← Quay lại trang sách

Phần IV

NHỚ, QUÊN

BỐN HÒA mặt bướng và ngu. Trán thấp, mắt lồi, Hòa có cái mũi, ừ, cái mũi đỏ có tia và lớn bằng quả trứng vịt, cái mũi ấy đem ít vẻ khôi hài điểm tô bộ mặt vô duyên của anh ta.

Bốn Hòa bị buộc vào ba tội lớn: có rượu lậu trong nhà, tiêu hủy tang vật và kháng cự viên chức nha thương chính; ba tội lớn gây bởi cái mủi đỏ dị thường kia.

ÔNG CHÁNH ÁN - Anh có nhận không?

BỐN HÒA - Bẩm có.

ÔNG CHÁNH ÁN - Ừ, có thế mới là người biết điều. Có gan ăn cướp thì có gan chịu đòn. Có tội mà thú nhận, thì tòa cũng có thể chiếu tình mà thương được. Chẳng hơn trước kia, anh cứ khăng khăng một mực chối là không nấu rượu lậu.

BỐN HÒA (nghệch mũi lên) - Bẩm, con có nấu rượu lậu đâu?

ÔNG CHÁNH ÁN (ngạc nhiên) - nhà anh không có rượu lậu?

BỐN HÒA (lắc đầu) - Bẩm không.

ÔNG CHÁNH ÁN - Anh không kháng cự viên chức nhà Đoan?

BỐN HÒA - Bẩm không?

ÔNG CHÁNH ÁN (ngơ ngác) - Thế sao vừa rồi anh lại nhận?

BỐN HÒA (thực thà) - Bẩm quan lớn hỏi con có nhận là nghiện rượu không, thì con trả lời là có.

Cử tọa cười, ông chánh án phát gắt:

- Vậy anh nhất định chối?

BỐN HÒA - Bẩm con có chối cãi gì đâu!

ÔNG CHÁNH ÁN (tức mình) - Được, anh ở nhà anh ngủ, không làm gì cả. Vậy làm sao nhà Đoan lại biên tên anh vào biên bản, làm sao người ta lại bắt anh đến đây?

BỐN HÒA - Bẩm - bẩm, người ta cứ biên tên con, cứ bắt con đến thì con làm thế nào được?

ÔNG CHÁNH ÁN (nén giận) - Anh quên chóng quá. Để tôi kể lại cho anh nghe. Anh ngồi uống rượu, mà rượu của anh là rượu lậu: Một tội. Lính Đoan ập đến bắt, anh đập chai rượu đi, hai tội. Bắt anh, anh nổi xung cầm chai rượu vỡ dọa lính Đoan: Ba tội. Anh đã nhớ chưa?

BỐN HÒA (vẻ thật thà) - Bẩm con chỉ nhớ có uống rượu...

ÔNG CHÁNH ÁN - Có thế chứ!

BỐN HÒA - Vì lúc nào con cũng uống rượu.

ÔNG CHÁNH ÁN - Được, còn việc khác đã có người nhớ cho anh.

Mà thật. Người ta nhớ lắm. Người ta đây là hai viên chức nhà Đoan ra làm chứng. Hai người kể tội Hòa rành mạch và ăn ý nhau như là cùng nhớ tờ biên bản vậy.

Kết quả của sự nhớ ấy: Hòa phải phạt ba tháng tù về tội kháng cự người nhà Đoan, 500 quan tiền phạt về tội tàng trữ rượu lậu và 500 quan về tội đập chai bố...

Lảo đảo, Hòa bước vào nhà pha. Rồi tha hồ có thì giờ để nhớ xem có đập chai bố kia không và để quên rằng tòa đã phạt mình rất nhiều quan tiền Tây.

DUYÊN NỢ

Một bên là ba ông lính khố đỏ, một bên là ba chị lầu xanh. Ba ông lính, người lực lưỡng hùng dũng, nhưng vẻ mặt sượng sùng như gái về nhà chồng buổi tân hôn dưới nụ cười chế giễu của cử tọa. Duy ba chị lầu xanh là vẫn trân tráo, trơ trẽn liếc mắt quanh tứ phía như muốn tìm người cảm cái sắc... vỡ đầu lính của mình.

ÔNG CHÁNH ÁN - Tòa buộc cả sáu người vào tội đánh nhau bị thương. Đầu đuôi ra làm sao?

Mấy “cô dâu” lính khố đỏ đưa mắt nhìn nhau, không ai đủ can đám trả lời ngay. May sao một chị lầu xanh nhanh nhẩu hất mái tóc đỏ lòm hớt ngắn - một tương lai của các bà, các cô - thản nhiên trả lời:

- Bẩm ba tên này...

Rồi chị ta điểm vào mặt ba người lính khiến cho mắt mũi họ đỏ bừng lên.

- Ba tên này vào nhà chúng con, phá phách đồ đạc. rồi đánh đập chúng con.

ÔNG CHÁNH ÁN - Vì cớ gì?

CHỊ LẦU XANH - Bẩm chẳng vì cớ gì cả. Họ đánh chúng con thâm tím cả mình mẩy, chứ chúng con phận đàn bà, con gái yếu đuối, đánh làm sao được họ.

Ông chánh án mỉm cười nhìn thân thể cao lớn đẫy đà của các chị bị cáo, rồi hỏi:

- Ừ thì các chị không đánh. Nhưng làm sao người lính Mai lại chảy được máu đầu ra?

CHỊ LẦU XANH - Bẩm, con biết đâu được! Chắc anh ấy về nhà, vợ đánh lại đổ cho chúng con đánh đấy chứ gì.

Lính Mai, mặt đỏ chín, giận quá nên bật ra được một câu:

- Bẩm, con chưa có vợ ạ.

Rồi đầu đi, đuôi lọt, anh ta nói tiếp một cách trơn tru lắm:

- Bẩm hôm ấy, chúng con cao hứng (cử tọa cười) đi qua phố họ ở, nên họ chạy ra kéo áo vào. Anh Biền con đây lại bị giăng mất mũ nữa. Chúng con cười nói vui vẻ, nhưng chúng nó hỗn quá ạ.

- Nó hỗn thế nào?

-... Bẩm... bẩm, chúng nó dám bảo chúng con có khố thì chúng nó cũng có ạ.

Thoát được câu ấy, lính Mai thở mạnh như nhẹ hẳn người. Hai ông bạn của lính Mai cũng như được thư thái hơn, vì mặt cũng bớt đỏ.

Nhưng đến lúc tòa tuyên án phạt mỗi người 61 quan tiền phạt án treo, thì ai nấy mới thật thư thái, có khố đỏ lẫn lầu xanh.

TỬ TẾ

Đứng trước tòa một chị đỏ tròn như hạt mít: Trong khuôn mặt tròn, lộ ra cặp mắt tròn, cái mũi tròn và hai cái má tròn vẻ thật thà ngây thơ trong bộ quần áo nâu sạch sẽ, tinh tươm.

ÔNG CHÁNH ÁN (nghiêm nghị) - Chị bị buộc vào tội ăn cắp của chủ, một tội rất nặng chị có nhận không?

THỊ VÂN - Bẩm, con không ăn cắp.

ÔNG CHÁNH ÁN - Lại còn kêu oan. Chủ chị đi vắng, chị mở tủ lấy năm chục bạc và đồ nữ trang, rồi, cả người lẫn của, không thấy bóng chị đâu nữa.

THỊ VÂN - Bẩm, con có lấy số tiền ấy thật, nhưng con không ăn cắp.

ÔNG CHÁNH ÁN (mỉm cười) - Ồ lạ nhỉ! Tôi không hiểu. Chị tử tế thì chị giảng cho tôi nghe.

THỊ VÂN - Bẩm hôm ấy, trong lúc ông chủ, bà chủ con đi vắng con có cãi nhau với anh bếp.

ÔNG CHÁNH ÁN (chế nhạo) - Thế ra vì anh bếp mà chị ăn cắp.

THỊ VÂN - Bẩm không. Nhưng con giận quá, không muốn cùng với anh ấy ở chung một nhà một giây một khắc nào nữa. Phiền một nỗi tiền công bà chủ con chưa trả. Con đánh bạo mở tủ lấy tiền để tự trả tiền công cho con.

ÔNG CHÁNH ÁN - Nhưng tiền công chị làm gì đến năm chục bạc?

THI VÂN - Bẩm con giận quá nên quên đếm lại... (cử tọa cườí)

ÔNG CHÁNH ÁN - Còn đồ nữ trang?

THỊ VÂN - Bẩm đồ nử trang là con giữ hộ bà chủ. Con sợ để lại, anh bếp anh ấy ăn cắp đi, anh ấy gian lắm, cơ ạ.

ÔNG CHÁNH ÁN (chế nhạo) - Chị tử tế quá.

Nhưng bà chủ, người làm chứng, và người bếp, nhất định cho Thị Vân là không tử tế chút nào, tuy lúc bây giờ đương tuần lễ tử tế.

Thị Vân giận, hầm hầm nhìn bà chủ, trách:

- Tôi đã tử tế không lấy đồ đạc khác mà bà còn nỡ buộc cho tôi.

Cũng may cho Thị Vân, tuy gặp bà chủ không tử tế, nhưng gặp ông tòa tử tế chỉ phạt có năm tháng tù.

CHỐI BIẾN

Đứng nhớn nhác trước vành móng ngựa, Lê Văn Lâm trông có vẻ “khả nghi" lắm: Con mắt trắng dã, cập môi thâm với hình dung lấm lét của y cũng đủ khép y vào tội ăn cắp rồi.

ÔNG CHÁNH ÁN (nhìn Lâm tủm tỉm cười)

- Thế nào? Anh có nhận ăn cắp một cái ví của người ta không?

LÂM (giương to hai con mắt, sợ hãi nhìn ông chánh án)

- Bẩm không, con có ăn cắp ở đâu?

- Còn ở đâu nửa! ở Hà Nội chứ đâu...

LÂM (luống cuống) - Bẩm, con chưa hề ra Hà Nội.

ÔNG CHÁNH ÁN (cười) - Anh chưa hề ra Hà Nội. Anh không nói dối được đâu! Biết điều thì nói thật đi thôi.

LÂM (càng luống cuống) - Bẩm, con nói thật ạ.

ÔNG CHÁNH ÁN - Được, anh chối. Vậy anh chưa bao giờ ra chợ Đồng Xuân?

LÂM - Bẩm có ạ.

ÔNG CHÁNH ÁN (cười) - À!

LÂM - Bẩm, con xem chợ hôm qua ạ.

ÔNG CHÁNH ÁN (thất vọng) - Được lắm, anh muốn chống chế. Nhưng, chứng cớ còn rành rành ra đây (giở hồ sơ) - Thị Mai, người mất cắp, ra chợ Đồng Xuân mua cam, đương cúi xuống chọn thì có một người đến cắt túi và lấy mất cái mề gà... Người ấy là anh.

LÂM (sợ hãi) - Bẩm, bẩm không ạ. Bẩm, con không biết Thị Mai là ai, mà cũng không biết cắt túi ạ.

ÔNG CHÁNH ÁN (nổi giận) - À anh không biết! Thị Mai, ở Sở Cẩm, đã nhận được mặt anh rồi!

LÂM - Bẩm con không được ra Sở Cẩm ạ...

ÔNG CHÁNH ÁN - Anh không ra Hà Nội, anh không ra chợ Đồng Xuân, anh không ra Sở Cẩm, anh chối hết. Đợi lát nữa, thì có lẽ anh cũng không ra tòa nữa; mà anh cũng không phải là tên Lê Vân Lâm nữa.

LÂM - Bẩm con là Lê Văn Lâm ạ.

ÔNG CHÁNH ÁN (chế nhạo) - Anh cũng còn biết thú nhận nữa à? (lật hồ sơ lấy một cái thẻ thuế thân) - Còn cái thẻ này, anh có nhận là của anh không?

LÂM (ngạc nhiên) - Bẩm... thẻ của con... đánh mất ạ.

À ra vậy. Ông tòa bỗng hiểu: Tên kẻ cắp đã dùng thẻ thuế thân của Lâm để lừa thần Công lý... Còn Lâm, thiếu chút nữa thì đã vào nhà pha thay bạn.

Cho nên, lúc tòa tuyên án tha bỗng, Lâm nhẹ nhàng bước ra, hớn hở. Lúc ấy, con mắt trắng, cái môi thâm của y... không còn có vẻ mặt khả nghi nữa: Y dáng dấp, hình dung quả là một người lương thiện.

CÁI CỌC BẤT NHÂN

Bị cáo nhân bảy người đứng sắp hàng chữ nhất trước vành móng ngựa. Nhưng cũng như trong cái nghị viện, họ chia ra làm hai phái, phản đối nhau, thù hằn nhau: Phái tả và phái hữu. Phái tá là vợ chồng phó lý Mùi, phái hữu là vợ chồng, con cái nhà trương tuần Kiệm. Thoáng thấy họ lườm nguýt nhau trước tòa cùng biết óc họ đương mắc mứu một mối hờn vô hạn.

ÔNG CHÁNH ÁN (nghiên cứu) - Các người là láng giềng nhau, mà không biết ăn ở cho êm thắm, lại đi đánh nhau đến vỡ đầu chảy máu là nghĩa làm sao?

PHÓ LÝ MÙI - Bẩm ba tòa quan lớn, thật quả chúng con không trêu nó ạ.

TRƯƠNG KIỆM - Lại còn không trêu! Bẩm quan lớn đèn giời soi xét. Vợ chồng nhà nó làm cho chúng con ốm liểng xiểng cả năm, làm ăn khốn đốn cả năm, thì chúng con chịu làm sao được.

ÔNG CHÁNH ÁN - Nhưng nó làm thế nào mà anh hóa ốm được?

KIỆM - Bẩm nó bắc cầu ao.

ÔNG CHÁNH ÁN (ngạc nhiên) - Nó bắc cầu ao.

KIỆM - Vâng, nó bắc cầu ao.

Ông chánh án giương mắt nhìn trương tuần Kiệm như nhìn một người điên, nhưng thấy Kiệm cử chỉ tự nhiên, bèn quay sang hỏi phó lý Mùi:

ÔNG CHÁNH ÁN - Nó nói có phải không?

MÙI - Bẩm phải ạ.

ÔNG CHÁNH ÁN (ngạc nhiên) - Anh làm nó ốm thật à?

MÙI - Bẩm không.

ÔNG CHÁNH ÁN - Thế thì phải cái gì?

MÙI - Bẩm phải, con có bắc cầu ao ạ.

Ông chánh án giương cặp mắt ngạc nhiên hết nhìn Kiệm lại nhìn Mùi, như tưởng mình lạc vào nhà thương điên vậy.

ÔNG CHÁNH ÁN - Bắc cầu ao mà hóa ốm? Lạ nhỉ!

KIỆM - Bẩm thật ạ, Nó bắc cầu ao, rồi nhà chúng con ốm đau suốt năm và làm ăn lụn bại. Có ông thầy địa lý hôm nọ mách chúng con mới biết là vì cái cọc cầu ao cắm chính giữa hướng nhà chúng con. Chúng con sang nói với nó, nó không bằng lòng ạ.

ÔNG CHÁNH ÁN - À ra thế. Nhưng không bằng lòng thì thôi, sao anh lại tự tiện nhổ cọc đi, và đánh nhau với người ta?

KIỆM - Bẩm vì nó cắm cọc bất nhân ạ.

ÔNG CHÁNH ÁN - Cái cọc bất nhân...

Cái cọc chỉ là cái cọc. Chỉ có thầy địa lý là bất nhân mà thôi.

Kết quả: Trương Kiệm nhổ cọc đi đã bị một trận đòn đau, lại bị thêm 50 quan tiền phạt.

Chỉ có ông thầy địa lý là không bị gì cả.

THỀ THỐT

Ông Hàn Lương là một người đẫy đà, béo tốt. Ông đứng bệ vệ, oai nghiêm ở trước vành móng ngựa, trông có vẻ quan dạng như một vị đại thần. Chỉ hiềm hai cái má của ông chảy xệ xuống quá cằm, cũng như ba chòm râu của ông cụp lại một cách không được oanh liệt mấy. Có lẽ vì nó thấy chủ nó bị cáo về tội thề gian.

ÔNG CHÁNH ÁN - Ông có nhận tội của ông không?

HÀN LƯƠNG - Bẩm tôi oan.

ÔNG CHÁNH ÁN (cố che nụ cười) - Ông nhầm đấy, ông không oan đâu. Đào Lan nợ ông hai trăm bạc, đã trả ông rồi, mà ông lại bảo là người ta vỗ nợ, kiện người ta ở trước tòa hộ, Đào Lan xin tòa bắt ông thề, ông chịu thề...

TRẠNG SƯ CỦA LƯƠNG - Bẩm, Hàn Lưưng chịu thề là việc hộ xong. Theo luật dẫu thề không đúng cũng được kiện.

ÔNG CHÁNH ÁN - Thì vẫn vậy. Nhưng đây lại là tòa hình. Hàn Lương thề rằng không nhận của Đào Lan một đồng nào, mà hai tháng sau, Đào Lan lại đem trình tòa một cái biên lai hai trăm. Ông Hàn Lương, ông có ký tờ biên lai đó không?

HÀN LƯƠNG - Bẩm có ạ

ÔNG CHÁNH ÁN - Thế nghĩa là ông thề gian.

Hàn Lương nghe nói, râu mỗi lúc một cụp hơn, má mỗi giây mỗi xệ xuống, cố gượng gạo đáp:

- Bẩm, tôi không thề gian, tôi quên ạ.

ÔNG CHÁNH ÁN - Quên được số tiền hai trăm, ông có tính hay quên thật. Nhưng sao ông lại không quên đòi nợ Đào Lan nhĩ? Trí nhớ của ông chọn việc mà trốn đi thiệt là khéo.

HÀN LƯƠNG - Bẩm, tôi thề trước mặt thánh. “Tôi không nhận đồng nào của tên Lan. Tôi nói sai, xin thánh vật chết ngay”. Vậy tôi mà còn sống đến hôm nay, ấy là vì tôi ngay, là vì tôi quên thật ạ. Nếu tôi biết là thề gian mà vẫn thề, thánh đã vật chết tôi rồi, còn đâu.

Lý luận ấy khiến cho ông chánh án không giấu được một cái mỉm cười chế nhạo.

ÔNG CHÁNH ÁN - Có lẽ ông thánh cũng quên mất làm việc ấy.

Mà nếu thánh có thể quên, thì, - biết dầu - Tòa lại không quên rốt. Ý tưởng ấy chắc lảng vảng trong trí Hàn Lương, nên lúc nghe tòa phạt hai trăm quan tiền Tây, Hàn Lương hơi có vẽ thất vọng.

Y chỉ còn một cách: là bắt trí quên rằng đã bị phạt. CƠM THỪA

NGUYỄN VĂN PHÚ chỉ có cái tên là mầu mỡ. Ngoài ra trông rất có vẻ nghèo nàn. Bộ mặt hốc hác trong bộ quần áo nâu rách, màu bạc phếch. Mái tóc bờm xờm dễ đã ngoài hai tháng không cạo, như mái tóc một nhà làm thơ mới Việt Nam.

Ông chánh án hình như cũng thương hại hỏi bằng giọng rất ngọt ngào:

- Thế nào? Anh có nhận đã lấy ngôn từ mạ lỵ một viên chức dịch trong khi hành vụ không?

Nhà thi sĩ Phú cất giọng run run hỏi sẽ người thông ngôn:

- Bẩm thế là làm sao ạ?

- Thế nghĩa là anh có chửi rủa đội bếp không?

- Bẩm không, quả không.

Vừa trả lời, nhà thi sĩ vừa lắc bờm tóc một cách cương quyết và giương mắt nhìn ông chánh án một cách ngây thơ.

- Bẩm thật quả không. Hôm ấy con đương ngồi ăn ở góc đường thì thầy đội đến bảo con là “đồ chó nhai xương” rồi lôi con lên bót, có thế thôi.

Ông chánh án mỉm cười:

- Có thế thôi, theo lời anh nói thì giản dị quá. Thế ra tự nhiên người đội sếp đến mắng anh chơi cho có chuyện?

- Bẩm vì thầy ấy con ăn...

- Ăn, ai chẳng ăn?

- Bẩm, nhưng con ăn những đồ ăn còn thừa trong trại lính thải ra đem bán. Hôm ấy con ăn “xúp”. Thầy đội văng tục ra với con, thì con có bảo: “Thầy thử nghèo đói xem có nhai không? Giàu có thì làm ra bộ thế nào chẳng được”.

- À ra thế. Lỗi ở cả thầy đội.

Nhưng thầy đội làm chứng lại nhất định không nhận lỗi, và cũng nhất định chối đây đẩy là không văng tục. Theo thầy thì ở đầu phố thấy đông, thầy đến dẹp: Mọi người đều giãn, duy chỉ có Phú là nhất định ngồi uống hết bát “xúp”.

- Nó lại mời cả con ăn nữa. Con lắc đầu bảo nó đi thì nó văng tục bảo “tiên sư mày làm bộ”.

Ông chánh án mỉm cười, rồi sau một lúc cân nhắc trọng lượng của hai câu chửi, và sự thực thà của hai người, ông hạ tứ:

- Một ngày nhà pha.

Nhà thi sĩ rũ bờm tóc một cách tuyệt vọng lặng lẽ bước ra.

MỘT BỮA TIỆC

Một bữa ăn đã đưa bốn người ấy ra tòa. Của đáng tội, bữa ăn ấy lại là một bữa ăn lớn, và bốn người ấy đều là người có tên, có tuổi, có tai, có mắt cả.

Đứng nguyên cáo là ông phó hội trưởng phòng thương mại. Ông vừa là chủ nhà khách sạn làm cỗ, lại vừa là người bị mời, ông không thấy ông nghị viện họ Phạm, người đặt tiệc, trả sồng phẳng, bèn mời luôn ông này ra tòa. Thật là có đi có lại.

ÔNG NGHỊ VIỆN HỌ PHẠM - Tôi mời ăn thật, nhưng lúc ấy tôi chỉ là người thay mặt cho ủy ban hội chợ. Vậy tôi không phải trả, mà cá ủy ban ấy phải trả. Vì thế, tôi đã mời ông hội trưởng phòng thương mại kiêm hội trưởng ủy ban hội hè ra để các ông ấy trả hộ.

Nhưng hai ông ấy lại nhất định không trả, ông nào cùng từ chối không nhận cái hân hạnh ấy.

Ông hội trưởng phòng thương mại thì ra vẻ kẻ cá, kể liền một thôi:

- Phòng thương mại hay Ủy ban hội chợ Hà Nội không hề nhờ ông Phạm đặt tiệc bao giờ. Bữa tiệc ấy là bữa tiệc của những người bày hàng trong hội chợ, thì các người ấy phải trả, mà nếu họ không trả, thì ông Phạm phải chịu vậy. Tôi chỉ là người bị mời thôi. Cũng như ông Thông sứ vậy, cho nên tôi lấy làm lạ rằng không thấy ông Thống sứ ở đây, mà chỉ có tôi.

Còn ông trưởng ủy ban hội hè, mặt mũi phinh phính hồng hào như quả táo tây, ông giơ cả hai tay ra chặt không khí:

- Tôi cũng bị mời. Tôi chỉ là người bị mời...

Ai cũng bị mời cả, Ông nghị viện họ Phạm lắc đầu, ý chừng muốn nói:

Chẳng nhẽ mình cũng bị mời nốt.

Có lẽ tòa cũng nghĩ thế, nên tòa tuyên án bắt ông nghị họ Phạm phải trả số tiền một trăm năm mươi đồng, lấy cớ ông không kiếm đủ chứng để tỏ ra rằng ông đã thay mặt ủy ban hội chợ đặt cái tiệc tầy đình kia.

Ăn có một bữa cỗ, mà phải trả ngần ấy tiền, ông nghị họ Phạm cay đắng trở ra, hai hàm răng nghiến lại như muốn nhai mãi cái dư vị của món ăn hôm ấy.

BÍ MẬT VÀ CÔNG KHAI

Một huyện lỵ nhỏ ở miền Trung đương sống một cách nên thơ dưới quyền các ông quan đầy lòng thương dân. Một người bạn rủ tôi đến công đường xem xử một vụ án ly kỳ, đặc biệt.

Đứng trước tòa - tòa là cái công đường của ông huyện có hai tên lính cầm roi đứng canh - đứng trước tòa, một người trẻ tuổi, vẻ mặt hiền lành, nếu không có cặp mắt sáng với đôi lông mày dài và sắc. Thân thể gầy gò, người ấy rất đỗi lúng túng trong chiếc áo xô rộng và dài, thỉnh thoảng vén tay áo để lộ hai bàn lay nhỏ như bàn tay con gái.

Người nhỏ xíu ấy mắc một tội lớn tầy đình: Tội đi lậu công văn. Cử tọa thì thầm:

- Ý hẳn y làm việc quan, không chịu giữ bí mật nhà nghề chứ chi! Thế nào mà chẳng có chấm mút rồi.

- Hay là cùng tụi với Nguyễn Thành Hưng đi lậu điều bí mật trong Triều ra ngoài.

- Bậy nào, Đỗ Cay làm báo đấy mà!

Câu chuyện đến đây ngừng bặt, vì ông chánh án vừa cất tiếng ồ ồ hỏi bị cáo nhân:

- Công văn ấy là công văn bí mật, sao anh lại cả gan đi lậu, hử?

Tiếng trả lời dứt khoát, trong trẻo:

- Ngài bảo nó là bí mật, tôi mới biết nó là bí mật. Ngoài ra, nó vẫn có tính chất công khai lắm. Tôi thấy trát ở huyện về, sức cho lý trưởng làng tôi cấm không cho dân đi đón ông Godart, chỉ được cử đại biểu thôi...

- Những bí mật..

- Bẩm nếu bí mật, nghĩa là điều cấm bí mật, thì dân làm sao biết để tránh được?

Ông chánh án đỏ mặt, gắt:

- Tôi bảo nó bí mật là nó bí mật. Anh không được cãi. Cãi là phạm tội mạn thượng anh nghe chưa? Giờ tôi chỉ hỏi anh có viết bài báo về cuộc đón tiếp ông Godart, và trong bài đó, anh có đăng tờ trát kia không?

- Tôi nhận là có viết,...

- Thế là đủ rồi...

- Nhưng tôi mới định đăng báo chứ đã đăng đâu?

- Đăng rồi hay mới định đăng cũng vậy. Hai năm tù.

Nghe tuyên án, Cay nét mặt vẫn thản nhiên duy có cặp mắt là sáng hơn chút đỉnh.

Bạn tôi đứng dậy, rỉ vào tai tôi:

- Phiên tòa công khai này, anh đừng lo cho lên báo nhé. Có thể mắc tội đấy. Biết đâu nó không như lá công văn kia, vừa công khai lại vừa bí mật. HÓNG MÁT

Ông chánh án lên tiếng trong sự im lặng:

- Nguyễn Văn Thao! Lê Văn Thể!

Hai tiếng dạ.

Nhưng ai là Thao, ai là Thể? Khó lòng mà phân biệt được: Họ giống nhau quá. Họ là hai tội nhân nghiện song song đứng trước tòa. Cùng bộ áo số nửa vàng nửa trắng, cùng bộ mặt xám với cặp môi thâm, cùng bộ tóc lởm chởm, cùng thái độ nhẫn nhục vô cùng. Và cùng một tội: Phá nhà pha.

Ông chánh án nghiêm nghị đọc hồ sơ:

- Các anh đã tháo đinh trần nhà hỏa lò, dở ngói ra và trèo lên nóc. Các anh định trốn có phải không?

Hai tiếng trả lời quả quyết:

- Bẩm ông, chúng con lên hóng mát.

Ông chánh án mỉm cười chế nhạo:

- Hóng mát! Các anh lên hóng mát trên nóc nhà pha, rồi định cùng leo xuống đường, ra phố hóng mát có phải không? (giọng trở nên nghiêm nghị). Sự thật thế nào nói ra, còn nói dối quanh thì tòa không tha đâu.

Thao vội vàng đáp, giọng sè sè như giọng tấu:

- Bẩm... vâng. Bẩm quả con oan. Anh Thể con đây nghiện, chị ấy ném vào cho gói thuốc phiện, không may rơi lên nóc nhà. Anh ấy đến cơn không lên được, con thương tình lên lấy hộ ạ.

Thể vội vàng ngắt lời bạn:

- Bẩm không, con không nghiện, chính anh này mới nghiện ạ.

Ông chánh án mỉm cười:

- Ừ thì anh không nghiện. Trông anh cũng đủ biết.

THỂ - Vâng, quan lớn đèn trời soi xét cho (cử tọa cười). Anh ấy nghiện, chị vứt vào cho gói thuốc, anh ấy leo lên tìm, con thấy trời mát, con cũng lên theo...

ÔNG CHÁNH ÁN - Vậy ra anh vẫn cãi là lên hóng mát...

THAO - Bẩm, anh ấy nói dối. Chính con mới lên hóng mát.

ÔNG CHÁNH ÁN - Hai anh cùng hóng mát cả... Vậy tòa phạt mỗi anh một ngày nghỉ mát ở nhà pha.

Thao và Thể trông nhau mỉm cười, vẻ mặt tỉnh táo hẳn lên như đương lên cơn mà được người vứt cho gói thuốc.

XUỐNG DỐC

NGUYỄN VĂN HỢI nghe gọi đến tên là nhanh nhẹn bước vào trong vành móng ngựa như một người đã từng trải. Nhưng anh chàng còn trẻ măng, tuổi chỉ trạc độ trăng tròn có lẻ. Vẻ mặt hiền lành, trán cao và rộng, Hợi có thể là một cậu học trò thông minh, nếu không có hai con mắt nhỏ mi tùm hụp và cặp môi mỏng dính.

- Anh có nhận ăn cắp một cái xe đạp ở phố Trường Thi không?

Cậu học trò trả lời một thôi như đọc bài học đã thuộc lòng:

- Bẩm oan con quá. Hôm ấy con đương lảng vảng hóng mát ở phố Trường Thi, bỗng con dừng lại. Một cái xe đạp mới tinh đẹp đẻ gác ở cạnh đường. Gió chiều nhẹ nhàng thổi, con nghĩ bụng nếu được ngồi chiếc xe kia thì hả dạ. Con bèn đến gần cầm lấy ghi đông. Giá thử lúc đó có người ra nhận, thì thế nào con cũng mượn để đi một lát. Nhưng không thấy ai ra hỏi.

- Thì anh lấy nó đi, có phải không?

- Bẩm không. Con tính mượn chiếc xe đạp đi chơi một vòng cũng không thiệt hại gì cho chủ xe cả, con bèn đạp xe chạy, định bụng lúc trở về sẽ nói mượn xe và cám ơn luôn thể cho tiện.

ÔNG CHÁNH ÁN (mỉm cười) - Rồi muốn tiện hơn, anh đạp nó đi mất tích, có phải không?

HỢI - Con không dám thế ạ.

ÔNG CHÁNH ÁN - Thế sao lúc người chủ xe gọi lại, anh cứ cắm cổ mà đạp...

HỢI (buồn rầu) - Bẩm tại trời hại con. Con đương mắc xuống dốc, không sao lên được.

ÔNG CHÁNH ÁN - Hiện bây giờ anh cũng đương xuống dốc, anh hiểu chưa? Anh mới 17 tuổi đầu mà đã can án bốn lần rồi, mà lần nào cũng quá ba tháng cả. Anh có biết nếu anh 21 tuổi thì phải đày Côn Lôn không? Tại làm sao anh lại đi ăn cắp ăn trộm vậy?

HỢI - Bẩm - nhưng lần trước con oan. Chỉ lần đầu thì có thật. Nhưng vì con đói, con đói quá. Rồi đã mắc tiếng là ăn cắp, thì là thằng ăn cắp mãi.

ÔNG CHÁNH ÁN - Thế còn lần này?

Hợi không trả lời, tâm trí như còn lạc về nơi ký vãng tối tăm.

ÔNG CHÁNH ÁN - Lần này thì tòa thương anh còn trẻ, tha cho anh vì chưa đủ trí khôn nhưng bắt anh phải vào nhà Trừng giới cho đến năm 21 tuổi.

Cậu học trò nghẹn ngào bước ra, mắt giương to như đương nhìn cái dốc tưởng tượng đưa xuống vực sâu: nhà Trừng giới Tri Cụ.

HỐI LỘ THÁNH

Phiên tòa hôm ấy là phiên tòa của các “thím’’ của các “me”. Họ kéo chật cả tòa, tụm năm tụm ba nói chuyện thì thầm. Các bà vợ Khách tự hào có những vành khăn quấn thật cao và những đường ngôi rất thẳng, các bà vợ Tây có vẻ đỏm dáng lòe loẹt hơn những bộ áo màu lằn thịt và những ví đầm lớn. Nhưng họ giống nhau ở chỗ trát phấn thật trắng và... đánh chắn suốt ngày đêm được.

Họ ra đây hôm nay, tiếng là đến xem nhưng, thật ra là đến nghe xử án họ. Những bị cáo nhân, tám người đàn bà mặt phấn, đối với họ là những người cùng hội cùng thuyền, cùng là tay đánh chắn như họ cả. May thì đến ngồi xem một cách ung dung, không may ra thì phải đứng một cách thẹn thò chán nản trong bộ áo số cũn cỡn: Có thế thôi.

Ông chánh án như hiểu rõ, nhìn họ mỉm cười, thong thả phán:

- Các chị có đánh chắn không?

Các bà im bặt, đăm đăm nhìn ông chánh án như cho câu hỏi ấy là câu hỏi chung cho cả người bị cáo lẫn người đi xem.

Bị cáo nhân có người chối, có người nhận. Lại có người nhận là ngồi ké nữa. Ông chánh án lắc đầu, không hiểu thế nào là ké, còn đánh chắn thì chắc chắn là ông cũng không hề biết. Ông bèn hỏi một viên mật thám Tây, làm chứng:

- Thế nào là đánh chắn?

Viên mật thám lưởng lự một hồi, rồi trả lời:

- Bẩm rắc rối lắm.

Nghĩa là viên ấy cùng không biết nốt. May sao có một viên mật thám An Nam ra cứu viện:

- Bẩm đánh chắn cũng gần như đánh tổ tôm...

- Nhưng tôi không biết đánh tổ tôm.

Viên mật thám bắt đầu lúng túng:

- Bẩm đánh chắn chỉ có đến sáu người là cùng. Một phần làm nọc.

Ông chánh án nhíu đôi lông mày, cố sức theo...

- Có hai thứ chắn: Chắn cạ và chắn phông...

Ông chánh án lắc đầu, vẻ thất vọng:

- Tôi chịu không thể hiểu được. Tôi chỉ hỏi một điều: Đánh chắn ăn thua nhờ may rủi hay là nhờ trí khôn.

Lại đến lượt viên thám tử không hiểu được, ông trạng sư bị cáo nhắc:

- Nghĩa là đánh chắn có cao thấp không?

- Bẩm có ạ. Người đánh cao thường thường hay được.

Ông chánh án mỉm cười:.

- Thế nghía là đánh chắn không phải là cuộc đỏ đen rồi. Tòa tha.

Mấy bà bị cáo mừng quá, ngoảnh lại nhìn cử tọa rồi reo ầm lên. Chung quanh, bọn chị em đến xem đứng đông đảo, cười cười nói nói. Một người nói:

- Có thế chứ! Tôi đi lễ thánh mãi đấy...

Ai nấy nhao nhao hỏi:

- Thế à?

- Các bà tính xưa nay đánh chắn có tha bao giờ đâu, mười sáu quan là ít. Lần này mà không bị phạt, không nhờ thánh thì còn nhờ ai nữa!

Một bà khác, vẻ nghiêm nghị:

- Bà chị nói phải. Thánh đã che mắt tòa, đã bắt chính người mật thám An Nam phun ra đấy. Chúng ta phải ra đền lễ tạ mới được.

Rồi cả bọn hí hởn đi ra, lấy làm sung sướng vì đã hối lộ được cả thánh.