← Quay lại trang sách

Chương 14 Giông tố sắp đến

Ánh trăng vượt mây tới, tiếng gió chạm cây vang. Lúc này, ánh trăng êm dịu đang xuyên qua cửa sổ chiếu xuống mặt đất, để lại những chiếc bóng biến ảo khôn lường. Gần đây Lý Khác luôn ngủ không ngon giấc, ngay cả tiếng lá hòe rụng bên ngoài cũng có thể đánh thức y dễ dàng. Y hơi nghiêng người sang, thấy Kỳ Úc đang say giấc ôm chặt cánh tay trái của mình, đành rón rén dùng tay còn lại đắp kín chăn cho nàng.

Một cô gái không có nỗi niềm tâm sự gì thật là may mắn. Lý Khác nói thầm, hôn phớt lên mắt nàng nhẹ như chuồn chuồn đạp nước, tình cảm đậm sâu, thương yêu vô hạn.

Nhưng mà, cô Tiêu lương đệ đó… Lý Khác giơ tay chống đầu, đôi mày đang giãn giờ lại từ từ nhăn lại. Không biết tại sao, y luôn cảm thấy nội tâm của cô gái trông có vẻ thẳng thắn đáng yêu này lại sâu không thể dò, so với Tô Việt năm xưa chỉ có hơn chứ không có kém. Tô Việt lấy oán báo ân, Kỳ nhi đương nhiên khó chịu, nhưng dẫu sao giao tình vẫn chưa sâu đậm lắm, nên cũng không quá buồn bã. Nhưng Tiêu Miên Man thì khác, một khi cô ta nổi ý định gì đó không nên có, sợ rằng Kỳ nhi sẽ rất đau lòng.

Nghĩ đến đây, Lý Khác bỗng bật cười. Chẳng trách Tiêu Nhuệ thường nói là y bao bọc Kỳ nhi quá mức. Nàng có tâm tư trong sáng đơn thuần, nhưng tuyệt đối không phải là một cô gái tầm thường không có năng lực phòng bị và phân biệt. Nàng có mưu lược, có can đảm, cũng có khí phách cần quyết đoán thì sẽ quyết đoán. Nàng là tình yêu duy nhất đời này của y, y nên an tâm mới phải.

Có điều, mấy đám người Đột Quyết đến với ý đồ xấu đó nên giải quyết thế nào? Dương Chính Đạo gặp chuyện dính đến Đột Quyết và người đàn bà đó, rõ ràng đã mất đi quá nửa năng lực bình tĩnh suy nghĩ; còn Tiêu Nhuệ lúc này thì dồn hết tâm trí vào Tương Thành công chúa, e là cũng chẳng giúp được gì. Về phần thái tử… đâu phải y không biết rằng thái tử không thực sự coi trọng y, mà chỉ muốn tìm một người có thể ra mặt thay mình, thậm chí gánh tội hộ mình.

Nhưng y vẫn đồng ý, hơn nữa còn đồng ý không chút do dự. Chỉ vì trong khoảnh khắc ấy, y nhớ đến những lời Lý Thế Dân nói khi chăm chú nhìn y đêm hôm đó: Tâm tư của con trẫm hiểu cả, nên trẫm mới tin tưởng con. Vì sự tin tưởng này, y sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp thái tử.

Càng nghĩ, Lý Khác càng cảm thấy đầu óc căng lên khó chịu. Tiếng nhạn kêu như có như không từ xa vẳng tới, lọt vào trong tai y, chỉ còn lại những chuỗi âm thanh hỗn tạp khó nghe.

Vào buổi chầu lớn mười ngày sau, quần thần tề tựu. Chính điện của điện Sùng Đức lặng ngắt, nghĩ đến những trận chiến cam go với Đột Quyết mười mấy năm về trước, ai nấy đều ôm những suy nghĩ riêng, nét mặt đều trang nghiêm.

Hai sứ thần Đột Quyết mặc Hồ phục cổ bẻ màu nâu sẫm, dẫn theo sau một thị nữ áo lam bưng hộp gấm. Ba người đi đến trước điện, đều cung kính quỳ gối hành lễ: “Sứ thần dưới trướng Ất Bì Xạ Quỹ khả hãn của Đột Quyết tham kiến hoàng thái tử điện hạ Đại Đường. Chúc điện hạ phúc thọ an khang, vạn sự như ý!”

Lý Trị ngồi ngay ngắn trên cao, cổ áo của chiếc mãng bào mới tinh đang mặc làm cổ y hơi khó chịu. Song để giữ sự uy nghi của người kế vị nước lớn, y vẫn thản nhiên cúi xuống nhìn ba người phía dưới, mở miệng nói: “Mời tôn sứ đứng lên! Không biết Ất Bì Xạ Quỹ khả hãn phái tôn sứ đến có việc gì?”

Một sứ thần dáng hơi cao, để râu quai nón xoăn nhìn thị nữ áo lam ở đằng sau, thị nữ đó lập tức hiểu ý bước đến bên cạnh hắn, nâng cao chiếc hộp gấm trên tay. Gã râu quai nón chỉ vào chiếc hộp, hơi cúi người nói: “Bẩm thái tử điện hạ, lần trước trong quận Định Tương có một thợ ngọc tình cờ đào được một miếng ngọc bích ở núi Vân Cốc, lúc tìm thấy thì miếng ngọc bích đó đang lờ mờ phát ra ánh vàng. Người thợ không dám giấu riêng, bèn dâng nó cho Ất Bì Xạ Quỹ khả hãn của chúng thần. Khả hãn cũng cảm thấy vật này hiếm có, nên ủy phái hai sứ thần đem bảo vật này dâng cho Thiên khả hãn bệ hạ của thượng quốc.”

Lý Trị nhìn về phía Lý Khác đang đứng, thấy y khẽ gật đầu mới vẫy tay với Khánh Quý ở bên cạnh. Khánh Quý bước xuống bậc thềm, nhận lấy hộp gấm từ tay của thị nữ áo lam. Gần như đồng thời, bên cạnh vang lên tiếng hốt rơi đánh cạch. Thị nữ cúi người xuống, nhặt tấm hốt rơi dưới chân mình lên đưa cho Dương Chính Đạo. Bốn mắt nhìn nhau, ánh mắt mang theo sự khiêu khích và kích động của thị nữ khiến Dương Chính Đạo không kìm được khẽ rùng mình.

Đại điện yên tĩnh, tiếng động này đã thu hút sự chú ý của không ít người. Lý Khác ngoảnh đầu, thì thầm một câu bên tai gã: “Biểu huynh, cho dù thế nào cũng không được thất lễ”

Lúc này Dương Chính Đạo mới hoàn hồn, vẻ kinh hoàng trên mặt cuối cùng cũng tan dần. Sao có thể là bà ta được? Bà ta đã chết từ mười bốn năm trước rồi. Cho dù không chết, cũng không thể có một khuôn mặt xinh đẹp trẻ trung như vậy. Người đàn bà đáng sợ đó đã vĩnh viễn biến mất trên cõi đời này rồi.

Lý Trị dường như không trông thấy cảnh vừa rồi, chỉ nhìn miếng ngọc bích sáng bóng trong suốt trong chiếc hộp gấm: “Cô thay hoàng đế bệ hạ nhận báu vật này, đa tạ thịnh tình của khả hãn các vị.”

Tay râu quai nón lại cúi người vái lần nữa, vẻ mặt vẫn khiêm cung lễ độ như cũ: “Điện hạ thích là tốt rồi. Như vậy mới không phụ tấm lòng tôn sùng kính ngưỡng của Đột Quyết chúng thần đối với Thiên khả hãn bệ hạ của thượng quốc.

“Bạt Dã tiên sinh, có nói hoa mỹ hơn nữa cũng vô dụng” Lý Khác nghiêng người về phía hắn, ánh mắt toát ra vẻ chế giễu, “Các ông nhân lúc đại quân triều đình ta Đông chinh, nhiều lần quấy rối ở biên giới giữa Đột Quyết của ông và Đại Đường của ta, là rắp tâm làm gì? Hơn nữa, các ông đã đến Trường An từ mười mấy ngày trước, nhưng tại sao mãi đến hôm nay mới vào cung bái kiến thái tử, đang ủ mưu gì hả?”

“Mười mấy ngày trước… Thượng thư bộ Lại Mã Chu ở bên cạnh lạnh lùng quan sát đã lâu, giờ mới ho khẽ mấy tiếng, cầm tấm hốt nhìn Lý Khác với vẻ nghi hoặc: “Sao điện hạ biết?”

Một tia lạnh lùng ngưng đọng trong mắt Lý Khác: “Vì bản vương từng thấy hai vị này trong phường Thanh Hòa. Thật sự có ấn tượng sâu sắc.

Bạt Dã Đức Long lại chẳng hề bất ngờ với việc Lý Khác vừa nhìn đã rõ thân phận của hắn. Có lẽ ngay từ lúc giải vây cho Lưu chưởng quỹ ở cửa Trí Bảo trai, Lý Khác đã biết rồi. Vì vậy hắn chỉ nói với vẻ mặt tỉnh bơ: “Ngô vương điện hạ, chúng ta cũng xem như là quen biết từ trước, ngài hà tất phải cố ép nhau như vậy? Thần và đoàn sứ giả chẳng qua là ngưỡng mộ cảnh phồn hoa tráng lệ của thành Trường An, muốn tìm hiểu thêm về phong thổ nhân tình của đô thành thượng quốc, cho nên mới đến sớm hơn mấy hôm. Đây chắc không phải là tội lớn gì chứ?”

“Bạt Dã tiên sinh đúng là biết tránh nặng tìm nhẹ.” Lý Khác oai nghiêm nói, “Bản vương hỏi lại lần nữa, các ông tự tiện đóng quân gây hấn với bách tính ở biên giới của bọn ta, rốt cuộc có mục đích gì?”

Bạt Dã Đức Long từng trông thấy Lý Thế Dân. Năm xưa bên bờ Vị Thủy, Lý Thế Dân đơn thương độc mã vào trong trướng có ba vạn tinh binh Đột Quyết bao vây, hòa đàm với Hiệt Lợi khả hãn. Khí thế nhiếp hồn đoạt phách đó khiến hắn đến nay nhớ lại vẫn cảm thấy lạnh sống lưng. Khóe miệng của hắn hơi nhếch lên một đường cong không rõ ý tứ, vị Ngô vương này quả thật kế thừa được mấy phần oai phong của hổ phụ.

Nghĩ đến đây, Bạt Dã Đức Long lại nói: “Chỉ là nghe nhầm đồn bậy mà thôi. Từ khi Đột Quyết và Đại Đường giao thương đến nay, thương nhân vùng biên luôn hòa thuận với nhau. Năm nay thảo nguyên nhiều lần nổi bão, làm ăn khó khăn. Chắc là có một hai kẻ không biết tốt xấu đi gây sự ở đó, sau khi về thần sẽ bảo các tướng lĩnh vùng biên quản giáo nghiêm ngặt hơn. Những năm qua, khả hãn của thần năm nào cũng cống nạp xưng thần với hoàng đế bệ hạ của thượng quốc, giờ còn phái hai sứ giả vượt nghìn dặm đến dâng báu vật, lẽ nào vẫn không đủ để tỏ rõ lòng trung son sắt của chúng thần sao?”

“Nghe nhầm đồn bậy?” Dương Chính Đạo thở nhẹ một hơi, “Bạt Dã Đức Long, nói ra những lời này, ông không cảm thấy hoang đường nực cười sao? Hôm ấy ta thừa biết tại sao ông lại nói với ta hai chữ đó. Rốt cuộc các ông muốn gì? Nếu hôm nay nói cho rõ ràng thì vẫn có thể tránh được một cuộc can qua trong tương lai.”

Mã Chu thấy hai người này hùng hổ đe dọa như vậy, không khỏi có chút ngạc nhiên. Người ta vượt nghìn dặm xa xôi đến dâng báu vật, vả lại thái độ khiêm tốn, lời nói cung kính, không chừng mục đích là để tỏ ý xin lỗi về sự việc lần trước. Hai người này làm như vậy, sợ là sẽ thực sự chọc giận họ. Tuy hiện giờ binh lực giữa Đột Quyết và Đại Đường chênh lệch nhau xa, thực lực cao thấp đã rõ, nhưng chiến sự ở Cao Câu Ly còn chưa kết thúc, nếu lại nổi cơn binh lửa, chắc bệ hạ cũng sẽ không bằng lòng. Thế là ông ta ngẩng đầu nhìn thái tử, nhưng thái tử lại nhìn mấy người trước mặt với vẻ ôn hòa, dường như không có ý mở miệng.

Lúc này, vị sứ thần mặt đen bên cạnh Bạt Dã Đức Long, từ khi bước vào điện đến giờ luôn lặng im không nói, đưa mắt quan sát Lý Khác và Dương Chính Đạo một lúc lâu, sau đó mới mở miệng: “Chẳng phải người Trung Nguyên rất chú trọng câu ‘người đến là khách’ sao? Ngô vương điện hạ và Tuyên Bình hầu đối xử với khách như thế này ư?”

“Kim Mã tướng quân nói không sai. Nhưng các ông… thực sự là khách sao?” Lý Khác nở một nụ cười ôn hòa điềm tĩnh, hỏi với vẻ vô cùng thân thiện.

Sứ thần mặt đen kinh ngạc nói: “Sao điện hạ đoán được thân phận của tôi?”

“Còn phải đoán ư? Không phải chuyện đã rành rành trước mắt rồi sao?” Lý Khác chậm rãi nói, “Tướng quân Đột Quyết Đan Ba Dương Nhĩ, tóc hơi xoăn, nước da ngăm đen, râu dài đến ngực, bình thường thích đeo đoản đao, hiện giờ tuy không đeo, nhưng bao vẫn ở thắt lưng, chắc hẳn vừa nãy lúc vào điện đã tháo xuống giao cho thị vệ rồi! Theo lời đồn, thú cưỡi ưa thích nhất của tướng quân là một con ngựa cao lớn toàn thân phủ lông màu vàng, nên ông được mỹ xưng là ‘Kim Mã tướng quân. Trên tay áo trái của tướng quân còn vương hai sợi bờm màu vàng, thiết nghĩ nhất định là của con ngựa ông thích cưỡi đó!”

Mã Chu nghe xong mấy câu này, cuối cùng mới quay sang quan sát kỹ hai sứ giả. Bạt Dã Đức Long và Đan Ba Dương Nhĩ là hai mưu sĩ được trọng dụng nhất dưới trướng khả hãn Đột Quyết. Chỉ vì chuyện dâng báu vật cỏn con mà cần phiền hai người này đích thân đến, quả thực hơi kỳ lạ. Có lẽ Ngô vương điện hạ và Tuyên Bình hầu nói cũng không sai, dụng ý của bọn họ thật khiến người ta phải suy nghĩ.

Đan Ba Dương Nhĩ giận đùng đùng quay đầu đi chỗ khác, hồi lâu mới nói tiếp: “Ngô vương điện hạ có chứng cứ gì mà bảo chúng tôi không phải là khách?”

Lý Khác cười nhưng không nói, chỉ vuốt mái tóc được chải hết sức gọn gàng của mình theo thói quen. Dương Chính Đạo thấy thị nữ áo lam đó đứng bất động như một bức tượng đất, liền trả lời thay Lý Khác: “Chẳng phải Ngô vương điện hạ không chắc chắn nên mới hỏi các ông một câu sao? Các ông bảo phải, vậy thì là phải.”

Lúc này trong đại điện không ai nói gì. Bầu không khí gượng gạo này kéo dài một lúc lâu, Lý Khác mới lại lên tiếng, giọng nói đã không còn sắc bén như vừa rồi: “Tôn sứ chớ giận, bản vương chẳng qua chỉ nói đùa thôi. Tâm ý của khả hãn các ông, dù là bệ hạ hay thái tử cũng đều hiểu rõ trong lòng. Có phải không?”

“Không sai!” Lý Trị vừa nghe thấy câu này liền đứng dậy nói, “Tôn sứ đi đường vất vả, mời nghỉ tạm ở dịch quán. Sáng ngày mai, cô sẽ phái người tiễn hai vị rời thành.”

Bên ngoài gió lớn bỗng nổi lên, rít trong không trung và tạo thành những tiếng thét gào kỳ quái. Mọi người đều hơi ngạc nhiên với cục diện biến chuyển đột ngột này, ngay cả Đan Ba Dương Nhĩ vừa nãy bụng còn đầy phẫn nộ giờ cũng ngẩn ra. Cuối cùng, Bạt Dã Đức Long khẽ thúc cùi chỏ vào hắn, cả hai mới cùng thị nữ áo lam đằng sau cúi người thi lễ tạ ơn.

Thái tử và Lý Khác đưa mắt nhìn nhau, đôi bên cùng ngầm hiểu ý, sau đó ai nấy chắp tay rời đi.

Nguyên Nhân Kiền đợi ở ngoài cửa Bắc gần nửa canh giờ, vừa thấy Lý Khác liền ba chân bốn cẳng chạy tới, nét mặt vẫn chưa hết âu lo: “Điện hạ, vụ án của Tào Phương Thạc e rằng còn có ẩn tình khác. Hạ quan phải bẩm báo kỹ lưỡng với ngài.”

“Được.” Lý Khác đưa tấm hốt trong tay cho Quý Thành, lẹ làng giẫm bàn đạp nhảy lên lưng ngựa rồi quay sang nói, “Nếu sốt ruột thì vừa đi vừa nói.”

Tuy Nguyên Nhân Kiền là quan văn, nhưng trên người vẫn mang theo mấy phần dũng mãnh của vương tộc Bắc Ngụy ngày xưa, bình thường cũng luôn một mình cưỡi ngựa đi lại. Gã nắm chặt dây cương, tránh đường chính đông đúc nhộn nhịp, vòng sang một lối nhỏ vắng vẻ hơn, nói với âm lượng vừa đủ: “Sáng nay, hạ quan đi ngang qua cửa nhà của tiểu thương bán cá tên La Dần ở phường Tường Hòa, thấy nhà họ đang đưa ma. Phải tôn trọng người đã khuất nên hạ quan định nhường họ đi trước. Nhưng hạ quan lại nghe được lời bàn tán của hàng xóm trong phố, cảm thấy chuyện có điều đáng ngờ, bèn cẩn thận lắng nghe.”

Lý Khác tò mò hỏi: “Đáng ngờ?”

“Vâng. Thực sự đáng ngờ. Nguyên Nhân Kiền cau mày, tiếp tục nói, “Qua miệng của những người hàng xóm, hạ quan được biết người em trai bệnh liệt giường quanh năm không thể gặp ai của La Dần đã qua đời hơn hai mươi ngày trước. Nhưng vào buổi tối sau khi nhập quan, thi thể lại đột nhiên biến mất. Người nhà họ La muôn phần lo lắng, liền đi nhờ trưởng phường báo quan. Phủ Ung Châu cử người tìm kiếm khắp nơi, nhưng vẫn không có tin tức gì. Song vào tối hôm kia, thi thể đó lại đột nhiên xuất hiện trong linh đường, chỉ là trên ngực có thêm lỗ thủng. Hàng xóm đều nói là ma quỷ phá phách, bảo người nhà họ La mau chóng đem La Mão đi chôn, tiện đường qua chùa mời mấy vị cao tăng đắc đạo về làm phép trừ tà.”

Lá khô bị gió mạnh thổi bay tán loạn trong không trung. Lý Khác tiện tay phủi năm sáu chiếc lá khô rơi trên lưng Lưu Phong, quay đầu nhìn vẻ mặt nghiêm trọng của Nguyên Nhân Kiền: “Tức là sau khi chết, La Mão còn ra ngoài dạo chơi mười mấy ngày, rồi lại về nhà với một vết thương sao?”

“Theo lời đồn trong phường thì đúng là như vậy. Có điều, hạ quan chẳng bao giờ tin chuyện này.” Nguyên Nhân Kiền nói quả quyết, dường như rất xem thường những chuyện quỷ thần kiểu này, “Đúng lúc đó, hạ quan lại nghe cậu con trai nhỏ của La Dần nói, trên mặt La Mão có một vết bớt màu xanh tím, không khéo có năng lực thông linh trời ban cũng chưa biết chừng. Vết bớt xanh tím, điện hạ, ngài biết nó mang ý nghĩa gì không?”

“Người Đột Quyết bị nghi là chết dưới dao của Tào Phương Thạc..” Lý Khác nhớ tới bản tấu báo chi tiết về vụ án này mà mình mới nhận được cách đây không lâu, bất giác thấy ớn lạnh, “Là cùng một người sao?”

Nguyên Nhân Kiền gật đầu: “Hạ quan vừa nghe thấy câu đó cũng giật mình, vội vàng bảo thuộc hạ gọi hai ngỗ tác khám nghiệm tử thi lúc đó tới, sau khi chứng minh thân phận, người nhà họ La đồng ý cho mở quan tài để khám nghiệm. Kết quả đúng là người đó, không nghi ngờ gì nữa. Còn tại sao khi ấy hai ngỗ tác đều không thể tìm ra nguyên nhân thực sự dẫn đến cái chết của La Mão, bọn họ cũng chẳng biết.”

Nét mặt Lý Khác hơi ảm đạm, y ngẩng đầu nhìn bầu trời đen kịt: “Tướng mạo của người Đột Quyết và người Đường thật ra không có khác biệt gì quá lớn. Hôm đó chúng ta đều cho rằng kẻ chết trong tiệm đồ ngọc là người Đột Quyết, thứ nhất vì hắn mặc trang phục của người Đột Quyết, thứ hai vì bên cạnh hắn có hai người bạn nói tiếng Đột Quyết trôi chảy. Thế còn hai tên đó? Giờ đang ở đâu?”

Nguyên Nhân Kiền lắc đầu: “Hạ quan đến quán trọ Thái An hỏi, chưởng quỹ và tiểu nhị đều khẳng định chắc chắn rằng, trước giờ không có ai giống hai tên Đột Quyết đó nghỉ ở quán. Việc này là sơ suất của hạ quan, xin điện hạ giáng tội.”

“Giáng tội hay không không quan trọng. Ta chỉ muốn biết là tại sao. Tại sao bọn chúng phải làm một việc trông có vẻ hoàn toàn vô nghĩa như vậy?” Lý Khác siết chặt dây cương, trên mu bàn tay nổi rõ gân xanh, “Điều duy nhất có thể khẳng định là, Tào Phương Thạc thực sự bị oan. Lát nữa người bảo Trương Phóng dẫn ông ta đến gặp ta. Ta có chuyện muốn hỏi.”

Nguyên Nhân Kiền cung kính “vâng” một tiếng, sau đó không nói gì nữa.

Chịu khổ trong ngục tù hơn nửa tháng, sắc mặt Tào Phương Thạc hơi tiều tụy, bộ râu vốn được tỉa tót hết sức gọn gàng giờ cũng lởm chởm luộm thuộm. Lý Khác chỉ vào một chỗ ngồi phía trước công đường, bảo ông ta ngồi xuống, nói thẳng vào vấn đề: “Tào chưởng quỹ cảm thấy sống trong nhà lao của Đại Lý tự an toàn hơn ở ngoài, phải không?”

Tay của Tào Phương Thạc buông thõng rất không tự nhiên, sau giây phút ngạc nhiên, ông ta gọi một tiếng nghẹn ngào: “Điện hạ…”

Lý Khác xua tay, tỏ ý ông ta chưa cần mở miệng vội: “Bản vương không dám tự khen mình có năng lực nhìn thấu lòng người, nhưng từng tiếp xúc với nhiều nghi phạm, đại khái cũng có thể nhận ra được những ý tứ thể hiện qua thần thái và động tác trong vô thức của người khác. Hôm đó trong tiệm đồ ngọc của ông, bản vương thấy lúc ông bị buộc tội giết người, tuy mặt lộ vẻ bất an, nhưng không có nét hoảng sợ và lo lắng sau khi bị phát hiện bí mật. Khi bản vương nói là phải đưa ông về nhà lao của Đại Lý tự, ông lại có vẻ nhẹ nhõm như trút được gánh nặng. Điều này không phải rất kỳ lạ sao?

“Còn nữa, Thôi lão thất từng nói, sau khi nghe thấy tiếng kêu của ông, ông ta mới phát hiện ra án mạng, mà lúc đó trời còn chưa sáng, bình thường trên phố sẽ không có người đi lại, cho nên tiếng kêu của ông không nhằm thu hút sự chú ý của người khác, mà chỉ là phản ứng theo bản năng sau khi kinh hãi. Nhưng mà khi ta hỏi ông có giết người không, ông lại trả lời lấp lửng nước đôi. Ta vốn tưởng rằng, sau khi phản ứng theo bản năng, ông đã biết ai là hung thủ thực sự, nhưng muốn chịu tội thay hắn, vậy thì ta nhốt ông trong ngục, cũng không hoàn toàn oan uổng; mãi đến hôm nay ta mới hiểu, có lẽ ông chỉ muốn tìm kiếm sự che chở.”

Tào Phương Thạc quỳ gối khấu đầu: “Điện hạ hiểu tận chân tơ kẽ tóc. Tiểu nhân không nên tự ra vẻ khôn ngoan. Nếu nói tất cả cho ngài từ sớm thì đã tốt rồi.”

Lý Khác cười nhạt nói: “Giờ cũng chưa muộn.”

“Vâng! Thưa điện hạ. Chuyện là thế này.” Tào Phương Thạc suy nghĩ một chút rồi nói, “Vài ngày trước khi vụ việc xảy ra, có mấy người Đột Quyết vào cửa hàng của tiểu nhân, nói muốn mua lại nó. Đây là nhà của tổ tiên, tất nhiên là tiểu nhân không bán. Bọn chúng tưởng rằng tiểu nhân chê chúng trả ít bạc, lại ra giá cao tới hai trăm lượng”

“Hai trăm lượng?” Lý Khác ngạc nhiên, “Quả là hào phóng!”

Tào Phương Thạc thở dài: “Chứ sao nữa? Chỉ là tiểu nhân không phải loại người tham tiền mù quáng, lập tức từ chối dứt khoát. Bọn chúng thấy không dụ được bằng lợi, liền đổi sang uy hiếp, bảo rằng nếu không bán cho chúng thì sau này tiểu nhân sẽ gặp rắc rối vô cùng vô tận. Tiểu nhân cũng từng trải sự đời, sao có thể sợ hãi trước những lời nhảm nhí như vậy, liền bảo Trương Nhị Bảo đuổi bọn chúng ra ngoài. Nhưng đến hôm sau, Trương Nhị Bảo đi đòi nợ, lại chẳng thấy quay về. Tiểu nhân không có vợ, Trương Nhị Bảo tiếng là đồ đệ, nhưng thực ra là con nuôi. Thấy nó có chuyện, tiểu nhân đương nhiên sốt ruột, bèn vội vàng báo cho trưởng phường biết.

“Ngay tối hôm ấy, tiểu nhân phát hiện ra một mảnh giấy có găm chủy thủ ở trong phòng ngủ. Bên trên chỉ viết tám chữ: Lời nói lần trước, nay thành sự thật. Đúng lúc đó, từ bên ngoài cửa sổ có một mũi tên bay vào. Nếu không nhờ tiểu nhân biết chút công phu quyền cước, lại né rất nhanh, thì đã mất mạng thật rồi. Ngày hôm sau, tiểu nhân đi múc nước, dây thừng bất ngờ bị đứt, suýt nữa thì rơi xuống giếng chết đuối. Còn có cả rắn độc nữa! Nay đã là cuối thu mà vẫn có rắn độc chui vào bếp lò. Bấy giờ tiểu nhân mới sợ, thật sự sợ hãi..”

“Có chuyện ly kỳ như vậy thật sao?” Lý Khác cắn môi, nghiêm nghị nói: “Trong đám người Đột Quyết uy hiếp ông, có mấy tên ta từng gặp lúc đến lấy cây trâm hoa mai không?”

“Không có!” Tào Phương Thạc khẳng định chắc nịch, “Lúc đó tiểu nhân nghĩ, thay vì cả ngày lo lắng sợ hãi ở bên ngoài, chẳng thà vào trong ngục, có lẽ sẽ bảo vệ được tính mạng mà không phải lo gì.”

“Tào Phương Thạc, tuy ông là thương nhân, nhưng rốt cuộc vẫn khác với những kẻ thô lỗ tham tiền hám lợi đó. Sao ông lại có ý nghĩ ấu trĩ nực cười như vậy chứ?” Lý Khác dở khóc dở cười, “Tội giết người dễ gánh như thế hả? Ông là nghi phạm duy nhất, nếu không có chứng cứ gì mới, bản vương sẽ xử treo cổ ông theo luật. Đến lúc đó không phải ông vẫn chết sao?”

“Nhưng tiểu nhân tin điện hạ có thể phân biệt rõ đúng sai, sẽ không để tiểu nhân chết oan. Tào Phương Thạc nói như thể đó là điều hiển nhiên, “Tiểu nhân sẵn sàng cược một ván. Giờ xem ra tiểu nhân đã thắng rồi.”

“Thế thì ta còn phải cảm ơn lòng tin tưởng của ông đấy nhỉ?” Lý Khác bực mình nói, “Chưa bao giờ nghe thấy chuyện hoang đường thế này! Suốt nửa tháng trời ông không tìm được cơ hội để nói ra sự thật sao?”

Tào Phương Thạc lúng túng, nghiền ngẫm những lời muốn nói ba lượt rồi mới lên tiếng: “Tiểu nhân sợ nói ra những lời này sẽ không ai tin. Dẫu sao… dẫu sao chính tiểu nhân cũng có phần không tin.”

“Vậy giờ ông không sợ nữa à? Ông thật sự cho rằng bản vương dễ bị đánh lừa sao?” Mấy hôm nay, Lý Khác vốn đã phiền muộn rối bời, giờ càng nghĩ lại càng thêm bực bội.

Đúng lúc này, Quý Ân gõ cửa bước vào, đưa một gói nhỏ cho Lý Khác: “Điện hạ, vừa nãy Vương thái y của Thái y thự sang, bảo đây là thứ ngài hỏi ông ta hôm qua.

“Biết rồi, mai ta sẽ đích thân đi cảm ơn ông ta.” Lý Khác đứng dậy, ước lượng gói nhỏ đó trong tay, hài lòng gật đầu nói, “Ta phải ra ngoài một chuyến, cứ để Lưu Phong nghỉ ngơi, ngươi dắt Triệu Bạch ra cho ta nhé. Còn Tào chưởng quỹ… ông đã thích nhà lao của Đại Lý tự ta như thế, thì cứ ở đó tiếp đi. Đợi hôm nào cao hứng ta sẽ thả ông ra!”

Lúc nhìn thấy Lý Khác, Đỗ Húc cười híp cả mắt lại, mau mắn nói: “Điện hạ đến thì tốt quá. Công tử đang luyện kiếm, đã hơn nửa canh giờ rồi, chúng tiểu nhân không dám đi khuyên.”

Lý Khác không đồng tình: “Xưa nay huynh ấy thích luyện kiếm. Có gì phải khuyên sao?”

Đỗ Húc thở dài, hai bên ria mép khẽ rung rinh: “Điện hạ đi xem thì sẽ biết. Huyện chúa theo Giang Hạ vương phi về quê ở Nhữ Nam thăm người thân vẫn chưa trở về, trên đời này e rằng cũng chỉ có ngài khuyên được công tử thôi.”

Lý Khác nghe thấy câu này càng bước gấp hơn, ném cái gói trong tay cho Đỗ Húc: “Di sắc thuốc này trước đi. Sắc xong thì để lửa liu riu đun thêm một canh giờ. Không được lười biếng, phải trông liên tục, biết chưa?”

Đỗ Húc vâng dạ xong liền chạy vụt đi không thấy bóng. Trong vườn hoa, Dương Chính Đạo cầm thanh huyền thiết kiếm hay dùng trong tay, mỗi một kiếm đâm ra đều mang theo khí thế quyết liệt. Xem ra lần này Đỗ Húc không nói ngoa, nếu lúc này lại gần thì sợ rằng gã sẽ không thu tay kịp. Lý Khác bẻ một cành liễu gần đó, nghĩ bụng, cứ kệ đã, để gã phát tiết một hồi như vậy cũng tốt. Bỗng nhiên lại thấy gã đâm kiếm về phía một cây hòe bên cạnh, do lực quá mạnh, kiếm xuyên cả vào trong thân cây. Hồi lâu gã mới rút kiếm ra khỏi cây, hổ khẩu lập tức ứa máu.

“Biểu huynh!” Thấy vậy, Lý Khác mới chạy tới, giật lấy thanh huyền thiết kiếm trong tay gã, “Chúng ta vào phòng nói chuyện.”

Dương Chính Đạo giấu bàn tay vẫn đang chảy máu ra sau lưng, gật đầu.

Hai người ngồi đối diện nhau, yên lặng lắng nghe tiếng nước từ trên mái hiên rỏ xuống. Đến khi âm thanh đó dần dần mơ hồ, Lý Khác mới nói: “Thị nữ áo lam trên điện sáng nay, rốt cuộc giống người đàn bà đó mấy phần?”

Dương Chính Đạo ngước mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, giọng nói xao động không yên, giống như tiếng vọng từ trong núi sâu trống trải mịt mù: “Cũng không thể bảo là quá giống, tuổi tác chênh nhau rất xa. Chỉ là thần sắc của cô ta thật sự giống hệt người đàn bà đó, đến nỗi gần như làm mờ tâm trí ta.”

Lý Khác đỡ trán, thở dài một tiếng: “Xem ra, bọn chúng không chỉ biết huynh mà còn hiểu rõ huynh. Nhưng ta không hiểu, rốt cuộc người đàn bà đó đã làm gì huynh để huynh sợ bà ta như vậy? Vả lại trước giờ cũng không thấy huynh nhắc đến mấy?”

“Không nói là vì ta tưởng mình đã quên rồi. Nhưng từ sau hôm nằm mơ đó, những ký ức không thể chịu nổi ấy lại quấn lấy ta. Thêm vào đó, mấy hôm nay lại xảy ra quá nhiều chuyện kỳ quặc liên quan đến Đột Quyết.” Dương Chính Đạo vừa nói vừa cởi áo bào. Mười mấy năm trôi qua, những vết sẹo trên lưng và cánh tay gã vẫn ghê rợn đáng sợ, nhiều nhất là lằn roi, có cả vết gậy gộc, còn vết sẹo màu nâu sẫm trên cánh tay phải đó rõ ràng là do bỏng mà ra.

Lý Khác đứng bật dậy, quay lưng lại, đấm mạnh một cú vào tường, nghiến răng nghiến lợi căm hận nói: “Sao bà ta có thể đối xử với huynh như vậy? Làm sao có thể! Huynh là cháu của bà ta cơ mà!”

Dương Chính Đạo mặc lại áo bào, thắt đai ngọc, mặt lộ vẻ thê lương: “Đối với triều Tùy, bà ta có một thứ tình cảm gần như cuồng nhiệt và biến thái, ngay cả bà nội cũng không khuyên nổi bà ta. Bà ta hận người họ Vũ Văn đến chết, cũng hận cả họ Lý của đệ. Bà ta bảo ta làm Tùy vương là để một ngày nào đó sẽ đoạt lại giang sơn cho bà ta. Về sau, chắc bà ta cũng hiểu đại thế đã mất, nên gửi gắm hy vọng lên người đệ.”

“Ta?” Lý Khác không quay đầu lại, ánh mắt hướng đến một con chim ngói đang đậu trên cây hòe già bên ngoài cửa sổ, “Bà ta đúng là mơ tưởng hão huyền!”

“Nhưng ta lại thật lòng muốn giúp đỡ đệ” Dương Chính Đạo trầm ngâm, chậm rãi nói, “Năm đó, thực ra ta trông thấy đệ rời khỏi điện Sùng Đức, mới bám đuôi đến đình Quy Vân. Ta rất muốn xem xem, người em họ có vận mệnh tương đồng với ta, sẽ thay ta gánh vác trách nhiệm nặng nề mà bà ta đã nói, rốt cuộc là người như thế nào”

Lý Khác quay người, ngồi lại xuống đệm, chậm rãi nói: “Ta đã khiến huynh thất vọng, phải không?”

“Phải!” Dương Chính Đạo cũng không nghĩ mà nói luôn, “Nhưng ta vẫn tin đệ, và còn ủng hộ mọi quyết định của đệ. Chỉ là bây giờ, ta còn không ổn định nổi tâm trạng của mình. Sợ là không thể giúp đỡ đệ như mong muốn của chính ta, của ông trẻ, thậm chí của người đàn bà đó nữa rồi.

“Huynh đã giúp ta đủ nhiều rồi. Thật đấy.” Lý Khác nhìn gã không chớp mắt, “Bất kể ta muốn làm gì, hay là có ý nghĩ hoang đường gì, chỉ cần nghĩ đến huynh, ta đều cảm thấy yên ổn và bình tĩnh. Biểu huynh, huynh và Kỳ nhi đều là người quan trọng nhất trong cuộc đời ta. Hai người đã là sự giúp đỡ lớn nhất đối với ta rồi. Mọi bí ẩn, ta sẽ giải quyết; mọi nút thắt, ta sẽ cởi bỏ!”

Dương Chính Đạo giãn đôi mày: “Được. Vậy hôm nay đệ đến có việc gì?”

“Ta đến đưa thuốc cho huynh.” Lý Khác mỉm cười, “Huynh có tâm sự, Tuyết Lộ lại không ở đây, đêm xuống nhất định ngủ không yên giấc. Ta bảo Vương Thọ Đức kê cho huynh mấy thang thuốc an thần bổ khí, sai Đỗ Húc đi sắc rồi.

“Thuốc của ông già đó kê? Có thể uống sao? Ta cũng biết y thuật, nếu thực sự cần thì ta tự kê đơn được.”

“Thầy thuốc không thể tự chữa, huống hồ chút bản lĩnh của huynh thực sự chẳng so được với ông ta. Huynh chỉ cần uống thuốc đúng giờ thôi. Ta sẽ bảo Đỗ Húc để ý đến huynh.”

Gió thổi suốt một ngày một đêm, đến lúc hoàng hôn cuối cùng cũng ngừng dần. Lý Khác ra khỏi Dương phủ, từ đường Bảo Khánh của phường Sùng Nhân, vòng qua phường Vĩnh Gia, phường Tường Hòa, phường Chiêu Văn, cuối cùng về đến Đại Lý tự. Những thứ y thấy dọc đường đều là cảnh tượng phồn hoa náo nhiệt của thời thịnh trị. Nguyên Nhân Kiền nói đã cho các vệ sĩ ngày đêm ẩn nấp ở những nơi người Đột Quyết thường qua lại như Trí Bảo trai và tiệm đồ ngọc, tạm thời chưa phát hiện ra bất kỳ điểm gì khả nghi.

Ngày hôm sau, Bạt Dã Đức Long, Đan Ba Dương Nhĩ và những người khác trong đoàn sứ thần, bao gồm cả thị nữ áo lam bí ẩn đó, cùng nhau ra khỏi thành Trường An, lễ số đầy đủ, không có một câu dư thừa. Tất cả các thái y của Thái y thự đều đã kiểm tra kỹ lưỡng miếng ngọc bích đó, hiển nhiên cũng không có vấn đề gì. Lý Khác cũng cầm nó trong tay quan sát tỉ mỉ hơn nửa canh giờ, tuy y đã quen nhìn bảo vật, nhưng vẫn phải thừa nhận miếng ngọc bích này quả thật là vật quý báu nghìn năm khó gặp, bảo nó là thánh vật cũng không quá lời.

Lý Trị quanh quẩn trong thư phòng một hồi, uống hết chén trà nhài đã nguội trên bàn rồi nói: “Tam ca cũng không phát hiện ra điều gì bất ổn sao?”

Lý Khác gật đầu: “Quả thực không có. Có lẽ đúng là chúng ta cả nghĩ rồi. Có hổ uy của phụ hoàng che phủ, thiết nghĩ bọn chúng cũng không dám vọng tưởng gì đâu.”

Lý Trị nói với vẻ mặt nghiêm trọng: “Nhưng mà sáng nay, cô lại nhận được một bức thư cấp báo từ Y Châu. Tam ca mau đọc xem.”

“Người Đột Quyết lại phái quân Ưng sư đến biên giới Y Châu…” Lý Khác mới chỉ đọc mấy hàng, sắc mặt đã thoắt thay đổi, “Đúng là bụng dạ khó lường”

Lý Trị nghe y nói vậy, trong lòng càng thiếu tự tin: “Vậy phải làm thế nào mới tốt? Hay là bây giờ cô xin thánh chỉ điều động một phần binh lực của thành Trường An đến Y Châu đề đề phòng bất trắc?”

“Không! Không được làm phụ hoàng phân tâm. Lý Khác phủ quyết luôn không cần suy nghĩ, “Trận chiến ở Cao Câu Ly đã đến giờ phút then chốt nhất, công nghiệp nghìn năm của phụ hoàng thành bại ngay tại hành động này. Chúng ta không thể mạo hiểm.”

Lý Trị vừa định mở miệng, con ngươi bất giác đảo mấy cái, trong đầu hiện lên lời mà đêm qua Tiêu lương đệ nói với mình ở trên giường: “Ngô vương tuy thông minh, nhưng một khi sự việc liên quan đến người mà y cho là quan trọng, sẽ dễ dàng hành động theo cảm tính. Nếu y hiếu thắng muốn ra mặt, thì ngài chỉ cần thuận theo y là được. Dù sao công lao y lập cũng là của ngài, còn lỗi lầm y mắc lại là của y.

Nghĩ đến đây, khóe miệng Lý Trị nhếch lên một đường cong mang ý vị khó tả. Nếu không có lời nói của nàng, sợ rằng y sẽ không dễ dàng dỡ phòng tuyến tâm lý của mình xuống như thế. May mà một cô gái có mưu mô và thủ đoạn như vậy lại về phe mình, không thì quả thật đáng sợ. Y bèn nói bằng một giọng điệu ôn hòa: “Tam ca lo lắng có lý, chúng ta tạm ém chuyện này lại. Nhưng nếu không xin thánh chỉ thì sao có thể điều động binh mã được?”

Lý Khác chầm chậm siết hai tay lại thành nắm đấm, cắn môi theo thói quen: “Ta có cách để điều binh. Chỉ là không phải điều ra, mà là điều vào!”

“Điều vào?” Lý Trị vê ngón tay, hoài nghi hỏi: “Ý của tam ca là gì?”

“Dù là Ưng sư của Đột Quyết, A Sử Na Xã Nhĩ cũng có thể ứng phó.” Lý Khác nói tiếp, “So với Y Châu, ta lo cho sự an nguy trong thành Trường An hơn. Có những lúc, bình thường quá mức thì lại lộ ra sự bất thường. Phòng họa khi nó chưa tới cũng là việc tốt, thái tử thấy thế nào?”

Một nụ cười nhẹ như gió thoảng mây thưa nở trên khuôn mặt thanh tú của Lý Trị: “Tam ca quyết định là được rồi. Mọi chuyện cô đều nghe theo tam ca.

Lý Khác đứng dậy, kính cẩn cúi người vái một vái: “Được. Ta sẽ gắng hết sức mình, đảm bảo không có gì phải lo.

“Có tam ca ở đây, đương nhiên không có gì phải lo.” Lý Trị đỡ hờ y một cái, trả lễ nói, “Đúng rồi, tam ca và Tiêu thiếu khanh xưa nay qua lại thân thiết, không biết sức khỏe của trưởng tỉ thế nào rồi?”

“Là bệnh cũ nhiều năm. Bảo các thái y điều trị cẩn thận, chắc không đáng ngại. Huống hồ lại có Nhuệ ca ở bên đích thân chăm sóc.”

Lý Trị thở phào: “Vậy thì cô cũng có thể yên tâm rồi. Trưởng tỉ dịu dàng hiền hậu, thấu tình đạt lý, cô luôn kính trọng. Tuy không cùng một mẹ, nhưng mỗi lần nhìn thấy tỉ ấy, cô đều không cầm lòng được nhớ đến Văn Đức hoàng hậu mẹ cô. Mẫu hậu và phụ hoàng là vợ chồng kết tóc, thắm thiết từ nhỏ. Phụ hoàng có thể trở thành minh quân thời trị cai quản thiên hạ, không thể thiếu sự dốc sức cống hiến của bà ấy. Đáng tiếc bà ấy mất sớm, cuối cùng không có phúc được ở bên phụ hoàng ngắm khắp giang sơn tươi đẹp của Đại Đường.”

Trái tim Lý Khác đau như bị ai đó bóp chặt. Y buông bỏ chấp niệm của mình, nhưng không biết chấp niệm đã sớm cắm rễ trong lòng. Những ký ức bị thời gian vùi lấp ấy, những chân tướng y khao khát muốn cho tất cả mọi người trong thiên hạ biết nhưng lại không được ấy, cuối cùng đã biến thành một thanh đao cùn giày vò y suốt đời suốt kiếp.

Lý Khác ngẩng đầu, chăm chú nhìn hai viên ngói sút góc, nói với giọng trầm tĩnh khiến cả chính y cũng ngạc nhiên: “Chỉ cần bà ấy sống trong lòng mọi người là được rồi. Cảnh vật bà ấy không thể nhìn thấy, cuộc đời bà ấy không thể trải qua, tự có người nhớ đến bà ấy đi hoàn thành thay.”

Mã Chu đến chính điện điện Văn Tuyên của Đông cung sau khi Lý Khác đi chưa đầy một tuần trà. Lúc này Lý Trị đang tiện tay giở đọc tấu chương triều thần dâng lên. Nghe Khánh Quý thông báo, y lập tức đứng dậy ra cửa đón, thi lễ rồi vừa cười vừa nói: “Hôm nay tiên sinh đến muộn thế.”

Sau khi Vũ Văn Sĩ Cập chết, Lý Thế Dân đã đề bạt vị Mã Chu xuất thân bần hàn, dựa vào sức của một mình mình để vào làm quan trong triều này giữ chức trung thư lệnh, kiêm thượng thư bộ Lại và thái tử hữu thứ tử, hưởng quyền của tể tướng. Từ năm mười ba tuổi, Lý Trị đã theo học ông ta và có mối quan hệ vô cùng thân thiết. Mã Chu mặc bộ áo bào quan màu đỏ, cúi người vái chào: “Thái tử điện hạ đa lễ rồi.”

Lý Trị vội dẫn ông ta vào nội điện, tiện thể nói với các cung nhân hầu hạ trong điện: “Các ngươi lui cả đi.”

Mã Chu vén áo ngồi xuống đệm gấm, ngắm những chậu cúc họa mi đang nở rộ trên giá hoa một lúc lâu, rồi mới thu ánh mắt lại: “Điện hạ, thực ra thần đến từ sớm rồi, chỉ có điều Ngô vương ở trong, thần thực không dám tùy tiện quấy rầy “Hả? Hóa ra tiên sinh cũng thấy Ngô vương rồi à.” Lý Trị cũng bất giác nhìn lên giá hoa. Chúng đều do thái tử phi bảo các cung nhân chuẩn bị, nhưng y lại không thích. Y thích nhất là hoa mẫu đơn, hơn nữa còn là loại mẫu đơn đỏ diễm lệ nhất: “Vậy tiên sinh cảm thấy Ngô vương là người như thế nào?”

Mã Chu suy nghĩ một chút rồi nói: “Có tài của đế vương, cũng có mệnh của đế vương. Nhưng mà không có vận của đế vương”

Lý Trị cứng người, nét mặt biến đổi liên tục, rất lâu sau mới than thở một câu: “Tiên sinh nói thật là thẳng thắn.”

Giờ Mã Chu mới nhận ra mình lỡ lời, vội dập đầu thưa: “Thần bạo gan nói, xin điện hạ tha cho thần tội đại bất kính.”

“Tiên sinh không cần như vậy.” Lý Trị giơ tay đỡ ông ta, nói với vẻ mặt thản nhiên, “Bệ hạ từng nói tiên sinh có tài của Y Doãn, ắt có thể phò tá minh quân một đời. Tuy ta là thái tử, nhưng chẳng bằng Ngô vương. Về điểm này, ta biết rất rõ, tất nhiên tiên sinh cũng không cần kiêng kỵ.”

“Điện hạ hiểu lầm ý thần rồi.” Mã Chu hơi ngả người về phía trước, “Ý thần là, điện hạ nhất định phải xử lý cẩn thận mối quan hệ với Ngô vương, cũng nhất định phải nhìn rõ thế lực sau lưng Ngô vương”

Lý Trị lạnh lùng nói: “Về vế đầu, lần trước tiên sinh đã nói rồi. Ngô vương là thanh đao sắc để chống giặc, nhưng ta nhất định phải là người điều khiển được thanh đao sắc này. Tiên sinh yên tâm, ta hiểu rõ. Còn về vế sau… ta biết Dương Chính Đạo và Giang Hạ vương, còn cả nhà họ Tiêu nữa, đều hướng về y. Chuyện của đại ca và tứ ca năm xưa, không thể thiếu sự chọc phá của bọn họ. Cậu ngầm tranh đấu với Tiêu Vũ nhiều năm như vậy, thật ra cũng là vì y”

Mã Chu có vẻ rất hài lòng với lời nói của Lý Trị: “Đúng vậy. Nếu thái tử có thể khống chế được Ngô vương, ngài chính là bệ hạ thứ hai. Nếu không thể, thì người đó là y!”

Lý Trị cau mày than: “Nói thì dễ, nhưng muốn làm được thì phải hao tâm tổn trí nhiều. Tiên sinh, ngài phải thường xuyên ở bên nhắc nhở chỉ điểm mới được!”

“Điện hạ yên tâm, đây là phận sự của thần. Tiếp theo Mã Chu lại nói, “Còn về người sau lưng y, thực ra vừa nãy ngài vẫn để sót một người.”

Lý Trị đanh mặt lại, nghi ngờ hỏi: “Là ai?”

Mã Chu nhấp một ngụm trà đã nguội ở trước mặt, hỏi ngược lại: “Điện hạ thực sự không biết, hay là không muốn biết?”

“Là… là bệ hạ?” Tuy cực kỳ không muốn, nhưng cuối cùng Lý Trị vẫn nói ra.

“Là bệ hạ!” Mã Chu lặp lại lời của Lý Trị, như bổ mạnh một búa vào trái tim y, “Thiên hạ không một người cha nào có thể cưỡng lại một người con trai có tướng mạo và tính cách cực kỳ giống mình. Bệ hạ giữ Ngô vương ở lại Trường An, để y lấy cháu gái trưởng nhà họ Tiêu. Bệ hạ cho Dương Chính Đạo quan cao tước lớn, quý trọng như hoàng tử. Ngô vương mới xin cho Tiêu Vũ một câu, bệ hạ đã trọng dụng lại Tiêu Vũ, cho ông ta giữ chức Đông đô lưu thủ đầy vinh hiển, đoán chừng sau khi Đông chinh trở về sẽ vời lại ông ta làm tể tướng. Điện hạ à, may mà Ngô vương chỉ là anh trai khác mẹ của ngài…”

“Tiên sinh không cần nói nữa. Ta hoàn toàn hiểu.” Lý Trị thoáng mất tinh thần, nhưng chỉ chớp mắt sau lại ngẩng đầu ngạo nghễ, “Ta chỉ là người kế vị được lập theo luật pháp, chứ không phải là người kế vị trong lòng bệ hạ.”

“Điện hạ đừng coi thường bản thân” Mã Chu cầm ấm trà lên, rót đầy chén của Lý Trị, “Thứ Ngô vương có, ngài cũng sẽ có. Còn tất cả mọi thứ ngài có, y vĩnh viễn không thể chấm mút được mảy may. Lần này chính là cơ hội tốt nhất.”

Lý Trị nhanh chóng hiểu ra ẩn ý trong lời nói của ông ta: “Người Đột Quyết? Nếu y thật sự thò tay vào trong quân đội, sẽ phạm phải điều cấm kỵ lớn nhất.”

Mã Chu thầm nhủ, quả là đứa trẻ dễ dạy, không hổ là người được Trưởng Tôn công chọn: “Ngô vương quá tự cho mình là đúng. Y tưởng rằng được bệ hạ tin tưởng là có thể tùy tiện làm theo ý mình. Y tưởng rằng chỉ cần hỏi lòng không thẹn, người khác sẽ không nắm được đằng chuôi. Nhưng lại không biết, nếu một ngày y đặt mình vượt lên trên thái tử ngài, bất kể y có lý do chính đáng hay không, cũng mặc kệ y có ý thức được hay không, bệ hạ đều sẽ nảy sinh khúc mắc với y. Giữa cha con đế vương, một khi có khúc mắc sẽ khó mà hàn gắn. Cho dù bệ hạ thật sự không để tâm, vẫn còn có dư luận và lời đồn. Lý trí sẽ không cho phép bệ hạ để tình riêng làm xáo động triều cục. Kể từ giây phút chọn ngài làm người kế vị, bệ hạ đã phải hiểu điều này.

Lý Trị thở dài một hơi: “Buổi nói chuyện của tiên sinh đã giúp ta mở mang đầu óc, lần này tảng đá trong lòng ta thật sự được dỡ bỏ rồi.”

Mã Chu mỉm cười, chân thành nói: “Thần chưa bao giờ cảm thấy điện hạ thua kém Ngô vương”

Lý Trị dần vững lòng hơn: “Chỉ mong sẽ không làm tiên sinh thất vọng.”

Ánh nến chầm chậm đung đưa theo ngọn gió khuya lùa vào qua cửa sổ, Lý Khác lấy tay chống đầu, nhìn hoa văn uyên ương khắc trên giá nến không rời mắt. Quý Ân chỉ vào chiếc hộp gỗ trong tay: “Tào Phương Thạc đã làm xong thứ điện hạ bảo làm rồi. Không biết điện hạ có hài lòng không ạ?”

Lý Khác cũng chẳng vội mở ra, chỉ nói: “Bảo Trương Phóng chăm sóc ông ta tốt một chút.”

Quý Ân gật đầu: “Ti chức biết ạ. Những gì điện hạ bảo ti chức hỏi, tổ chức đều hỏi cả rồi. Ngài đoán đúng hết. Cuối thời Bắc Chu, trong thành Trường An có một lũ đạo tặc không từ việc ác nào mặc sức tàn sát, thế là ông cố của Tào Phương Thạc nghĩ ra cách đó, cuối cùng cũng giúp cả nhà tránh được kiếp nạn.”

“Tốt. Vất vả cho ngươi rồi.” Lý Khác cười rộng lượng, “Ngươi đi nói với Tào Phương Thạc, ta sẽ không truy cứu chuyện của ông ta nữa. Đợi việc này kết thúc, ta sẽ không thiếu ông ta phần thưởng cần có đâu.”

“Ti chức biết ạ” Quý Ân trả lời rất lanh lẹ.

Sau khi Quý Ân rời đi, Lý Khác quay người bước vào thư phòng, lấy ra tấm ngư phù trong chiếc hộp gấm, nắm chặt nó vào lòng bàn tay, từ từ bước đến trước cửa sổ. Những đám mây trên bầu trời đêm trôi chầm chậm theo làn gió, quẩn quanh bất định giống trái tim y vậy. у Y nhớ lại đêm hôm đó, Lý Thế Dân trịnh trọng nói với y rằng: Ngộ nhỡ Đột Quyết, Thổ Phồn có bất cứ hành động bất thường nào, nhất thiết không được rụt nhìn trước ngó sau, cần phải làm thế nào thì cứ làm như thế! Con phải quyết đoán vào.

Cha ơi, tại sao người lại đưa cho con vấn đề khó như vậy? Người chỉ biết con có can đảm và quyết đoán, mà không biết rằng, một khi con làm rồi thì sẽ muôn kiếp không trở lại được sao? Người không nghĩ đến, hay là cố ý không nghĩ Nhưng cho dù người cố ý, con cũng quyết không từ chối. Mẹ bảo con chăm sóc người cho tốt, nhất định con sẽ không làm mẹ thất vọng. Nhưng người là vua, con là tôi. Nói cho cùng chúng ta không phải là cha con nhà thường dân bách tính, thứ ngăn cách chúng ta là giang sơn vạn cân…

Lý Khác thầm nói, mỗi câu nói ra giống như một mũi kim bạc đâm mạnh vào tim y. Nỗi đau thấu xương khó mà chịu nổi đó, sau khi đã trải qua rồi, thì cũng chỉ như vậy mà thôi. Thế nên y vẫn nhìn lên ngôi sao đang nhấp nháy trong đêm tối, nở một nụ cười nhẹ như gió thoảng mây thưa.

Trong lúc ngẩn ngơ, bỗng nghe thấy nhũ mẫu Trương ma ma gõ cửa, lo lắng hỏi: “Điện hạ đã đi ngủ rồi ạ?”

Tiểu La đang canh đêm ở bên ngoài hạ thấp giọng: “Điện hạ thích đọc sách vào buổi tối, nếu ma ma không có chuyện gì quan trọng thì nô tì không dám đi quấy rầy”

Trương ma ma “ôi” một tiếng: “Là thế tử! Thế tử có chút không ổn.”

Lý Khác vừa nghe thấy câu này, liền thu lại tất cả những cô quạnh và mềm yếu nơi đáy mắt, bước ra khỏi phòng trong, nghiêm mặt hỏi: “Có chuyện gì thế?”

Trương ma ma nóng ruột, nhả chữ không được rõ ràng: “Bẩm… bẩm điện hạ, tối nay thế tử cứ khóc mãi không thôi, nô tì và Tống ma ma dỗ thế nào cũng không được. Ban đầu tưởng thế tử bị ốm, nhưng xem chừng có vẻ không giống…”

“Đừng nói nữa, để ta đi xem xem.” Lý Khác không đợi bà ta nói xong đã vội vàng ra khỏi cửa, đi về phía Hồng Bác quán.

Trong Hồng Bác quán, Tống ma ma đang khẽ hát ru, bế Nhân nhi đi đi lại lại, hai tiểu nha hoàn ở bên cạnh cầm búp bê vải chọc cho cậu bé vui. Nhưng Nhân nhi vẫn khóc ngắn ngặt, cơ thể nhỏ bé khẽ run lên.

Lý Khác cẩn thận đón lấy con từ tay Tống ma ma, giơ tay vuốt ve khuôn mặt đỏ bừng vì khóc của cậu bé. Tuy Nhân nhi ra đời sớm hơn Phong nhi một chút, nhưng trông lại không chắc khỏe bằng Phong nhi, phát âm cũng không rõ ràng bằng Phong nhi. Tống ma ma vừa định cúi người hành lễ, lại nghe thấy Lý Khác nói, “Các ngươi lui cả đi! Đêm nay ta sẽ ở đây chăm sóc con.”

Nói ra cũng thật kỳ lạ, Lý Khác chỉ dỗ một lúc, Nhân nhi đã nín, bàn tay nhỏ bé mũm mĩm nắm chặt lấy ngón tay cái của y không buông. Lý Khác nhẹ nhàng đặt Nhân nhi lên chiếc giường êm, sau khi cởi chiếc áo khoác dày nặng trên người xuống, y lại ôm con vào lòng. Cậu bé mở mắt ra, lúc bắt gặp ánh mắt của Lý Khác thì bật cười khanh khách, lúm đồng tiền nơi khóe miệng cực kỳ giống Kỳ Úc. Nụ cười của trẻ con có sức lây lan rất lớn, cậu bé vừa cười, Lý Khác bất giác cũng cười theo, tựa hồ mọi âm mưu và toan tính như ẩn như hiện đó đều tan ra trong nụ cười này.

Giờ Thìn ngày hôm sau, Lý Khác gọi Vân Lĩnh và hơn mười hộ vệ cùng đi đến quân doanh đóng ở ngoài thành. Hôm qua bế Nhân nhi cả đêm, cánh tay hơi nhức mỏi, y nghĩ bụng, công việc dỗ trẻ con này đúng là người bình thường không đảm nhiệm nổi, xem ra phải bảo Vũ Lương tăng tiền công cho mấy nhũ mẫu nha hoàn đó.

Vân Lĩnh cưỡi ngựa đi trước đến cổng doanh trại, nói với một tiểu tướng khoảng mười lăm, mười sáu tuổi ở trước mặt: “Ngô vương điện hạ tới! Mời Sài tướng quân ra ngoài doanh trại gặp.”

Không lâu sau đã thấy Sài Triết Uy mặc áo giáp, vững vàng đi đến, đặt cây trường thương trong tay xuống đất, quỳ một gối hành lễ: “Thần tướng quân Hữu đồn doanh Sài Triết Uy cung nghênh Ngô vương điện hạ!”

Lý Khác giơ tay đỡ gã đứng dậy, quan sát từ trên xuống dưới mấy lượt, vừa cười vừa nói: “Sài tướng quân! Lâu ngày khỏe chứ?”

“Lâu ngày khỏe chứ! Nói gì mà khách sáo thế?” Sài Triết Uy kéo tay áo Lý Khác, nói lớn giọng, “Tam ca, chúng ta vào trong quân trướng nói chuyện.”

Lý Khác theo Sài Triết Uy vào ngồi trong quân trướng, nghe tiếng luyện binh tề chỉnh bên ngoài, không khỏi khen ngợi: “Triết Uy, em huấn luyện họ như thế nào vậy? Thật là giỏi! Nếu bệ hạ nhìn thấy, nhất định sẽ hết sức vui mừng”

Sài Triết Uy gãi đầu, cười thật thà chất phác: “Vậy khi nào bệ hạ trở về, tam ca nhất định phải mời lão nhân gia đến xem đấy. Công việc cai quản Hữu đồn doanh này mệt hơn canh Huyền Vũ môn nhiều. Em phải mười hôm chưa về phủ rồi, ban đầu còn tưởng năm nay có thể cho Văn Nhân một đứa con trai đấy!”

Lý Khác nghe gã nói đến đây, liền không nhịn được cười: “Lần trước Văn Nhân qua vương phủ, cứ một mực ép chị dâu của em viết đầy một trang bí quyết về cách sinh con trai. Hai người… đã thử chưa? Lẽ nào đều không có tác dụng sao?”

Sài Triết Uy bị những lời này làm cho ho sặc sụa mãi không thôi, đến khi uống hết cốc nước mật ong mới lấy lại được hơi thở, nhìn mấy vệ sĩ đứng hầu ở bên cạnh, nén giọng xuống nói: “Tam ca, chuyện này chúng ta tìm nơi khác tỉ tê sau. Ở đây nhiều người nghe thấy lắm! Đừng để bọn họ học lỏm mất.”

Lý Khác đặt thanh bảo kiếm Thanh Hồng chạm kỳ lân nãy giờ cầm trong tay xuống, vẻ mặt cái gì cũng hiểu nhưng phải kìm nén không nói của các vệ sĩ, y càng nhìn càng thấy tức cười: “Rồi rồi rồi, sau này hãy nói. Vốn ta tìm em cũng không phải để tán gẫu, mà là có chuyện quan trọng!”

Sài Triết Uy có vẻ chẳng để tâm đến câu nói này của y, chỉ nhìn kiếm Thanh Hồng không chớp mắt, dường như có vô số ngôi sao nhỏ đang nhấp nháy bên trong, gã không kìm được thò tay mân mê: “Đây là kiếm Thanh Hồng à! Đúng là trăm nghe không bằng một thấy…”

“Lần này không được!” Lý Khác vừa nhìn ánh mắt của gã đã biết câu tiếp theo tất nhiên sẽ là “Nếu tam ca bằng lòng nhường nó, em đây không tiếc khuynh gia bại sản”, bèn vội vàng cầm kiếm Thanh Hồng lên.

“Kiếm của bệ hạ cho tam ca, em có thích mấy cũng không dám đâu.” Sài Triết Uy thấy bộ dạng như che chở con cái của y, vội mở miệng giải thích, rồi lại tò mò hỏi, “Câu trước đó của tam ca là gì?”

Lý Khác nói thẳng: “Ta muốn hai nghìn tinh binh của em theo ta vào thành.”

“Tam ca muốn điều binh?” Sài Triết Uy lập tức thu lại vẻ mặt lười nhác, nghiêm túc nói, “Là ý của bệ hạ hay ý của thái tử?”

“Là ý của ta!” Lý Khác đặt tấm ngư phù trong tay áo lên bàn, trả lời vô cùng dứt khoát.

Sài Triết Uy lưỡng lự nhìn Lý Khác hồi lâu, rồi mới lấy nửa tấm ngư phù mang theo bên mình ra, ghép hai cái với nhau, khớp không sai một li: “Bệ hạ lại trao binh quyền cho anh sao? Ông ấy đặt thái tử ở đâu vậy? Không! Ông ấy đặt anh ở đâu vậy? Rốt cuộc là vì cái gì?”

“Ông ấy vì giang sơn Đại Đường..” Lý Khác đứng dậy, khẽ xoa cánh tay, “Bất kể là ta hay thái tử, đều không thể so với giang sơn Đại Đường. Triết Uy, em hiểu ý của ta không?”

“Không hiểu.” Sài Triết Uy lắc đầu, “Có điều, em là võ tướng, tất nhiên biết đạo lý chỉ nhận binh phù không nhận người, chỉ biết tuân mệnh không hỏi nguyên nhân. Xin tam ca đợi một lát, em sẽ lập tức ra ngoài chọn hai nghìn tinh binh cho tam ca.”

Chỉ trong chốc lát, hai nghìn người đã tập kết xong. Lý Khác chậm rãi đi qua bên cạnh họ, sau khi vòng hai vòng mới hài lòng gật đầu, nói sang sảng: “Từ giờ phút này, các ngươi đều về dưới trướng bản vương. Bản vương chỉ có một yêu cầu duy nhất, đó là tuyệt đối phục tùng! Chỉ cần các ngươi dốc toàn lực hoàn thành việc bản vương giao, ắt sẽ trọng thưởng!”

Các tướng sĩ rào rào quỳ gối xuống, đồng thanh nói: “Kính tuân mệnh lệnh của Ngô vương điện hạ!”

Vì nhà Đường thi hành lệnh cấm đêm, nên chợ trưa trở thành thời điểm bận rộn nhất của lầu trà quán rượu trong các phường của thành Trường An. Sau khi quét lại vôi, Trí Bảo trai trông càng lộng lẫy hoành tráng hơn. Quán rượu được chia làm hai tầng trên dưới, chỗ ngồi ở tầng trên nhiều hơn tầng dưới một chút. Kết cấu bày biện của hai tầng về cơ bản là giống nhau, nhưng tầng trên có tầm nhìn rộng mở, gần như có thể thu hết cảnh phồn hoa náo nhiệt trên phố vào trong mắt, vì vậy rất nhiều quan lớn khách quý, hoặc là các phú thương nơi khác lần đầu đến đều thích ngồi tầng trên. Lâu dần, chỗ ngồi ở tầng trên có giá cao hơn tầng dưới nhiều, thế là thành cái nếp đặc biệt “tầng dưới áo vải tầng trên quý” một cách rất tự nhiên.

Lúc này, tại một chỗ ngồi cạnh cửa sổ trên tầng hai, Quý Thành đang hào hứng thưởng thức chén rượu Nữ nhi hồng thượng hạng ở trước mặt. Đằng sau, hai người đàn ông trung niên than phiền mấy chuyện vợ trong nhà không hiền thục hay ghen tuông, con tè dầm không nghe lời, thời tiết thành Trường An mưa nắng thất thường xong, liền nhìn xuống đường phố náo nhiệt ở dưới lầu.

Một người đàn ông mặt có năm vết rỗ đen nói: “Tiền béo, không phải bố vợ ông làm sai dịch ở phủ Ung Châu sao? Ông có biết gần đây xảy ra chuyện gì không, sao trong thành đột nhiên lại có nhiều binh lính tuần phòng như thế?”

Tiền béo gắp một miếng gà om vào trong đĩa, dùng tay gỡ da và xương gà xong mới bỏ miếng thịt vào mồm, chưa kịp nhai hết đã nói: “Sai dịch cái gì? Không phải chỉ là đầu bếp nấu cơm thôi sao, biết được cái gì cơ chứ?”

Mặt rỗ nhìn vóc dáng ngày càng tròn vo của Tiền béo, phản bác: