ngữ văn cuống lên. Thầy nói:- Toàn thân tôi từ trên đến dưới đều là tôn nghiêm sư đạo.

Tôi nói:

- Thày thường xuyên cho học sinh chúng em thuốc lá, thầy hoà mình với chúng em. Đúng là thầy không có tôn nghiêm sư đạo.

Thầy giáo ngữ văn khóc dở mếu dở, đành phải nói hết với tôi những lời đội trưởng đội tuyên truyền công nhân mắng nhiếc thầy thế nào. Tôi hiểu ra, tôi hứa với thầy, ngay tối hôm ấy sẽ viết xong tờ báo chữ to phê phán thầy, sáng sớm mai thầy thức dậy sẽ nhìn thấy.

Tôi giữ lời hứa, ăn xong cơm tối,liền goị ba bạn học khác của nhóm sáng táccùng đến, viết trong lớp học đến tận đêm khuya thanh vắng. Đối với các thầy cô giáo khác, chúng tôi đều viết một tờ báo chữ to,riêng với thầy giáo ngữ văn chúng tôi ưu ái hơn, đã viết kín hai tờ. Sau đó cầm hai tờ báo chữ to đến cửa nhà thầy giáo ngữ văn, nhân lúc thầy ngủ say, chúng tôi bàn nhau dán chỗ nào?

Vốn định dán trên cửa nhà thầy, nhưng trên một cánh cửa dán không hết hai tờ báo chữ to,đành phải dán lên tường hai bên cửa nhà thầy, mỗi bên một tờ.

Sáng hôm sau, thầy giáo ngữ văn này lại khe khẽ kéo tôi ra ngoài tường vây. Tôi cứ tưởng thầy đến cảm ơn, kết quả thày trách tôi, thầy nói tôi không nên dán báo chữ to ở cửa nhà thầy. Đội trưởng đội tuyên truyền công nhân hoàn toàn không nhìn thấy, hơn nữa hàng xóm sẽ cười thầy. Thầy gợi ý tốt nhất dán báo chữ to phê phán thầy trên tường nhà gác có phòng làm việc của đội trưởng đội tuyên truyền công nhân. Thấy tôi gật đầu,thầy lại trách tôi, tại sao lại viết về thầy hai tờ báo chữ to?Các thầy cô giáo khác đều chỉ có một tờ. Tôi bảo thầy, đây là để nâng cao đãi ngộ cho thầy. Thầy lắc đầu:

- Đừng đề cao, bình đẳng, bình đẳng tốt nhất.

- Được ạ - tôi nói – chúng em vất vả một chút, lại viết một tờ báo chữ to mới.

Thầy giáo ngữ văn hỏi tôi:

- Tờ báo chữ to dán ở cửa nhà tôi sẽ làm thế nào?

Tôi giục thầy về xé đi.

- Tôi làm sao dám xé báo chữ to? - Thầy kêu lên, sau đó khẽ bảo – Em thân chinh đến xé đi.

Sau đó lại chỉ đạo tôi, buổi trưa khi em đến cửa nhà thầy xé báo chữ to nên nói vài câu. Tôi gật đầu để thầy yên tâm. Buổi trưa tất cả đều làm theo chỉ thị của thầy. Tay phải thầy xỏ vào túi, lấy ra nửa bao thuốc lá thơm, rút ra một điếu đưa cho tôi. Sau khi quay người đi vài bước, thầy dừng chân quay lại đưa cả nửa bao thuốc cho tôi.

Theo chỉ thị của thầy giáo ngữ văn, buổi trưa trước khi tan học, tôi đem tờ báo chữ to phê phán thầy giáo ngữ văn đã viết dán lên tường nhà gác có văn phòng của đội trưởng đội tuyên truyên công nhân, sau đó dẫn ba bạn học khác của tổ sáng tác “Mầm xuân” đến trước cửa nhà thầy giáo ngữ văn, réo gọi to tên thầy. Thầy ở trong nhà cố ý lê nhẹ không ra, chờ khi hàng xóm láng giềng đều chạy ra xem ầm ĩ, thầy mới gật đầu khom lưng đi ra. Tôi dùng lời buổi sáng thầy dậy tôi quát thầy:

- Thật thà nghe đây,chúng tôi đã viết một tờ báo chữ to phê phán tôn nghiêm đạo thầy về ông sâu sắc hơn, dán trong trường học, ông mau mau đến xem.

Thầy đáp lời đi về phía trường học. Chúng tôi xúm lại xé hai tờ báo chữ to dán ở cửa nhà thầy, vừa xé vừa giải thích với hàng xom nhà thầy, hai tờ báo chữ to này viết không sâu sắc, tờ báo chữ to mới viết dán ở trường vô cùng sâu sắc, hoan nghênh bà con đến nhà trường chúng tôi đọc.

Sáng tác của tôi ở thời kỳ cách mạng văn hoá kéo dài đến sau năm tôi học cao trung, đột nhiên tôi không hứng thú viết báo chữ to nữa. Tôi thử viết kịch nói, Đây nên là tác phẩm văn học đầu tiên của tôi. Tôi bỏ ra gần như một học kỳ mới viết xong vở kịch nói một màn, khoảng bốn ngàn chữ. Qua mấy lần sửa chữa, tôi đã chép cẩn thận trên giấy ka rô. Nội dung kịch nói là nội dung thịnh hành thời đó, tức là một địa chủ sau giải phóng toàn quốc mất đi tài sản, trong lòng bất mãn như thế nào, định phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nông thôn, cuối cùng bị bần nông và trung nông lớp dưới trí tuệ bắt quả tang.

Tôi có người anh trai bạn học, lớn hơn tôi khoảng mười tuổi. Lúc đó anh ấy là một cây bút đỏ có tên tuổi trên thị trấn nhỏ chúng tôi. Bởi anh có nhiều tản văn và thơ ca, ca tụng đại cách mạng văn hoá đăng trên tạp chí in rô ni ô của nhà văn hoá huyện.

Qua bạn học giới thiệu, tôi may mắn quen biết vị danh nhân này, tôi đã cung kính trình lên anh vở kịch ngắn cuả mình, xin anh phê bình chỉ bảo.

Mấy ngày sau, khi tôi đến thăm anh, anh đã đọc xong vở kịch ngắn cuả tôi, và viết một đoạn dài trong lời bình bằng bút đỏ ở trang cuối cùng. Khi anh trả tôi bản thảo, thái độ hết sức ngạo mạn. Anh bảo ý kiến của mình đã viết trong lời bình phía sau. Anh không nói nhiều nữa, nhưng anh nhấn mạnh một điểm, đó là kịch nói của tôi không có tâm lý nhân vật, hay nói cách khác không có nhân vật tự sự. Anh bảo tôi, tự sự là sức nặng trong sức nặng của sáng tác kịch bản.

Khi tôi cáo từ, anh lấy ra vở kịch nói ba màn anh vừa viết xong không lâu, đề tài giống như của tôi, cũng là câu truyện một địa chủ muốn phá hoại bị bần nông và trung nông lớp dưới phát hiện như thế nào. Khi anh đưa cho tôi một tập bản thảo dây dầy,chuyên yêu cầu tôi chú ý anh đã viết lời tự sự như thế nào trong kịch bản, Anh tự say sưa nói:

- Đặc biết là tự sự của địa chủ, anh viết rất sống động.

Tôi đem bản thảo của minh và của anh về nhà. Trước hết tôi đọc kỹ lời bình của anh đối với bản thảo của tôi. Tôi phát hiện về cơ bản là phê bình, chỉ có câu cuối cùng là biểu dương, anh bảo văn tôi viết coi như trôi chảy. Sau đó tôi đọc kỹ kịch bản của anh. Tôi cảm thấy anh viết cũng xoàng. Anh tự khen mấy đoạn tự sự của địa chủ, đều là những ngôn ngữ kiểu giáo điều địa chủ nghĩ trong lòng muốn phá hoại chủ nghĩa xã hội như thế nào. Cái gọi là sống động của anh chỉ là kèm bên trong những lời chửi bậy bạ mà thôi. Đây là sáng tác tiêu chuẩn hoá thời bấy giờ. Công nhân và nông dân xưa nay không noíbậy chửi bậy, chỉ có địa chủ, phái hữu và phần tử phản cách mạng mới nói chửi bậy. Nhưng tôi vẫn cảm thấy phải khen anh một chầu, xét cho cùng thì anh là cỡ có tên tuổi của thị trấn nhỏ chúng tôi. Có đi có lại mới toại lòng nhau, tôi tìm một cây bút đỏ, viết vào chỗ để trống trong trang cuối cùng của vở kịch ba màn một đoạn lời bình dài. Lời bình của tôi cơ bản là khen, đặc biệt là tôi hết lời tâng bốc lời tự sự của địa chủ trong kịch bản, tôi bảo lơì tự sự hay như thế phải nói là tuyệt vời có một không hai, cuối cùng chỉ phê một câu: kịch tình rời rạc không được chặt chẽ.

Khi tôi trả kịch bản cho anh, ánh mắt anh sáng hẳn lên chờ đợi những lời cung kính và sùng bái của tôi. Tôi nói mấy câu khen hay. Anh cười mấy tiếng hì hì. Sau đó anh nổi cáu, vìanh phát hiện tôi đã dám viết lời bình vào trang cuối cùng kịch bản của anh. Anh phẫn nộ bảo tôi:

- Cậu laị dám viết lời bình lên kịch bản của ta sao?

Tôi có vẻ lúng túng, không ngờ việc làm có đi có lại mới toại lòng nhau của mình lại khiến anh nổi giận. Tôi có vẻ sợ sệt nói:

- Anh cũng viết lời bình trên kịch bản của tôi.

- Đù mẹ mày – Anh gầm lên – Mày là ai? Tao là ai?

Đúng như thế, anh là cỡ có tên tuổi, tôi là kẻ vô danh tiểu tốt Anh đọc đến câu phê cuối cùng của tôi, nổi giận đùng đùng. Anh dơ chân đá tôi một phát, quát tướng:

- Mày đúng là không biết trời cao đất dầy, dám nói kịch tình của tao rời rạc không chặt chẽ.

Tôi vội lùi hai bước nhắc nhở anh, Trong lời bình của tôi còn có lời cung kính. Ạnh cúi đầu đọc đến chố tôi tán tụng lời tự sự của địa chủ, cơn giận của anh giảm hẳn đi. Anh ngồi xuống ghế, anh cũng bảo tôi ngồi. Sau khi anh đọc cẩn thận lời phê bình của tôi. Hình như đã bình tĩnh lại. Anh bắt đầu trách. Anh bảo tôi sau khi dùng bút đỏ viết lời phê bình, anh không thể lại cho người khác đọc kịch bản. Tôi đề nghị anh xé tờ cuối cùng đi, sao lời kết của kịch bản sang giấy mới. Tiếp theo tôi tỏ ý giúp anh chép lời kết của kịch bản sang tờ khác.

Anh xua tay nói:

- Thôi, để tôi tự chép.

Sau đó anh nở nụ cười đắc ý. Anh nói với tôi một cách thần bí, hai cán bộ sáng tác của nhà văn hoá đọc xong kịch bản của anh cứ khen lia lịa, như thủy triều lên. Tôi thầm nghĩ chỉ có hai người tại sao lại có thể khen hay như thủy triều lên. Nhưng tôi giả vờ tỏ ra vui mừng. Anh tiếp tục nói một cách thần bí,hiện nay đội trường đội tuyên truyền công nhân của nhà văn hoá đang đọc duyệt kịch bản, một khi được thông qua,đội tuyên truyền tư tưởng Mao Trạch Đông của huyện sẽ giàn dựng vở kịch này, sau khi diễn năm buổi ở nhà hát kịch, sẽ đưa lên tỉnh thành, tham dự hội diễn văn nghệ quần chúng.

Vị văn sĩ có tên tuổi của thị trấn nhỏ chỉ đắc ý được mấy hôm, sau đó bắt đầu cuộc sóng xúi quẩy. Đội trưởng tuyên truyền công nhân của Nhà văn hoá huyện thời đó là một lão già thô thiển, chỉ học đến tiểu học, sau khi ông đọc những lời tự sự của địa chủ trong kịch bản đã nghiễm nhiên nhận xét vị văn sĩ có tên tuổi của thị trấn nhỏ này là phần tử phản cách mạng chuẩn bị phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đội trưởng tuyên truyền công nhân đã coi lời tự sự tâm lý của địa chủ thành tự sự tâm lý của anh.

Anh trai của bạn học tôi vô cùng oan uổng. Anh giải thích với đội trưởng tuyên truyền công nhân những tự sự tâm lý này là của địa chủ, không phải của anh. Đội trưởng tuyên truyền công nhân, đập tay lên tập kịch bản dày dày, hỏi anh:

- Những chữ nghĩ trong lòng tên địa chủ chẳng phải đều do anh viết ra hay sao?

- Vâng do tôi viết – anh giải thích tiếp – Nhưng...

- Anh viết ra thế này là bụng anh nghĩ thế,- Đội trửơng tuyên truyền công nhân ngắt lời anh không còn cho anh có bất cứ cơ hội nào giải thích nữa.

Vị văn sĩ có tên tuổi của thị trấn nhỏ, chỉ trong một đêm từ một cây bút đỏ trở thành cây bút đen. Trong hai năm sau đó, với thân phận là phần tử phản cách mạng hiện hành, anh thường xuyên xuất hiện trên đài chủ tịch của đại hội phê phán công cộng tổ chức trên bãi tập của nhà trường phổ thông trung học chúng tôi, trước ngực anh đeo một tấm biển gỗ lớn, đầu cúi gằm, ra vẻ rụt rè ngoan ngoãn vâng lời.

Mỗi khi tôi trông thấy anh đứng ở đó, cứ cảm thấy lạnh tóc gáy, Tôi thầm nghĩ thật kinh khủng, may mà tên địa chủ trong kịch bản của tôi không có những lời tự sự tâm lý, may mà lời bình địa chủ tự sự tôi thổi phồng đằng sau kịch bản của anh được anh xé bỏ, không thì có lẽ tôi cũng bị theo đấu trước bàn chủ tịch khi tổ chức đại hội phê phán công cộng.

Thời ấy trên bãi tập của trường phổ thông trung học chúng tôi năm nào cũng phải tổ chức mấy lần đại hội phê đấu, công khai tuyên phán một tên hoặc mấy tên tội phạm giết người, cưỡng hiếp người. Khi mở đại hội xét xử, bao giờ cũng tìm mấy tên địa chủ, phái hữu và phần tử phản cách mạng tham gia theo đấu. Những kẻ theo đấu này trước ngực đeo biển gỗ lớn, xếp thành hàng chữ nhất, đứng hai bên phạm nhân cũng đeo biển gỗ to. Phạm nhân bị trói giặt cánh khỉ, địa chủ, phái hữu, phần tử phản cách mạng theo đấu không bị trói. Đấy là phân biệt giữa phạm nhân và kẻ theo đấu. Không phải mỗi địa chủ, phái hữu và phần tử phản cách mạng đều tham gia mỗi lần theo đấu, chỉ có người anh trai bạn tôi là ngoại lệ. Có thể vì anh là văn sĩ có tên tuổi, chỉ cần có đại hội phê phán công khai là anh sẽ đeo biển gỗ to, cúi gằm mặt xuất hiện trên đài chủ tịch ở bãi tập, hơn nữa vị trí của anh đều cố định,thường là đứng ở cuối cùng bên phải. Anh là kẻ theo đấu hàng đầu của thị trấn nhỏ chúng tôi.

Mấy năm sau, khi tôi bắt đầu chính thức viết tiểu thuyết, bố mẹ tôi vô cùng lo lắng cho số phận của tôi. Từng trải của thời kỳ cách mang văn hoá khiến bố mẹ tôi sợ con trai mình một ngày nào đó cũng sẽ trở thành cây bút đen.

Anh bạn Pankaji. Michenla tinh mắt vô cùng. Anh là một người lắng nghe có trí tuệ. Anh mỉm cười một cách yên tĩnh, thi thoảng cười to, anh cũng yên tĩnh.. Chúng tôi giống như hai người thả câu có ký ức, ngồi bên bờ sông thời gan, để chuyện đã qua đến cắn câu,

Câu chuyện trở về công việc chữa răng đầu tiên của tôi và sáng tác tiểu thuyết từ đó về sau. Ba mươi năm trước,tôi là một thầy thuốc khoa răng. Trong một bệnh viện của thị trấn nhỏ miền nam Trung Quốc, tay tôi cầm cái kìm thép, mỗi ngày nhổ răng dài đến tám tiếng đồng hồ. Công việc của tôi là suốt ngày nhìn mồm người khác há ra. Đó là nơi không có phong cảnh nhất trên đời. Tôi nói với người bạn Pankaji. Michenla. Tôi đã làm công việc ấy năm năm, đã nhổ hơn một vạn cái răng.

Lúc ấy tôi hai mươi tuổi. Khi ngủ trưa tôi thường đứng trước cửa sổ hè phố sát bệnh viện, nhìn đường phố huyên náo bên dưới, cứ thầm nghĩ đi nghĩ lại một ý nghĩ đáng sợ, có lẽ nào mình phải đứng đây cả đời?

Chính khi ấy tôi quyết định viết tiểu thuyết. Khi tôi đứng trước cửa sổ, thường xuyên nhìn thấy những người làm việc trong nhà văn hoá đi đi lại lại rong chơi trên đường phố. Trong lòng tôi vô cùng hâm mộ. Một hôm tôi hỏi một người làm việc trong nhà văn hoá.

- Tại sao các bạn không làm gì?

Người ấy trả lời:

- Bọn tôi đi đi lại lại trên đường phố chính là làm việc.

Tôi nghĩ bụng: Công tác như vậy tôi cũng thích.

Nguyện vọng lớn nhất của tôi là được đến làm việc ở nhà văn hoá. Đi rong chơi trên đường phố cũng là công tác. Tôi nghĩ công việc tốt đẹp như thế, ngoài nhà văn hoá ra, có lẽ chỉ có Thiên đường mới có. Trung Quốc thời ấy cá nhân không có quyền lựa chọn công tác. Công tác đều do nhà nước phân phối. Sau khi tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, nhà nước cho tôi làm việc nhổ răng. Nếu tôi bỏ công việc nhổ chữa răng, sang nhà văn hoá làm công tác dạo chơi nhàn nhã cũng đòi hỏi phải được nhà nước cho phép, hơn nữa đầu tiên phải chứng minh mình có tư cách vào nhà văn hoá. Con đường tốt đẹp phía trước thông vào nhà văn hoá là ba lối đi: Một là học biết soạn nhạc, hai là học biết hội hoạ, ba là sáng tác. Đối với tôi, soạn nhạc và vẽ tranh đều phải học từ đầu, khó vô cùng, mà sáng tác chỉ cần biết chữ hán là được. Tôi chỉ có thể chọn sáng tác.

Trong mười năm cách mạng văn hoá, tôi hoàn thành chương trình tiểu học và trung học của mình. Quá trình này khiến sự trưởng thành của tôi phong phú đa dạng. Nhưngvề học tập tôi đã uổng phí thời gian. Tôi còn nhớ khi mình học phổ thông trung học thường hay nghe sai tiếng kẻng vào học và tan học, thường xuyên là khi tiếng kẻng tan học vang lên, tôi đi vào lớp chuẩn bị lên lớp. Chữ Hán tôi nhận biết lúc đó thật ra không nhiều. Nhưng vẫn có thể ứng phó với sáng tác của mình. Nhiều năm sau các nhà phê bình của Trung quốc tơi tới tán dương ngôn ngữ kể chuyện của tôi giản dị trong sáng, tôi đã nói đùa với họ:

- Đó là vì tôi biết chữ không nhiều.

Về sau tác phẩm của tôi được dịch và xuất bản bằng tiếng Anh. Một giáo sư người Mỹ nói với tôi, ngôn ngữ của tôi sau khi dịch ra tiếng Anh, rất giống ngôn ngữ của Hêminhuây, tôi liền xuất khẩu nói đùa của mình sang Mỹ. Tôi nói với giáo sư đó.

- Hêminhuây biết những đơn từ tiếng Anh cũng không nhiều.

Tuy là lời nói vui đùa, nhưng cũng nói lên một đạo lý. Cuộc đời thường như vậy, có khi xuất phát từ điểm mạnh, càng đi càng ngắn, có khi xuất phát từ điểm yếu, lại càng đi càng dài. Nói theo lời Mao trạch Đông: “việc tốt sẽ biến thành việc xấu, việc xấu cũng sẽ biến thành việc tốt”. Nếu cứ tiếp tục câu nói đùa vừa giờ, thì tôi và Hêminhuây có thể đều là loại người việc xấu biến thành việc tốt như Mao Trạch Đông đã nói.

Năm tôi hai mươi hai tuổi, tôi vừa nhổ răng vừa bắt đầu sáng tác. Nhổ răng là để duy trì mưu sinh, sáng tác là để sau này không bao giờ nhổ răng nữa. Lúc đầu, tôi thường cảm thấy viết được một chữ còn khó hơn nhổ một cái răng, Nhưng để được vào nhà văn hoá như thiên đường, tôi buộc mình tiếp tục viết. Thời ấy tôi còn trẻ, để cái mông xây dựng tình hữu nghị lâu bền với cái ghế không phải là chuyện dễ dàng Ngày cuối tuần ánh nắng ngoài cửa sổ sáng láng, con chim đang bay liệng, các cô gái cười lanh lảnh, các bạn cùng trang lứa đều chơi bời vui đùa ở ngoài kia. Một mình tôi ngồi khô cứng trước bàn, như thợ rèn rèn sắt, dốc sức viết hết chữ nọ đến chữ kia cứng nhắc.

Sau đó thường hay có bạn trẻ hỏi tôi:

- Làm thế nào mới có thể trở thành một nhà văn?

Tôi trả lời chỉ có một từ là “sáng tác. ”Sáng tác giống như một từng trải, nếu một người không từng trải cái gìthì sẽ không hiểu được cuộc sống của minh. Cũng như thế, nếu một người không đi sáng tác sẽ không biết mình có thể viết ra được cái gì.

Tôi rất nhớ đầu những năm một chín tám mươi, cách mạng văn hoá vừa chấm dứt, một số tạp chí văn học bị cấm đoán trong mười năm cách mạng văn hoá lần lượt được in ấn trở lại, còn có càng nhiều những tạp chí văn học mới ra đời. Một Trung Quốc hầu như không có tạp chí văn học bỗng chốc trở thành một Trung Quốc có hơn một ngàn tạp chí văn học. Vậy là hàng loạt bản văn học đều giống như đứa trẻ đói sữa đòi bú khóc oe oe. Lúc đó những nhà văn đã từng công bố tác phẩm, cho dù đã có tên tuổi hay chưa có tên tuổi, toàn bộ tác phẩm họ viết ra vẫn không thể lấp đầy những ấn phẩm văn học nhiều như vậy. Vì thế mọi ban biên tập đều đọc cẩn thận bản thào tự do, một khi phát hiện tác phẩm hay, họ truyền tay nhau đọc, cả ban biên tập đều vui mừng phấn khởi.

Tôi vừa may gặp thời đại tốt đẹp quan hệ cung cầu tác phẩm văn học và trang in văn học đảo ngược này. Một kẻ nhổ răng của thị trấn nhỏ như tôi không quen biết bất cứ biên tập viên nào của tạp chí văn học, chỉ biết địa chỉ của tạp chí, liền gửi những truyện ngắn mình viết đến hết tạp chívăn học này đến tạp chí văn học kia. Hồi ấy gửi bản thảo không mất tiền, chỉ cần cắt một góc phong bì, chứng tỏ với bưu điện toà soạn tạp chínhận trả tiền cước, hơn nữa tạp chí văn học nếu không sử dụng truỵện ngắn của tôi sẽ trả lại bản thảo. Sau khi tôi nhận bản thảo trả lại, động tác đầu tiên của tôi là bóc thư, dở ra, lấy keo dán lại, làm một phong bìmới, viết lên trên điạ chỉ của tạp chí văn học khác, lại bỏ vào thùng thư bưu điện, đương nhiên tôi không quên cắt góc phong bì.

Mấy bản thảo truyện ngắn của tôi thời ấy đã đi du lịch miễn phí giữa các thành phố của Trung Quốc. Chúng luôn luôn trở về bên tôi, lại được tôi luôn luôn tiễn đi. Những thành phố bản thảo viết tay của tôi đi qua, còn nhiều hơn những thành phố tôi đã đi qua hơn hai mươi năm về sau. Bản thảo trả về đều là những phong bì vừa dầy vừa nặng. Hồi ấy gia đình tôi có một cái sân nhỏ. Người đưa thư của bưu điện lần nào cũng vứt bản thảo trả về của tôi từ ngoài vào qua tường vây. Bản thảo dầy dầy khi rơi xuuống kêu rất to, bố tôi ngồi trong nhà không cần đứng dậy ra sân xem, liền biết cái gì vứt vào. Ông gọi to tên tôi:

- Bản thảo trả về!

Sau đó không lâu, quan hệ cung cầu giữa tác phẩm văn học và trang in văn học đã thay đổi theo một chiều hướng khác. Đi đôi với các nhà văn có tên tuổi và chưa có tên tuổi càng ngày càng nhiều như hoa nở mùa xuân, trang in của tạp chí văn học không còn là những đứa trẻ đói sữa khóc bú, rất nhanh chóng lớn thành các cô gái xinh đẹp, trở thành những mục tiêu theo đuổi điên cuồng và cạnh tranh quyết liệt, còn văn học cũng từ đỉnh cao chói lọi bắt đầu tụt dốc. Thời gian tốt đẹp mất đi trong nháy mắt. Toà soạn tạp chí trút khỏi gánh nặng, không nhận và trả bản thảo miễn phí nữa, họ đã tơi tới ra thông báo, một là tác giả gửi bản thảo phải trả tiền, hai là toà soạn tập chí không còn trả laị bản thảo.

“Văn học Bắc Kinh” là ban biên tập tạp chí văn học đầu tiên tôi đã từng đến Trong một ngôi nhà lớn kê đầy bàn làm việc theo ven tường, các biên tập viên ngồi yên tĩnh đọc bản thảo gửi đến. Trên bàn của họ xếp đầy bản thảo của các tác giả không biết tên. Tôi đã nhìn thấy họ dùng kéo cắt phong bì lấy bản thảo bên trong ra xem kỹ. Thời ấy tôi chưa được đăng tác phẩm nào. Năm thứ hai sau khi truyện ngắn của tôi lục tục được in, tôi lại đến mấy ban biên tập của tạp chí văn học hoàn toàn là một cảnh tượng khác. Trên bì thư bản thảo gửi đến trên bàn đều viết tên biên tập viên, đều là bản thảo của tác giả gửi các biên tập viên quen biết, còn hàng loạt bản thảo của tác giả không biết tên bị vứt trong sọt giấy lộn, ngay đến thư cũng không bóc,cứ để cho người thu thập phế phẩm dọn đi bán giấy lộn, biến thành bã giấy trong nhà máy giấy, rồi lại tạo ra giấy bản thảo mới. Từ thời ấy tôi đã nhận ra, đã không có biên tập viên đọc cẩn thận bản thảo tự do gưỉ đến.

Từ đó về sau, một người trẻ tuổi yêu chuộng sáng tác, cho dù tài hoa tràn trề, cho dù viết ra tác phẩm ưu tú, nếu không quen vị biên tập văn học nào đó, sẽ rất khó có cơ hội xuất bản. Hiện thực tàn khốc như thế kéo dài rất nhiều năm, mãi cho đến khi văn học mạng trỗi dạy ở Trung Quốc. Hình thức phát biểu mới trỗi dạy, cuối cùng đã khiến người trẻ tuổi có tài hoa có thể đội đất mọc lên.

Hiện giờ nhớ lại tình cảnh ban đầu tôi vui mừng mình đã bắt gặp vĩ thanh của một thời đại tốt đẹp. Nếu tôi chậm hai năm viết tiểu thuyết, tôi nghĩ sẽ không có biên tập phát hiện ra tôi trong đống bản thảo tự do chất như núi, vậy thì tôi lúc này vẫn cầm cái kìm thép nhổ răng dài tám tiếng đồng hồ trong bệnh viện của thị trấn nhỏ phương nam Trung Quốc.

Sự thay đổi của số phận tôi đến từ một cú điện thoại tháng mười một năm một ngàn chín trăm tám mươi ba. Thị trấn nhỏ của chúng tôi vừa bước sang mùa đông. Một buổi chiều khi sắp hết giờ làm việc, một cú điện thoại xa xôi gọi tìm tôi.

Lúc ấy bệnh viện chúng tôi chỉ có một máy điện thoại đặt ở trong phòng ghi sô dưới gác. Đó là chiếc máy điện thoại quay tay, thông qua máy tổng đài chuyển số, mà cả huyện chúng tôi cũng chỉ có một máy tổng đài ở trong cục bưu điện. Đồng nghiêp chịu trách nhiệm ghi số của bệnh viện chúng tôi, sau khi nhận được cú điện thoại này, chị chạy ra phố lớn nhìn lên cứa sổ phòng khoa tôi gọi to tên tôi, bảo tôi có điện thoại tìm gặp.

Khi tôi xuống gác,cứ ngỡ một bạn nào đó trên thị trấn nhỏ goị đến, hẹn tôi tối nay chơi tú lơ khơ. Nhưng khi tôi cầm điện thoại nghe giọng của cô gái tổng đài bảo tôi là một cú điện thoại đường dài đến từ Bắc Kinh. Lúc ấy tim tôi đập thình thình, cảm thấy một sự việc vĩ đại sắp xảy ra.

Lúc ấy điện thoại đường dài đã tiếp thông chỉ cần chờ một chút xíu. Khi cô gái của tổng đài trong huyện chúng tôi bảo tôi có điện thoại đường dài từ Bắc Kinh. Tôi đoán cú điện thoại này vừa tiếp đến Thượng Hải đang theo dây điện thoại trong mùa đông đến thị trấn nhỏ chúng tôi, giữa thời gian ấy còn bị tắc mấy lần. Tôi cầm điện thoại chờ gần nửa tiếng. Giữa lúc tôi tràn đầy hy vọng và sốt ruột chờ đợi, có mấy cuộc điện thoại từ thị trấn nhỏ của chúng tôi gọi đến, cần tìm mấy đồng sự khác trong bệnh viện tôi nghe điện thoại. Dó đó tôi nổi giận đùng đùng:

- Không cho phép anh gọi điện thoại này.

Từ đầu giây bên kia vọng đến giọng ngạc nhiên: “Tại sao?”

Tôi bảo anh ta:

- Tôi đang chờ đợi một cuộc điện thoại của trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc.

Cuối cùng tôi đã nhận được điện thoại đường dài từ Bắc Kinh. Tôi đã nghe thấy giọng bà Chu Nhạn Như. Bà là tổng biên tập thực tế của “Văn học Bắc Kinh” đầu những năm 1980. Trong điện thoại, câu đầu tiên bà Chu Nhạn Như bảo tôi, sáng nay khi đi làm bà đã gọi điện thoại đường dài cho tôi, mãi đến sắp hết giờ làm việc buổi chiều mới gọi được. Bà nói:

- Tôi thất vọng quá, chuẩn bị ngày mai lại gọi tiếp điện thoại đường dài cho anh, nào ngờ đã tiếp thông.

Cả đời tôi không quên được giọng bà lúc ấy. Bà nói thong thả, nhưng tôi cảm thấy bà nói rất gấp. Gịong bà rõ và chuẩn. Bà bảo tôi, ba truyện ngắn tôi gửi cho “Văn học Bắc Kinh”đều sắp sửa đăng, trong đó có một truyện cần sửa một chút. Bà mong tôi lập tức đi Bắc Kinh. Bà nói trong điện thoại, tiền đi đường và chỗ ở do “Văn học Bắc Kinh ”đảm nhiệm. Đây là việc tôi quan tâm nhất. Hồi đó mỗi tháng tôi chỉ được ba mươi sáu đồng nhân dân tệ tiền lương. Bà còn bảo trong thời gian sửa chữa bản thảo mỗi ngày còn được bù thêm tiền đi công tác. Cuối cùng bà bảo tôi: Địa chỉ của “Văn học Bắc Kinh”số 7 Phố Tây Trường An. Bà bảo tôi sau khi đến ga Bắc Kinh nên ngồi xe tuyến số 10. Thật ra bà không biết tôi lần đầu tiên ra khỏi nhà đi xa, nhưng hôm ấy bà nói rất kiên nhẫn rất tỉ mỉ, giống như dặn dò một em bé, nói hết cho tôi mọi chi tiết.

Bỏ điện thoại xuống, tôi quyết định hôm sau đáp tầu hoả đường dài đến Thượng Hải, rồi từ Thượng Hải ngồi tầu hoả đi Bắc Kinh. Nhưng tôi gặp ngay một khó khăn là làm thế nào để gặp viện trưởng của chúng tôi xin phép nghỉ. Tôi cảm thấy ông sẽ không đồng ý cho tôi đi Bắc Kinh. Bởi vì ông không biết tôi đang viết tiểu thuyết. Một gã nhổ răng xin đi Bắc Kinh sửa chữa truyện ngắn của minh quả thật là chuyện lạ. Tôi không đi xin phép trước mặt ông, mà viết một tờ giấy xin phép.

Đến tối tôi gõ cửa nhà một đồng sự nhổ răng trao cho anh giấy xin nghỉ, giặn anh ngày mai sau khi đi làm đưa cho ông viện trưởng giấy xin nghỉ. Lúc ấy tôi đã ngồi trên tầu hoả đường dài đi Thượng Hải. Ông có không đồng ý cũng đã muộn, gạo đã nấu thành cơm.

Nhưng người đồng sự nhổ răng của tôi có vẻ nhút nhát, anh không dám trao giấy xin phép của tôi cho viện trưởng, e viện trưởng trách tội anh. Anh cứ nói đi nói lại, cậu phải đích thân đi xin nghỉ. Tôi bảo anh ấy, sau khi sửa chữa bản thảo ở Bắc Kinh trở về tôi sẽ đem về cho anh mứt hoa quả nổi tiếng ở Bắc Kinh và bánh kẹp phục linh mà Từ Hy thái hậu thích ăn nhất. Anh không nhịn nổi nuốt nước miếng. Đây là món ăn ngon khiến người ta thèm nhỏ rãi thời đó. Anh bạn không ngăn nổi cám dỗ, đã đồng ý hôm sau đem giấy tôi xin phép nghỉ trao cho viện trưởng. Kế hoạch của tôi đã thành công, nói theo lối nói hiện nay đó là hối lộ, nói theo thời kỳ cách mạng văn hoá,đây là viên kẹo bọc đường.

Trong cuối mùa đông năm 1983, từ Hải Diêm đến Bắc Kinh, lần đầu tiên tôi đi vào Ban biên tập “Văn học Bắc Kinh” số 7 phố Tây Trường An giữa lúc nghỉ trưa. Biên tập của tôi tên là Vương Khiết. Chị đã phát hiện ra tôi từ trong đống to đùng các bản thảo tự do gửi đến. Khi tôi đi vào Ban biên tập, Vương Khiết vừa gôị xong đầu, trên mái tóc vẫn còn giọt nước, Chị bảo tôi ngồi trên chiếc xô pha đã cũ. Chị rót cho tôi cốc nước nóng, sau đó chị đi. Một lát sau, một bà già sắc mặt hồng hào đẩy cửa bước vào. Vương Khiết đi theo sau bà. Bà hỏi tôi:

- Cậu là Dư Hoa?

Bà già chính là Chu Nhạn Như. Cảnh tượng này lần nào xuất hiện trong trí nhớ của tôi, bao giờ cũng vô cùng rõ nét như mặt trời mọc.

Bà Chu Nhạn Như qua đời mười chín năm trước. Năm1988,khi tôi và một người bạn đến nhà tập thể Tân Hoa xã ở đường Dương Phường Điếm ở Bắc Kinh thăm bà Chu Nhạn Như đã nghỉ hưu. Đây là lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng tôi đến nhà bà. Nhà bà khiến tôi cảm thấy vô cùng đơn sơ và chất phác. Hôm ấy bà rất vui, giống như lần đầu tiên gặp tôi ở ban biên tập “Văn học Bắc Kinh”. Trên thực tế mỗi lần gặp bà, bà đều rất vui. Kỳ thực bà luôn luôn chịu sức ép đến từ đời sống, Chồng bà sau khi trúng gió đã nằm liệt nửa người, người con gái của bà bị bệnh tâm thần. Tôi tin tưởng sức ép như vậy cũng đánh thẳng vào tinh thần của bà. Nhưng bà vẫn thường tỏ ra rất vui. Sau khi bà Chu Nhạn Như qua đời, một người con gái khác của bà đã kế thừa gánh nặng gia đình, chịu trách nhiệm trông coi săn sóc ông bố liệt nửa người và cô em gái mắc bệnh tâm thần.

Hôm ấy sau khi từ nhà bà Chu Nhạn Như trở về, bà tiễn chúng tôi ra đến tận phố lớn,khi chúng tôi chia tay, bà đã khóc. Khi chúng tôi đừng trên xe bus ra mãi xa quay đầu lại nhìn bà, bà vẫn đứng ở ngã tư tần ngần nhìn chúng tôi.

Lần đầu tiên tôi gặp bà Chu Nhạn Như, từ nét mặt đã già, tôi đã nhận ra vẻ đẹp ngày xưa của bà. Bà đã từng là một thiếu nữ yêu nước tràn đầy lý tưởng cách mạng, trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, bà đi đến Diên An đất thánh cách mạng thời đó. Tôi nghe kể khi ở Diên An, nhiều quan chức cao cấp Đảng cộng sản theo đuổi bà, nhưng người chồng bà chọn là một sinh viên trẻ đi theo cách mạng như bà. Sau năm 1949, chồng bà luôn luôn công tác ở Tân Hoa xã viết tham khảo nội bộ cho thủ trưởng trung ương. Bà nói với tôi, chồng bà đã từng hết sức phong quang, lần nào đi công tác xa ra tỉnh ngoài, đều được lãnh đạo các tỉnh chiêu đãi tử tế, Lãnh đạo các tỉnh ấy đều chỉ mong ông có thể khen mình trong báo cáo gửi cho thủ trưởng trung ương.

Vương Khiết là một biên tập viên quan trọng đầu tiên xuất hiện trong cuộc đời văn nghệ của tôi. Chúng tôi cũng đã có hơn mười năm không liên lạc với nhau. Về sau chị dời khỏi “Văn học Bắc Kinh” đi làm biên tập mấy năm ở một tạp chí có tên là “Kiều”. Đầu mùa đông năm 1989, tôi đến tạp chí ấy vào buổi trưa. Cùng chị ngồi nói chuyện bên cạnh lò sưởi. Mấy năm sau, chi đi khỏi tập chí ấy, sau đấy không biết chị đi đâu. Tôi đã từng nhờ biên tập “Văn học Bắc Kinh” hỏi dò chị, nhưng không ai biết chị ở đâu. Không biết vì sao bây giờ mỗi lần nhớ lại chị Vương Khiết tôi thường có những cảm giác bất tường, nhưng mong tôi là kẻ lo cái không đâu. Đời người có lúc rất giống tiểu thuyết, từ xa lạ đi tới quen thuộc, lại từ quen thuộc đi đến xa lạ, đầy rẫy bất khả tri.

Năm hai mươi sáu tuổi lần đầu tiên tôi đến Bắc Kinh, ở gần một tháng. Bà Chu Nhạn Như yêu cầu tôi sửa kết thúc của truyện ngắn. Kết thúc lúc đầu có vẻ đen tối. Bà đòi tôi sửa thành kết thúc tươi sáng Tôi còn nhớ, bà chưa bao giờ từng biết chủ nghĩa tư bản nói với tôi thời ấy cũng chưa từng biết chủ nghĩa tư bản:

- Xã hội chủ nghĩa là quang minh, chỉ có chủ nghĩa tư bản mới đen tối như vậy.

Chỉ hai ngày tôi đã sửa xong bản thảo, hoàn toàn sửa theo yêu cầu của bà Chu Nhạn Như. Đối với tôi thời ấy, đăng truyện ngắn quan trọng hơn bất cứ chuyện gì. Đừng nói sửa thành một cái kết quang minh, cho dù từ đầu chí cuối sửa thành rạng rỡ như mặt trời cũng không có vấn đề. Bà Như vô cùng hài lòng về sửa chữa của tôi. Bà cứ luôn mồm khen tôi thông minh, sau bà bảo tôi, không nên sốt ruột trở về,hãy nhân dịp này vui chơi cho đã ở Bắc Kinh.

Lúc đó tôi không biết mình sau đó sẽ định cư ở Bắc Kinh. Tôi cảm thấy đây là một cơ hội hiếm có, liền một mình đi chơi khắp nơi ở Bắc Kinh trong mùa đông giá rét. Ngày đó Trung Quốc chưa mở mang ngành du lịch. Tôi lăng quăng ở Cố cung một ngày, chỉ thấy hơn chục người du lịch. Tôi ngồi ô tô đường dài đi Trường Thành, trèo lên đèo Bát Đạt. Gió lạnh ngoài biên giới phả lên mặt, cứ giống như mấy bàn tay luôn luôn tát vào tai. Trên Trường thành tôi chỉ gặp một du khách. Khi tôi leo lên phong hoả đài, ông đang từ trên xuống. Tôi chào ông đề nghị ông cùng tôi lại trèo lên, ông lắc đầu lia lịa, run run nói:

- Lạnh quá!

Khi tôi xuống khỏi Trường Thành trong gió lạnh thổi vù vù, đi vào bến xe nhỏ cũ, vị du khách gặp lúc nãy đang co ro trong một góc, vẫn còn tiếp tục cái run rẩy từ trường thành đem xuống. Xe ô tô đường dài về thành phố vẫn chưa đến. Tôi ngồi cạnh ông, cùng ông run rẩy.

Trung Quốc bây giờ, cứ đến mùa nô nức du lịch, trong Cố cung và trên Trường Thành người đông nghìn nghịt như biển người núi người, nhìn lên không giống như du lịch mà y như mét tinh biểu tình.

Tôi đã đi chơi khắp Bắc Kinh, sau đó dò hỏi Vương Khiết nơi nào đáng đi chơi?Lần nào chị cũng nói một nơi,tôi đều đã đi. Chị cười bảo:

- Dư Hoa nên về đi.

Vương Khiết mua vé tầu hoả cho tôi, sau đó ngồi trước