Chương 4 TRONG VÒNG CUNG HÌNH PHỄU -KỸ SƯ TRƯỞNG CƠ ĐIỆN
Hôm ấy, chúng tôi học tiết địa lý ngay cạnh dàn khoan trên công trường. Người giảng là kỹ sư trưởng. Chú bắt tay các chú thợ khoan lia lịa, rồi giơ tay chào chúng tôi, rất giống tư thế chào của đội viên thiếu niên tiền phong.
Người chú mảnh khảnh, trông bên ngoài có vẻ yếu ớt, nước da hơi xanh, dấu vết chưa tắt hẳn của những trận sốt rét rừng. (Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào thời kỳ ác liệt, chú đã rời vùng mỏ, đi đặt đường ống dẫn dầu ở Trường Sơn).
Chú đưa chúng tôi ra bờ moong. Ở đây, tôi nhìn được toàn cảnh công trường, trong một vòng cung cực lớn hình phễu. Những đám mây trắng, mỏng và nhẹ như lông thiên nga, bay phơ phất ngang sườn núi trước mặt, làm cho những cỗ máy khoan khi ẩn, khi hiện, trông giống những con thuyền đã hạ buồm. Tháp khoan như cột buồm nhô lên, trên màu mây mờ ảo, gợi lên trong tâm trí tôi, những mơ mộng xa xăm. Đó là những cỗ máy khoan xoay cầu hiện đại, mũi khoan được làm bằng thép hợp kim hạng nhất. Vậy mà, đã có nhiều mũi khoan như thế, bị quằn, bị mẻ, khi xoáy xuống những phay đá gan gà, tím ngắt, lầm lì trong lòng núi trước mặt tôi kia. Dưới đáy moong, tôi đếm có đến chín cái máy xúc, nhác trông, có thể ví chúng với những con vịt bầu khó tính, hay động cựa, luôn luôn quay cổ từ bên này sang bên kia.
Từ những chiếc máy xúc dưới đáy, lên đến những máy khoan trên cùng, là con đường vòng, xoáy trôn ốc, không ngớt xe lên, xe xuống. Những chiếc xe ben-la, màu xanh lá mạ, trông như con cào cào, chạy rất nhanh, chở đất đá bóc trên tầng, đổ ra bãi thải. Những chiếc xe gấu, màu đen trũi, trông như con kiến đất, cần cù và chắc chắn, chở than từ dưới đáy moong, chỗ có máy xúc, đổ ra máng ga, rồi từ máng ga, than trút xuống những toa xe lửa, chở ra cảng. Hoàn toàn không trông thấy bóng người. Nhưng tôi biết, con người có mặt ở khắp mọi nơi, trong cái vòng cung hình phễu cực lớn này. Nếu những chiếc xe, lên xuống có khoảng cách gần như đều nhau, trên con đường vòng xoáy trôn ốc, làm ta có cảm giác cái moong này, như một cái đèn kéo quân kỳ ảo, thì những người công nhân, chính là động lực, làm xoay chuyển cả cái đèn đó. Tôi cảm thấy lý thú khi liên tưởng như vậy.
Trong số chín cái máy xúc kia, có một cái do bố Cường lái. Bố Cường - ông Tư Máy Xúc - là một người lái giỏi, có năng suất rất cao. Ông điều khiển hai cánh tay gầu, (mỗi tay gầu bốn mét khối sáu, kể cả đất đá, nặng đến bảy tấn) nhẹ nhàng, linh hoạt, như hai cánh tay múa dẻo của cô văn công.
Cường rỉ tai tôi:
- Đằng ấy có biết chuyện này không?
- Chuyện gì? - Tôi tò mò hỏi.
- Chuyện máy xúc xúc máy xúc.
Tôi thành thực nói là tôi không biết.
Cường nháy một bên mắt, có vẻ vừa đoán xem, tôi nói như thế có thật hay không, vừa có ý chế nhạo tôi. Rồi nó kể:
- Mấy năm trước... à, ngày xửa ngày xưa, có một lần mưa to quá, lại mất điện, máy xúc chạy lên không kịp, bị ngập. Lúc đầu, thì ngập trong nước, sau rồi ngập trong bùn. Khi nước được máy bơm hút cạn, không ai trông thấy máy xúc đâu. Người ta nhớ vị trí cũ của nó, nhưng đào ngoáy mãi, vẫn không thấy. Nó biến đi đâu rồi. Làm sao nó lại tự di chuyển khá xa trong bùn được? Lạ thật! Cuối cùng, một chiếc máy xúc khác, xúc bùn đất lên xe, thì xúc ngay vào đầu "anh chàng". "Anh chàng" ngoi cái cổ lên, trông như con ngỗng khổng lồ bị chôn sống vậy...
Tôi hỏi:
- Ai kể cho cậu?
- Bố mình. Bố mình gửi thư về. Dạo ấy, mình học lớp ba sơ tán ở quê. Cái thư mình còn thuộc lòng. Giờ kể chuyện ở lớp, cô giáo bảo mình kể, thế là mình cứ đọc luôn cái thư cho cả lớp nghe.
Chẳng biết kỹ sư trưởng đang nói điều gì với thầy giáo tôi, mà tay hai người cứ nắm chặt lấy nhau. Thầy phác một cử chỉ, chúng tôi hiểu là cần phải quây gọn lại. Chúng tôi ngồi bên cây cột điện bằng sắt, lực lưỡng. Trước mặt là đáy moong, ở trên nhìn xuống, cứ mờ mờ ảo ảo như một cái hang động lạ lùng nào đó, thấp thoáng bóng xe và máy xúc. Sau lưng, là con đường rẽ ba, lối xuống phố, lối ngoặt ra đầu đường bãi thải, lối lên tầng khoan, xe chạy cứ như mắc cửi. Bụi bốc lên mù mịt. Kỹ sư trưởng nói:
- Hằng ngày, chúng ta phải bơm ra biển, hàng ngàn mét khối nước. Và đấy, các cháu trông - chú giơ tay chỉ - chúng ta phải bơm chuyền.
- Y như ta tát nước gầu sòng, chuyền nhau ở đồng bằng vậy. - Thầy giáo tôi nhận xét.
Chắc là rất thích hình ảnh ấy, chú kỹ sư bỗng nhảy lên một bước, tí nữa thì xéo vào cái chân cò đang duỗi dài ra của thằng Cường. Chú túm lấy tay thầy giáo tôi, rồi nói to:
- Y như tát nước chuyền nhau bằng gầu sòng ở đồng bằng. Làm ăn như thế, thì không thể nào nước giàu dân mạnh được.
Chú nói tiếp:
- Chúng ta đã tính toán được, sức đẩy của nước, từ dưới lòng moong, sức nén của máy, đang hoạt động, xuống mặt phà, kể cả sức dồn của ba cột nước cao chín mươi tư mét, nếu máy đột ngột dừng lại, vì bất cứ lý do nào. Chúng ta cũng đã có những con số về lượng mưa để lại từ hơn năm mươi năm nay. Nghĩa là, chúng ta có đủ cơ sở khoa học, để chế tạo phà bơm, bơm hết được nước đáy moong, dù trời mưa với lượng nước lớn như thế nào. Nghĩa là, ngay dưới trời mưa, ngay sau ngày bão, chúng ta vẫn có thể xúc lên được những tấn than, ở độ sâu sáu bảy mươi mét dưới mực nước biển và ở ngay bên cạnh biển...
Giọng chú nhẹ nhàng, thanh thoát, có những âm tiết chú nhấn mạnh, lại có những âm tiết chú nói thoảng như gió. Thằng Cường bảo rằng, những người biết chơi đàn vi-ô-lông và hiểu âm nhạc thường có giọng nói du dương như thế. Không biết có đúng không? Chú gợi lên trong chúng tôi, những gì khao khát đến táo bạo. Và tất cả, mới chắc chắn làm sao, mới giản dị làm sao.