← Quay lại trang sách

Phần I (Phóng Sự)

HỐI HẬN...

Viên thông ngôn lên tiếng dõng dạc quát:

- Nguyễn Thị Thanh.

- Dạ.

Nguyễn Thị Thanh, từ tốn bước ra trước vành móng ngựa. Nung núc những mỡ, Thị Thanh chỉ được cái tên là thanh. Bộ mặt ngăm ngăm đen có vẻ đanh đá của thị hình như ta thường được ngắm nghía, thưởng thức ở đầu chợ Đồng Xuân thì phải.

Thị ăn nói ung dung, không có vẻ sợ hãi, chốc chốc lại liếc ông chánh án, vì với ông chánh án, thị là một người quen lung lắm. Thị đã giáp mặt ngài nhiều lần về tội cắt túi rồi. Lần này, thị ra trước tòa vì một lẽ cao thượng hơn: thị muốn rửa sạch cái quá khứ xấu để phô lòng trong sạch của một cô con gái lương thiện với quan chánh.

Thị không ngần ngại thú tất cả. Thị đã nhận xui thầy ký Phạm Ngọc Oanh ở sở căn cước ăn cắp những giấy má biên tên tuổi và án từ của thị rồi đốt đi.

ÔNG CHÁNH ÁN - Mày hứa cho người ta những gì?

THỊ THANH - Bẩm, con thấy thầy Oanh áo rách, con thương con có hứa may cho thầy ấy một bộ quần áo tây.

ÔNG CHÁNH ÁN - Còn hứa gì nữa không?

Thị Thanh mặt đỏ bừng cúi đầu đáp lại:

- Bẩm... không.

Thầy ký Oanh, người nhỏ nhắn gầy gò, mảnh khảnh trong chiếc áo the tàng, đứng nhu mì như một cô gái ở bên cạnh Thị Thanh.

ÔNG CHÁNH ÁN - Còn anh, anh có nhận tội không?

THẦY KÝ OANH- Bẩm, con trót dại, quan thương con. Con còn trẻ người non dạ. Thị Thanh lại hứa cho con một bộ quần áo tây...

Vẻ mặt thầy ký Oanh lúc đó mơ màng, chắc thầy tơ tưởng đến bộ quần áo mới. Mắt thầy hoa lên, nhìn thấy toàn màu rực rỡ: nào những lúc đi lượn phố, bộ áo đẹp lọt vào mắt xanh những gái tân thời, nào những lúc xuống xóm chị em, vênh vang hãnh diện...

Đó là không kể đôi má bánh đúc của Thị Thanh, tuy không đổ quán xiêu đinh, nhưng cũng làm xiêu lòng thầy và đốt cháy được mấy tờ giấy quan trọng của sở Đo.

ÔNG CHÁNH ÁN - (tủm tỉm cười) - Thế anh đã được bộ quần áo tây chưa?

THẦY KÝ OANH - Bẩm, nào có được. Thị Thanh đánh lừa con, chẳng cho con gì sốt. Vì thế con đã thú nhận cả. Con hối hận lắm...

ÔNG CHÁNH ÁN - (vẫn tủm tỉm cười) - Anh hối hận... Anh hối hận vì không được bộ quần áo, phải không?

THẦY KÝ OANH (như không nghe thấy) - Bẩm, con hối hận lắm...

Nói đến đây, thầy bỗng im bặt, con mắt mơ màng như nghĩ đến bộ quần áo thầy sẽ được vận thay cho bộ quần áo tây đẹp của ai đã hứa... bộ quần áo số.

Thầy giật mình tỉnh giấc mơ lúc quan tòa tuyên án phạt thầy và Thị Thanh mỗi người hai năm tù.

Hai năm tù: thầy đứng lặng lẽ, cái lặng lẽ của người thất vọng.

Thầy đâu biết, chỉ cái liếc dao cau của người đàn bà mà vua chúa xưa kia có người mất nước. Vậy thì vì Thị Thanh mà thầy phải ăn no nằm dài trong hỏa lò, tưởng cũng không phải là quá đáng.

Chỉ giận cái liếc của cô ả Thị Thanh còn hơi kém cái liếc khuynh quốc khuynh thành của nàng Tây Thi một chút.

MỘT VIỆC QUAN TRỌNG

Tòa mất một buổi để xét việc này. Ba ông trạng sư hùng hồn cãi cho bị cáo - tiên cáo nhân (vừa là bị cáo, vừa là tiên cáo). Ai cũng tưởng là một việc rất quan trọng.

Mà thật là quan trọng. Hai bà cãi nhau, rồi xô xát nhau, rồi chửi rủa nhau, rồi túm tóc nhau... Rồi hai người đều bị trọng thương: một người hơi sây sát tay, còn một người thấy mệt mỏi trong mình.

Phùng Thị Mỹ, người nhỏ nhắn, con mắt sắc sảo đanh đá trong khuôn mặt tròn, hầm hầm nói:

- Hôm ấy, tôi gặp nó ở nhà bà Quảng Lợi. Nó bảo tôi rằng chính nó sai em chồng nó chim chồng tôi để cho tôi uất tôi chết, nó mới hả.

ÔNG BIỆN LÝ - Thế bây giờ bà nói ra được, bà đã hả chưa?

THỊ MỶ - Hôm ấy, tôi có một mình, tay tôi lại ẵm con, nó chửi tôi chán, rồi nó lại lấy ô đánh tôi bị thương, hiện có giấy đốc tờ làm chứng.

ÔNG CHÁNH ÁN - Thế thì chị có đánh trả người ta không?

- Thưa không, Nó vu oan cho con đấy ạ!

ÔNG BIỆN LÝ - Nếu nó đánh chị mà chị không đánh lại, thì chị là người ít có. Chị có túm tóc nó không?

- Bẩm... không.

Nguyễn Thị Tý, người địch thù của Thị Mỹ, khuôn mặt giấu kín trong chiếc khăn vuông thâm, chỉ để lộ ra cái mũi tẹt và cặp môi dày, thỏ thẻ:

- Bẩm quan lớn, Thị Mỹ tự nhiên nó chửi con, rồi nó lại đâm con vào mắt...

- Thế chị không đánh lại chứ?

- Vâng.

- Biết mà! Thế chị có cám ơn người ta không?

Thị Tý không hiểu, đứng im, nhìn cái vành móng ngựa.

ÔNG CHÁNH ÁN (kết luận) - Thị Mỹ không đánh Thị Tý, Thị Tý không đánh Thị Mỹ. Chẳng ai đánh ai cả. Còn những vết thương nhẹ của cả hai người, hẳn là tự nhiên nó nổi lên.

Đỗ Thị Dần, em dâu thị Tý, người mà Thị Mỹ đổ cho cái tiếng cướp chồng mình, lạnh lùng đứng lên:

- Thế nào, chị có đánh chị Mỹ không?

Bộ mặt lưỡi liềm của Thị Dần rung động, cặp mắt to và sâu càng thêm to và sâu. Thị Dần sồn sồn nói:

- Bẩm, nó giá họa cho tôi. Hôm ấy tôi ốm nằm ở nhà. Nó là em họ tôi, chồng nó là em rể tôi, tôi không dính dáng gì với chồng nó cả.

ÔNG TRẠNG SƯ (của Thị Mỹ) - Thế làm sao Thị Mỹ lại bắt được ảnh chị ở túi áo chồng?

Chị Dần càng the thé lên:

- Ngày xưa tôi chơi với nó, nó lấy ảnh tôi nhét vào túi chồng nó để vu oan cho tôi chứ gì?

- Bây giờ chồng Thị Mỹ có lại chơi nhà chị luôn không?

- Tôi ở với anh tôi, chồng nó đến chơi với anh tôi, chứ đến gì với tôi.

À ra vậy. Thị Mỹ là con người đa nghi. Mà quan tòa cũng là người đa nghi nốt. Không tin lời Thị Mỹ, Thị Tý, ông cho gọi các người làm chứng vào khai. Chín, mười bà giơ tay thề nói thật: bà thì bảo Thị Mỹ có đánh Thị Tý, bà thì báo Thị Tý có đánh Thị Mỹ, bà thì bảo chẳng ai đánh ai cả...

Thành Thị Tý có đánh Thị Mỹ, mà lại không đánh Thị Mỹ. Thị Mỹ có đánh Thị Tý, mà lại không đánh Thị Tý. Thật là một vụ nghi án rất quan trọng.

Làm cho tôi lại tiếc đến chế độ thời xưa; hễ có đám cãi nhau, phết cho mỗi người ba roi, rồi thả về.

Tuần sau, tòa tuyên án tha bổng cho Thị Mỹ lẫn Thị Tý. Thế là hai người cùng không mất thể diện, vui vẻ ra về... đợi đến lần sau.

CHỈ VÌ CON CHÓ SĂN

Bùi Độ Diễm, có một bộ mặt gân guốc bướng bỉnh của một anh bếp hầu một viên đội Tây, phải buộc vào tội thóa mạ viên chức nhà nước lúc đương hành sự.

Chắc Diễm thường được trông “quan” đội, mà Diễm được cái hân hạnh làm bếp ra uy hống hách với bọn lính ở dưới quyền “quan”, nên Diễm coi thường bọn “phú lít’’ mà Diễm nhầm là lính tập.

Sự nhầm lẫn ấy đã đưa Diễm ra trước Tòa.

- Bẩm, con không dám đánh ông ấy ạ.

ÔNG CHÁNH ÁN - Thế sao áo người ta lại rách?

BÙI ĐỘ DIỄM - Bẩm tại ông ấy ngã xe đạp. Thấy xe đạp con không có đèn, ông ấy đuổi con, chặn đường thế nào lại húc ngay phải vệ đường, ngã sóng soài ra. Nếu con không đến đỡ dậy, thì ông ấy bắt thế nào được con.

ÔNG BIỆN LÝ - À, ra làm ân nên oán đấy.

Vũ Văn Tư, người nhỏ và gầy, co ro trong chiếc áo bành tô rộng, để ý lắm mới trông thấy bộ mặt hốc hác, có vẻ khó khăn. Giá thử đem để bên một viên đội xếp bên Anh hay bên Mỹ thì vị tất đã cao quá đầu gối họ. Trông bộ dạng viên “phú lít” Tư, người ta mới hiểu cái thái độ quật cường của Diễm.

- Hôm ấy, tôi ‘‘xe vít” ở phố “Dôlăng”, tôi thấy “oong anh đi dền” lúy đi xe đạp không có ‘‘luy me”.

VIÊN THÔNG NGÔN - Biết tiếng Tây thì cứ nói tiếng Tây, bằng không thì nói tiếng ta, chứ đừng bắt chước ông nghị "phút a la po óc” như thế (cử tọa cười).

VŨ VĂN TƯ - Vâng (chỉ vào Diễm). Tên này đi xe đạp không có đèn, tôi bắt mang về bót, rồi nó đưa tôi về nhà nó ở phố Sinh Từ. Về đến đấy, nó chạy thẳng vào nhà, cho vợ ra "xin” tôi. Tôi không nghe, nó bèn ra sừng sộ đấm tôi hai cái vào ngực, vỡ cả đồng hồ, gẫy cả bút chì, rồi nó giật cuốn sổ tay của tôi lủi vào nhà mất.

Tư phanh áo bành tô, chỉ vào chỗ áo rách, lấy cái bút chì gẫy và móc cái đồng hồ quả quýt vỡ mặt kính để lên tay:

- Đây quan xem. Tang chứng còn rành rành ra đây.

ÔNG BIỆN LÝ - Đồng hồ và bút chì của anh bị thương, còn anh có bị thương không?

VŨ VĂN TƯ - Bẩm không việc gì. Duy nó bảo con là đồ chó săn, nên con xin quan tòa làm tội nó.

BÙI ĐỘ DIỄM - Bẩm quả thực con oan. Con không bảo ông ấy là chó săn. Còn cuốn sổ tay, ông ấy đánh rơi xuống đất, vợ con nó nhặt nó đem giả, thế là chúng con tử tế lắm rồi...

ÔNG CHÁNH ÁN - Dễ thường anh đợi người ta cám ơn anh nữa chắc? Anh còn điều gì nói nữa không?

BÙI ĐỘ DIỄM (ngập ngừng) - Bẩm... quan đội con thường bảo ở bên Pháp, phú lít, mật thám lại thích cho người ta gọi là chó săn tốt, phanh li mê “xin limier” (cử tọa cười).

ÔNG CHÁNH ÁN - Đây không phải ở bên Pháp. Bốn mươi quan tiền phạt.

Lần sau, trước khi dùng chữ dịch, chắc Diễm phải nhớ rằng mình ở bên An Nam.

ÔNG LANG TÂY TRÁI PHÉP

Cổ quấn cái “Phu la" nâu, mình vận chiếc áo tây tàng, Lê Văn Quang không có vẻ gì là một ông thầy thuốc có danh, vẻ mặt xương xương, hốc hác như người ốm lao, vậy mà Quang giả danh làm đốc tờ cũng được nhiều người tin, thì cũng nên buồn hộ các ông lang tây.Quang xưa kia đã từng làm “anh phia mê”

“anh phia mê”.( infirmier= Y tá)

Anh ta nhắc lại cái công nghiệp vĩ đại ấy một cách tự đắc lắm, đã từng trông thấy vô số đốc tờ tiêm thuốc cho bệnh nhân. Anh ta nhận ra rằng tiêm không có gì là khó cả. Cho thuốc vào ống tiêm, rồi cắm vào đùi, vào mông người ta, thì ai làm chẳng được nên anh ta cũng bắt chước chơi. Trước mặt tòa, anh ta chối biến.

LÊ VĂN QUANG - Tôi có cho thuốc người ta đâu. Người ta đến xin tôi thuốc uống, thì tôi đã bảo họ, tôi không phải là thầy thuốc.

ÔNG BIỆN LÝ - Nhưng anh có viết cho người ta tờ giấy này không?

Tôi đọc cho anh nghe:

“Một hộp Gonacrine’'

“Một hộp lodaseptine”

“Giá hai hộp thuốc tiêm độ năm đồng’’.

LÊ VĂN QUANG - À đấy là một người đến nói với tôi rằng mắc bệnh lậu nên xin tôi cho biết thức uống nào dùng để chữa. Tôi thương tình, tôi mới viết cho tờ giấy ấy.

ÔNG CHÁNH ÁN - Anh giàu lòng nhân đức nhĩ. Nhưng anh thương tình người ta mà cho thuốc, chắc người ta cũng thương tình mà vi thành cho anh ít nhiều chứ gì. Nói tóm lại, anh nhận có cho người ta một đơn thuốc.

LÊ VĂN QUANG - Tôi không nhận gì cả. Tôi có cho thuốc người ta đâu, người ta khẩn khoản mãi tôi mới biên giúp cho tên hai vị thuốc mà thôi.

ÔNG CHÁNH ÁN (mỉm cười) - Vậy ra anh cho tên thuốc mà anh không cho đơn thuốc. Thôi được, gọi người làm chứng vào đây.

Người làm chứng, Nguyễn Văn Khang, là một người lính mật thám, mặt thô, vai cả ngang, lực lưỡng như một người phu gạo. Lê Văn Quang trông thấy, chắc là tức lắm, hiềm vì yếu ốm, nèn chỉ tím mặt đi.

NGUYỄN VĂN KHANG - Tôi giả làm người có bệnh đến nhờ tên Quang này chữa hộ, hắn ta đòi 15$00 để mua thuốc và tiêm cho...

LÊ VĂN QUANG - Mặt tôi với mặt anh, tôi báo để tôi tiêm cho anh bao giờ. Anh có bệnh lậu tôi làm ơn bảo cho anh tên thuốc, chứ nào tôi đòi tiền gì của anh đâu?

ÔNG CHÁNH ÁN - Anh có lòng thương người như vậy, thì chắc anh cũng đã vì lòng thương người ấy mà tiêm thuốc cho người ta. Nhưng anh thương vừa vừa thì người ta còn sống, chứ anh thương người ta quá mà tiêm mãi cho người mắc bệnh lậu, thuốc Iodaseptine là thuốc chữa bệnh đau phổi, người ta đến chết mất.

Vi lòng thương người quá độ ấy, Lê Văn Quang phải phạt 100 quan.

Đã không lấy làm khổ, Quang lại còn hớn hở đi ra, như lấy làm nhẹ lắm.

Như vậy, hẳn là lòng thương người của Quang cũng nhẹ lắm.

HAI NGHÌN QUAN TIỀN TÂY

Không có gì buồn và chán nản bằng một phiên tòa xử “tù rượu", nghĩa là những người bị cáo về tội buôn rượu lậu. Cũng không có gì làm cho ta nghĩ ngợi bâng khuâng hơn.

Một dãy người khốn khổ, ốm yếu, áo nâu tã, váy đụp, không dám ngồi hẳn lên chiếc ghế dài để riêng cho tội nhân, sợ làm bẩn mất ghế của nhà nước, một dãy người hốc hác, hôi hám như những tang chứng hoạt động của sự lam lũ, nheo nhóc ở nơi bùn lầy nước đọng, trông tưởng như một lũ ma đói hiện hồn lên trách thầm cái phú quý của những người khác.

- Mày có nấu rượu lậu không?

- Bẩm có.

ÔNG CHÁNH ÁN - Phạt hai nghìn quan tiền tây.

Sự thất vọng và tính nhẫn nại đều hiện cùng một lúc lên nét mặt gầy gò, xanh xao của một người nông phu rét run trong manh áo mỏng sờn vai, vá nhiều chỗ. Anh ta đã rời vòng móng ngựa còn quay cổ lại như muốn nói điều gì nhưng có lẽ biết rằng cũng vô ích, nên lại bước chân đi.

- Mày có cơm rượu lậu không?

- Bẩm, con không nấu rượu lậu...

- Nhưng người ta bắt được bả rượu ở nhà mày.

- Bẩm có.

ÔNG CHÁNH ÁN - Hai nghìn quan tiền phạt.

Bị cáo nhân, một bà lão già kêu van.

- Bẩm, con già nua... quan thương cho...

VIÊN THÔNG NGÔN - Già nua mặc kệ, về việc đoan, không ai thương xót đâu ra!

Bà lão thở dài, nước mắt rưng rưng muốn khóc, cố van lơn:

- Bẩm, những hai nghìn, con nghèo khổ, con lấy đâu con giả?

VIÊN THÔNG NGÔN - Tòa xử rồi. Không bằng lòng thì chống án. Đi!

- Đi ra.

Thấy bà lão trù trừ, viên thông ngôn quát:

- Đội xếp đâu! Lôi nó ra.

Người đội xếp sấn sổ lại, kéo bà lão ra ngoài, để đến phiên người khác.

Một người đàn bà, váy đụp, áo tứ thân rách, vừa đứng dậy vừa vạch yếm cho con bú.

- Mày có cơm rượu lậu không?

- Bẩm không.

- Nhưng người ta bắt được bã rượu ở nhà mày.

- Bẩm không, ở ruộng con đấy ạ.

- Thế là đủ rồi.

- Bẩm ruộng con cách nhà con xa lắm. Người ta thù con người ta bỏ vào đấy ạ.

- Có biết ai bỏ không?

- Bẩm không.

ÔNG CHÁNH ÁN - Hai nghìn quan tiền phạt.

Rồi kế tiếp nhau, năm, sáu chục người nhà quê ra chịu tội. Ông chánh án không lần nào phải nghĩ ngợi khi lên tiếng:

- Hai nghìn quan tiền phạt.

*

Sau cùng đến một người gù lưng ra van lạy.

- Bẩm, con tàn tật, tật...

- Tàn tật mặc anh. Có cơm rượu lậu không?

- Bẩm có.

- Anh đã bị án hai lần rồi. Sao lại còn bị phạm nữa?

- Bẩm, con chỉ có nghề làm rượu. Con tàn tật, bỏ nghề ấy thì con chết đói mất.

- Không biết. Hai nghìn quan tiền phạt.

MỘT NGƯỜI LƯƠNG THIỆN

Trông thấy con mắt lươn trắng giã của Thị Hai, người hiền lành, chất phác, đến đâu cũng đoán được là một nhân viên của “làng chạy’’. Tuy cái mũi của thị tẹt hẳn xuống làm cho ta có thể lầm thị với một người nhà quê đần độn, cái môi dưới của thị thưỡn ra không thể không thầm bảo ta rằng thị là người khôn ngoan, quỷ quyệt.

Ung dung, thị đứng trước vành móng ngựa như đứng trước bạn hàng đã quen từ thuở còn lấy tay áo quệt mùi.

Liến thoắng, thị chối:

- Không, tôi mà ăn cắp thì tôi chết năm đời mười đời nhà tôi

Rồi thị nhìn hết ông biện lý và ông quan tòa, đến viên thông ngôn để xem sự kiến hiệu của lời thề. Nhưng hình như thị cũng biết là vô nghĩa. Thị liền xoay phương kế:

- Tôi thấy bà ấy đánh rơi tờ giấy năm đồng thì tôi nhặt, chứ tôi có ăn cắp đâu.

- Chị bắt được thì chị đem đi đâu?

- Dạ, tôi định đem lên cấm. Nhưng đến chợ Đồng Xuân thì tôi bị kẻ cắp nó lần túi mất.

ÔNG BIỆN LÝ (mỉm cười) - Chị có cái may lạ lùng, nhặt được năm đồng chỉ có tội nhân là có những cái may ấy, mà lại có cái không may lạ lùng là để cho kẻ cắp nó lấy mất. Sự thực là chị đã đem mua cái khăn nhiễu tam giang và hai cái yếm nhất phẩm hồng còn mới nguyên người ta bắt được trong người chị. Hay là đồ vật ấy chị cũng nhặt được nốt?

- Bẩm, vâng ạ.

Câu trả lời dẻo như kẹo. Thị Hai thật chỉ coi có chị là thông minh, còn thì ngu độn hết, từ ông quan tòa đến bà Phạm Thị Giư, người mất của.

Bà Phạm Thị Giư vẻ mặt ngây thơ, hai con mắt hiền lành như mắt thỏ, thúng thắng kể:

- Hôm ấy, tôi gặp chị này ở phố Hàng Đường, tôi hỏi thăm chị ta đường đi về Hàng Bồ. Đi được một quãng, chị ta quay trở lại hốt hoảng bảo tôi:

“Tôi vừa thấy ăn cắp Nó nắn túi...” ‘‘- Không... Chị ta liền ra hiệu cho tôi biết, rồi vừa nắn túi áo tôi vừa nói: “Đây này. Nó nán thế này này”. Rồi chị ta lần đến túi áo trên mà nói ‘‘Rồi nó lần như thế này này”.

Đoạn, chị ta bỏ tôi mà đi. Tôi ngờ ngợ, hơi lấy làm lạ rằng người tử tế lại nắn túi áo tôi. Tôi lần vào túi thì lấy làm lạ hơn: tôi có tờ giấy năm đồng Nó biến đâu mất rồi”.

ÔNG CHÁNH ÁN - Tôi thì tôi lấy làm lạ rằng bà thấy mất số tiền ấy mà bà lại lấy làm lạ.

Chỉ có Thị Hai là ung dung tự tại, chẳng lấy gì làm lạ cả...

Cả lúc thị nghe tòa tuyên phạt thị mười bốn tháng tù nhà pha.

CÂU CHUYỆN ĂN UỐNG

Sượng sùng bẽn lẽn, Lê Kim Thu ra đứng trước vành móng ngựa. Mặt tròn và lớn như cái bánh xe, đôi lông mày rậm và xếch ngược lên, Lê Kim Thu có vẻ bệ vệ của một “quan phán” nửa cổ, nửa kim. Cái cằm vuông và bộ hàm to lớn như chứng thực cho sức ăn ghê gớm của quan.

Bị lôi ra trước tòa vì tội ăn tiền, “quan phán sở lục lộ” Lê Kim Thu lẽ tất nhiên là thề chí sống chí chết rằng oan.

LÊ KIM THƯ - Thật quả là tôi không sơ múi gì. Hôm ấy hắn đến mời tôi thì tôi ăn...

ÔNG BIỆN LÝ - Ăn tiền chứ gì! (cử tọa mỉm cười).

LÊ KIM THU - Bẩm, ăn tiệc ạ. Rượu xong, định xoay ra đánh tổ tôm cho vui, thì tôi có nhờ hắn đổi hộ tôi cái giấy hai chục, ấy thế là mật thám ập vào bắt tôi, chứ tôi có gì đâu!

ÔNG CHÁNH ÁN - Có gì? Có hai chục bạc chứ có gì nữa? Hai chục bạc của tên Xuân đem lễ anh, vì anh đã cho xe Nó chạy, nhưng không may cho anh, ở ngoài sở mật thám đã lấy số sẵn sàng cả rồi. Bắt được số bạc đó trong mình anh, thì anh trách tên Xuân “xỏ" anh, tố cáo anh kia mà?

LÊ KIM THƯ - Bẩm hôm ấy tôi say. Tôi không nhớ là tôi nói gì nữa.

ÔNG CHÁNH ÁN - Anh say thật à?

LÊ KIM THƯ - Bẩm thật, hắn ép uống một chai rượu bia với một cốc rượu lậu lớn.

ÔNG BIỆN LÝ - Rượu lậu... anh định buộc tội cho tên Xuân chắc. Anh chắc là anh không nhớ đã ăn tiền vì say quá chứ?

LÊ KIM THU - Bẩm chắc.

ÔNG CHÁNH ÁN - Thế sao anh đã nhớ đổi tờ giấy hai chục?

LỆ KIM THƯ - (ngần ngừ) Bẩm... nhớ.

ÔNG CHÁNH ÁN - Anh lại nhớ đã uống rượu lậu?

LÊ KIM THƯ - Chắc chắn, bẩm nhớ.

ÔNG CHÁNH ÁN - Anh nhớ giỏi quá. Thế mà anh say!

LÊ KIM THƯ - Bẩm thực say ạ.

Lê Trường Xuân, người tiên cáo, quả quyết rằng Lê Kim Thu không say một tí nào và hôm đó anh ta đến chỉ cốt để thu vào ví món tiền mà Xuân đã định “vi thiềng” cho anh ta mà thôi.

LÊ TRƯỜNG XUÂN - Bẩm, nếu cứ say như hắn mà ăn hai chục bạc ngon ơ, thì tôi cũng muốn say lắm.

ÔNG BIỆN LÝ - Tôi cũng muốn say (cử tọa cười).

LÊ TRƯỜNG XUÂN - Bẩm, hôm đó hắn ta chỉ uống có một cốc rượu bia con với một chén hạt mít rượu thuốc...

TRẠNG SƯ (của Lê Kim Thu) - Thưa ông chánh án, chính vì chén rượu ngâm thuốc ấy, mà Thu say đến không biết gì nữa. Người An Nam có cái tục đem sừng hươu ngâm vào rượu làm ra một thứ thuốc độc uống phải một hớp cũng hóa say mê mệt đến nổi không nhớ gì cả.

Nghe lời cãi hùng hồn của trạng sư, ông chánh án như có vẻ hơi tin sự kiến hiệu vô song của chén rượu cao Ban long, và nhìn Lê Trường Xuân bằng con mắt ngờ vực.

Muốn phá cái lòng ngờ vực ấy, Trường Xuân chỉ còn một cách là mời ông chánh án nếm thử một chén rượu lậu ngâm cao.

... Nhưng ông chánh án lại không biết và không dám uống rượu lậu.

CẦN PHẢI THÔNG NGÔN

Ở tòa án Tây có trạng sư bào chữa cho người đi kiện, ở tòa Nam án không có. Tòa án Tây, Nam khác nhau về phương diện ấy, các báo đã nói đến, và nhà đương cục cũng đã nghĩ đến. Ta chỉ còn đợi lúc nào nhiều ông chánh án có học qua pháp luật là sẽ được nghe lời hùng biện của những trạng sư An Nam cãi nhau ở trước tòa án đệ nhị cấp.

Nhưng lúc bấy giờ, sẽ có vấn đề khó giải quyết là trạng sư cãi bằng tiếng Pháp hay tiếng Nam?

Cãi băng tiếng Pháp thì tiện cho ông trạng sư tân học, nhưng ta sẽ được thấy một quái trạng: ông trạng sư người An Nam, ông chánh án, ông lục sự người An Nam, hai bên nguyên cũng người An Nam, mà lại nói toàn tiếng Pháp, rồi lại có thông ngôn dịch ra tiếng An Nam để cho chừng ấy người An Nam cùng hiểu.

Chi bằng nói tiếng An Nam quách! Các ông trạng tương lai kia sẽ nói tiếng Nam, chúi mũi vào quyển (Hoàng Việt Tân Luật) để được nói thạo tiếng An Nam, và cô Nguyễn Thị Kiêm có lẽ sẽ xin vào học trường luật.

Nếu vậy sẽ có nhiều cuộc đấu khẩu lý thú ở trước vành móng ngựa của tòa án Nam án. Đây là một ví dụ:

ÔNG TRẠNG SƯ (của người bị cáo) - Trước hết, tôi xin tòa lên vâng án xử nghĩ xem thủ tục hình sự này có đáng thủ tiêu không đã. Tòa đệ nhị cấp, tôi dám nói là không có quyền quản hạt, là vì không phải là tòa án sở tại chỗ khinh tội phát sinh. Và ngài đối với thủ tục có lợi quyền can thiệp đến, thì xin ngài hồi tị, theo điều luật thứ 20 của Bắc Kỳ Pháp viện biên chế.

ÔNG TRẠNG SƯ (của người nguyên cáo) - Bạn đồng nghiệp tôi lầm. Hồi tị là tùy ở tòa. Còn bên bị can đã không xin cáo tị, thì thưa ông chánh án, ngài có quyền thẩm phán vụ thủ tục hình sự này. ‘‘Bị can nhân đăng bố bằng tự chỉ rằng người không tố đã nịnh chức, vì trong lúc mở vé bầu cử, đã bị đương trường phát giác là biên tạo, nghĩa là đã phạm vào điều 101 trong luật hình An Nam. Vậy tôi xin tòa nghĩ phạt bị cáo nhân về tội tá sự mà nói phao để làm mất danh dự và giá trị của con người, theo điều 215 của luật hình. Tôi lại xin tòa trách tên ấy phải bồi cho không tố nhân một đồng bạc để làm danh nghĩa bồi khoản”.

ÔNG CHÁNH ÁN - “Bản nha Chiểu chi người bị can đã bị cư vấn và đã viện lý trần tình để kháng biện;

Chiểu chi, người không tố đã bị chất vấn;

Chiểu chi, chứng cớ không xứng;

Vì các lẻ ấy,

Chuẩn cho bị can nhân được miễn nghị.

Phán thị giao trả những đồ vật đã áp thụ cho người chân chánh sở hữu nhân”.

Đó là những cuộc tranh luận sẽ phái xảy ra... nếu ông chánh án hiểu được lời lẽ bí hiểm của hai ông trạng sư, và nếu hai ông trạng sư hiểu được những danh từ hiểm của quyển Hoàng Việt tân luật bí hiểm.

Hiểu nhau như vậy, tôi chắc sẽ hiếm có lắm. Hiếm có hơn nửa, là người có việc ra tòa hiểu được các ông.

Phần nhiều sẽ không hiểu nhau, hoặc giả muốn cho nhau hiểu, đến phải dịch ra tiếng An Nam.

Vậy ra đằng nào cũng cần phải có thông ngôn.

NHẪN NHỤC

Nguyễn Hân, áo nâu cộc vá vai, lê đôi guốc vỡ ra trước vành móng ngựa. Mặt xám đen, hốc hác, tóc hoa râm: trông những vết răn trên trán, ta có thể đoán phỏng được cái đời lam lũ, vất vả của người cu li xe đã gần hết đời làm nô lệ miếng ăn.

VIÊN THÔNG NGÔN - Bỏ guốc ra! Trong tòa ai cho phép đi guốc!

Ngơ ngác, Nguyễn Hân nhìn viên thông ngôn một cách sợ hãi, như đương đem hết trí khôn ra để hiểu tại làm sao đi giầy tây lộp cộp vào tòa thì đi được, mà kéo guốc vào tòa lại cấm...

VIÊN THÔNG NGÔN (gắt) - Súc vật! Sao không bỏ guốc ra?

Sợ sệt e dè, Nguyễn Hân cúi đầu trước câu chửi rủa, lẳng lặng bỏ đôi guốc ra, rồi cúi xuống cầm lên. Lúc đó, trên nét mặt Hân hiện ra vẻ nhẫn nhục vô cùng, nhẫn nhục như cái kiếp sống đầy đọa của anh ta.

ÔNG CHÁNH ÁN - Anh bị buộc vào tội thiện thủ áo tơi cánh gà của cai xe. Có không?

NGUYỄN HÂN (ngơ ngác) - Thiện thủ? Tôi chỉ có bỏ xe thôi.

ÔNG CHÁNH ÁN - Chính vậy. Anh thuê xe rồi bỏ xe ở phố vắng. Đến lúc cai xe tìm thấy, thì không còn áo tơi cánh gà nữa...

NGUYÊN HÂN - Cái đó, con không biết. Lúc con bỏ, thì trong hòm xe còn đủ cả. Chắc là anh cai xe, anh ấy thù con, anh ấy giấu, rồi đổ riệt cho con. Con oan...

Giọng nói có vẻ thành thực, thiết tha.

ÔNG CHÁNH ÁN - Nhưng vì cớ gì anh bỏ xe?

NGUYỄN HÂN - Bẩm con kiếm không đủ tiền thuế, nếu đem về trả thì anh cai anh ấy đánh con chết mất. Con đi từ hai giờ chiều, đến tối mịt mới được hai cuốc xe. Suốt đêm kiếm thêm được có hai hào thì con biết làm thế nào?

Khóe mắt hơi đỏ, Nguyễn Hân vừa kể lể, vừa hồi tưởng lại cái cảnh tình đau đớn của một người phu xe kiếm không đủ trả tiền cai, buồn bã, lo lắng, sợ hãi cái người chỉ việc ngồi rồi đợi tiền mồ hôi nước mắt của người khác đem đến nộp.

Cái người tốt số ấy là cai Thôn. Cai Thôn đẫy đà to lớn, mặt bánh đúc, điểm hai con mắt lươn ti hí, ra đứng khai một cách mạnh bạo:

- Nó thuê rồi Nó bỏ. Đến lúc tìm được, thì mất cả áo tơi lẫn cánh gà.

- Người ta khai rằng, nếu đem xe về trả thì anh đánh. Có không?

- Không, bẩm thực không.

Câu trả lời dứt khoát, chắc nịch như thế cai Thôn. Nhưng nếu không đánh thì tội gì họ không về. Tuy vậy, luật lệ là luật lệ nặng thì phải chịu. Người phu xe khốn khổ kia bỏ xe, bỏ mất áo tơi cánh gà là phạm tội rồi.

ÔNG CHÁNH ÁN - Hai mươi ngày tù.

Lẳng lặng, Nguyễn Hân cúi đầu trở ra, tay vẫn xách đôi guốc, trên nét mặt thấy hiện ra lòng nhẫn nhục lúc này đã thoáng qua, lòng nhẫn nhục không bờ bến của hạng người đã quen chịu đựng những điều đau đớn, tủi nhục mà họ không hiểu tự đâu họ phải chịu.

NĂM TRĂM BẠC

Xúng xính trong chiếc áo the mới, Nguyễn Văn Cầu, cu li xe, thỉnh thoảng lại liếc nhìn ông Trần Văn Chương, đứng nhỏ xíu ở giữa ghế trạng sư, như anh ta sợ ông trạng sư biến đi mất thì không còn ai bảo vệ cho nữa vậy.

ÔNG CHÁNH ÁN - Anh bị khép vào tội ăn cắp năm trăm bạc, có không?

NGUYỄN VĂN CẦU - Bẩm ăn cắp thì quả con không ăn cắp. Chỉ có ông cụ Vành Thái bỏ quên trên xe con cái ví đựng năm trăm bạc, con đã trót lấy tiêu...

ÔNG CHÁNH ÁN - (mỉm cười) - Lấy của người ta mà tiêu, thế gọi là ăn cắp. Sao anh không đem số tiền bắt được trả lại ông cụ hay nộp lên Sở cẩm?

NGUYÊN VĂN CẦU (thực thà) - Bẩm con nghèo.

Cử tọa cười, ông Chánh án cũng cười. Duy Cầu ngơ ngác lấy làm lạ. Ý giả anh nghĩ làm cu li xe kiết xác mà vớ được năm trăm bạc, bảo đem lên Sở cẩm nộp, thì chẳng khác nào bảo ông Lý Toét đừng toét., bảo ông bang Bạnh đừng có bạnh, hay bảo ông Tôn Thất Bình đừng tán dương ai nữa vậy.

Ông cụ Vĩnh Thái là người mất tiền, có lẽ cũng đồng ý với bị cáo nhân, vì khi người ta gọi vào làm chứng, một nụ cười bí mật nở ra sau bộ râu bạc phơ của ông cụ.

ÔNG CHÁNH ÁN - Anh bỏ quên trên xe của bị cáo nhân một cái ví?

ÔNG VĨNH THÁI - Vâng.

ÔNG CHÁNH ÁN - Trong ví có năm trăm đồng bạc?

ÔNG VĨNH THÁI - Bẩm không. Chỉ có năm đồng thôi.

ÔNG CHÁNH ÁN - (ngạc nhiên) - Chỉ có năm đồng thôi.

ÔNG TRẠNG SƯ TRẦN VĂN CHƯƠNG - Vâng, chỉ có năm đồng.

Cụ Vĩnh Thái từ trước đến giờ vẫn chỉ nhận có thế. Cụ là một nhà giàu ở Hà Nội, năm trăm bạc đối với cụ không là bao, chứ đối với Nguyễn Văn Cầu thì thật là to. Cụ nghĩ như vậy, nên thương Cầu nghèo không nhận mất 500$00 mà Cầu đã nhận là lấy của cụ. Như vậy, ý cụ đã định cho cầu sở tiền ấy, thiết tưởng tòa cùng lượng cho mà làm án nhẹ một người cu li nghèo khổ. Còn số tiền 495$00 kia, cụ Vĩnh Thái đã không nhận thì là tiền vô chủ. Mà đã tiền vô chủ, thì người bắt được đem nộp Sở cẩm hết hạn một năm sẽ có quyền lấy về làm của mình. Vậy xin tòa lên án cho Cầu được cái quyền ấy...

Ngoài cái quyền ấy, tòa lại gia thêm cho Cầu bốn tháng nhà pha. Ở bốn tháng nhà pha rồi được lĩnh số tiền 495$00 về tiêu, nên Cầu bước ra khỏi vành móng ngựa: còn được lũ bị cáo nhân ngồi trong tòa nhìn theo bằng con mắt thèm thuồng.