Chương 5 Kiếp trước
Ngày hôm sau khi tỉnh dậy, thứ đập vào mắt tôi đầu tiên là một khuôn ngực nhẵn bóng. Tôi hơi ngẩn ra rồi ngước mắt nhìn lên, không ngờ lại nhìn thấy khuôn mặt đang say ngủ của Thẩm Hành. Y ngủ rất ngon, khóe môi hơi nhếch lên, dường như đang mơ thấy một giấc mơ đẹp.
Tôi cố gắng nhớ lại xem đêm qua đã xảy ra chuyện gì rồi biết rằng mình đã gặp phải ác mộng, tiếp đến liền nhào vào lòng Thẩm Hành, cuối cùng thì chẳng biết thế nào mà lại ngủ luôn trong lòng y, nên lúc này hai chúng tôi mới có tư thế ám muội như vậy.
Có điều bây giờ tôi đã chính thức coi Thẩm Hành là sư phụ của mình rồi, tự nơi đáy lòng thừa nhận vị trí của y, do đó cũng không cảm thấy có gì là không ổn. Tôi đưa tay dụi mắt, khi há miệng ngáp dài một cái thì thấy Thẩm Hành đang chậm rãi mở mắt ra.
“A Uyển, tỉnh rồi sao?” Bên khóe môi lộ ra một nụ cười rất mực dịu dàng, y đưa tay tới vuốt ve lọn tóc mai rủ xuống bên thái dương của tôi, sau đó lại vuốt dọc xuống tới bờ má, đầu ngón tay cạ nhẹ vào da thịt tôi. Ngón tay y rất ấm áp, mang tới cho tôi cảm giác dễ chịu vô cùng.
Có điều động tác này hình như có gì đó không đúng lắm thì phải…
Trong ấn tượng của tôi, cha tôi, mẹ tôi, huynh trưởng của tôi, đều chưa từng có hành động thế này. Tôi nhớ là chỉ có mấy tay công tử khi chòng ghẹo các cô nương trong Tần lâu Sở quán mới từng làm ra động tác này thôi.
Tôi hơi sững người, hửm? Lẽ nào sư phụ đang chòng ghẹo tôi?
Cuối cùng tôi đưa ra kết luận: “Sư phụ, quãng thời gian vừa qua người nhất định là thường xuyên tới Tần lâu Sở quán rồi!”
Đôi tay trở nên cứng đờ, Thẩm Hành vội vàng nói: “A Uyển, con nghe ta giải thích đã, đừng nên hiểu lầm. Ta…”
Tôi cảm thấy có chút khó hiểu trước phản ứng này của Thẩm Hành, đi rồi thì đi rồi chứ sao, việc gì phải giải thích với một kẻ đồng đạo như tôi đây? Thế là tôi ngồi dậy, cười vang ha hả vỗ vai Thẩm Hành, nói: “Sư phụ, người không cần phải giải thích đâu, A Uyển hiểu mà.” Dừng một chút, tôi hạ thấp giọng chia sẻ kinh nghiệm của mình với Thẩm Hành: “Có điều, những thói quen này sư phụ ngàn vạn lần đừng thể hiện ra trước mặt cha con! Cha con tinh mắt lắm, nếu biết được chưa biết chừng sẽ trừ bớt lương bổng của sư phụ đấy!”
Tôi uể oải vương vai, ánh mắt vô ý liếc ra phía ngoài. “Ồ, mưa tạnh rồi. Sư phụ, chúng ta có thể quay về được rồi.”
Tôi hứng phấn đưa mắt nhìn Thẩm Hành.
Chẳng ngờ Thẩm Hành lại đang có vẻ buồn bã ủ dột. Tôi chớp chớp mắt hỏi: “Sư phụ, người hình như đang không vui thì phải?” Chính xác hơn phải nói là uể oải mới đúng, nhưng sư phụ tại sao lại uể oải nhỉ?
Thẩm Hành lắc đầu nói: “Ta ra ngoài lấy ít nước về đã.”
Sau khi Thẩm Hành rời đi, tôi dùng tay làm lược chảy tóc cho mình, chuẩn bị bới một búi tóc đơn giản. Hôm qua tôi bị mưa làm ướt hết toàn thân, khi hong quần áo liền nhân tiện gỡ búi tóc ra để cho tóc khô nhanh hơn, vì vậy bây giờ mới có bộ dạng đầu bù tóc rối. Có điều công việc bới tóc này đối với tôi thật chẳng dễ dàng, bởi lẽ thường ngày mọi việc của tôi từ to đến nhỏ đều có Đào Chi và Lê Tâm phụ giúp, hôm nay không có bọn họ ở bên tôi thấy thật không quen chút nào.
Tôi bới thử mấy lần, nhưng lần nào búi tóc cũng lỏng lẻo rồi nhanh chóng rũ xuống.
Tôi khẽ thở dài, đúng lúc này chợt có một bàn tay đưa tới, kèm theo đó là một giọng nói rất mực dịu dàng: “Để ta.”
Tôi ngạc nhiên bật thốt: “Sư phụ, ngay đến cái này mà người cũng biết sao?”
“Chắc là không khó, để ta thử xem.” Thẩm Hành đón lấy cây trâm dùng để cố định mái tóc từ trong tay tôi, những ngón tay thon dài đưa qua đưa lại giữa mái tóc tôi không ngớt, tựa như có một cánh bướm đang bay múa trên đỉnh đầu tôi vậy. Đột nhiên da đầu thít chặt, cây trâm gỗ lướt sát qua da đầu tôi, tôi liền cảm thấy đầu mình nặng nề hẳn, đoán chừng búi tóc đã được bới xong rồi.
Tôi vừa định sờ thử thì Thẩm Hành đã chợt đưa tay về phía tôi.
Tôi thoáng ngẩn ra một chút rồi mới giật mình bừng tỉnh, bèn lấy từ trong vạt áo ra chiếc khảm hoa và cây trâm phỉ thúy đỏ trổ hoa mà Tư Mã Cẩn Du tặng đưa cho Thẩm Hành. Thẩm Hành suốt một hồi lâu chẳng có động tác gì, tôi bèn ngoảnh đầu lại nhìn, phát hiện y đang nhìn chằm chằm vào cây trâm phỉ thúy đỏ trổ hoa kia.
Lẽ nào Thẩm Hành thực sự thần thông quảng đại đến mức mà cây trâm vừa được lấy ra y đã biết ngay là do Tư Mã Cẩn Du tặng cho tôi ư? Tôi hết sức thấp thỏm, cho rằng cây trâm này lại là cái bẫy gì khác mà Tư Mã Cẩn Du bày ra.
Thẩm Hành nhìn thẳng vào mắt tôi, hỏi: “Cây trâm này là do Thái tử tặng cho con sao?”
Tôi thấp thỏm gật đầu, lại hỏi ra nỗi bất an của bản thân: “Nó có vấn đề gì hay sao ạ?”
Thẩm Hành nói: “Chỉ là một cây trâm bình thường mà thôi.”
Tôi yên tâm hẳn, bèn cất lời cảm khái: “Sư phụ đúng là thần thông quảng đại, chỉ nhìn thoáng qua đã biết đó là thứ Thái tử tặng cho con.”
Thẩm Hành mỉm cười nói: “Ta và A Uyển sống với nhau cũng đã được mấy tháng rồi, trong thời gian đó A Uyển chưa từng đeo cây trâm phỉ thúy nào cả, mà cây trâm này lại được điêu khắc tinh tế như thế, chất phỉ thúy cũng cực tốt, giá trị ắt là không nhỏ. Từ lâu đã nghe nói Thái tử rất yêu thích phỉ thúy, nên ta mới đoán cây trâm này là do Thái tử tặng cho.”
Tôi đột nhiên nhớ tới việc Thẩm Hành mỗi lần gặp tôi, ánh mắt đều dừng lại trên đỉnh đầu tôi trước tiên, sau đó thì mới tới mặt tôi.
Tôi cười nói: “Thì ra là vậy, trước đây con thường xuyên thấy ánh mắt của sư phụ liếc qua đỉnh đầu con, vốn cứ ngỡ là do tóc con bị rối, chẳng ngờ sư phụ lại chỉ đang quan sát đồ trang sức con mang trên đầu mà thôi.”
“Không.”
Tôi ngẩn ra: “Không phải ư?”
Thẩm Hành hờ hững nói: “Những lúc ấy ta chỉ thắc mắc một điều, đó là tại sao A Uyển lại không cài cây trâm gỗ đào mà ta tặng cho con.”
Tôi ngẩn ra lần nữa, mãi một hồi lâu sau mới nhớ tới việc Thẩm Hành từng tặng tôi một cây trâm gỗ đào. Tôi vốn chẳng mấy để tâm tới mấy thứ như vậy, ngày đó sau khi bái sư trở về liền tiện tay đặt cây trâm gỗ đào đó qua một bên, thường ngày việc chải chuốt trang điểm của tôi lại đều do Lê Tâm và Đào Chi lo cả, do đó tôi rất nhanh đã quên bẫng nó đi.
Không ngờ Thẩm Hành lại giấu chuyện này trong lòng suốt mấy tháng qua…
Tôi không kìm được lúng túng nói: “Con… con…” Vốn định bịa ra một lý do nào đó, nhưng nhìn vào đôi mắt kia của Thẩm Hành, tôi nhất thời lại chẳng thể nghĩ ra được lời gì để nói cả.
Thẩm Hành cài chiếc khảm hoa kia lên búi tóc của tôi, sau đó chợt hỏi: “A Uyển thích loại trâm cài tóc như thế nào?”
Tôi suy nghĩ một chút rồi đáp: “Con không đặc biệt thích loại nào cả…”
Thẩm Hành đưa trả cây trâm phỉ thúy đỏ trổ hoa cho tôi, tôi nhìn lại y vẻ nghi hoặc.
“Nó không thích hợp với kiểu búi tóc này.” Thẩm Hành hờ hững nói.
Sau khi cùng Thẩm Hành về đến vương phủ, tôi mới biết chuyện mình mất tích một đêm đã làm kinh động toàn bộ kinh thành. Người của Thái tử chẳng quản trời mưa tìm kiếm thâu đêm, tam Hoàng tử cũng phái người của mình đi tìm, ngay đến vị Hoàng đế trong hoàng cung kia cũng lấy cớ là thương yêu thần tử mà điều động một phần binh lực trong thành Kiến Trung đi tìm kiếm.
Đêm qua, ngọn núi đó có thể nói là vô cùng nào nhiệt.
Nhưng lại chẳng ai tìm được hang động mà tôi với Thẩm Hành trú ẩn.
Mẹ thấy tôi bình an trở về thì mừng đến rơi nước mắt, chẳng để tâm tới phong thái của một Vương phi hiền lương thục đức, cứ thế lao tới ôm chặt lấy tôi, nức nở nói: “Con ơi con…”
Tôi đưa tay tới khẽ vỗ lưng mẹ. “Mẹ, con… khụ… khụ khụ khụ khụ khụ khụ…”
Mẹ cả kinh thất sắc, vội buông tôi ra quan sát từ trên xuống dưới một lượt, sau đó lại tiếp tục ôm lấy tôi, sắc mặt trở nên tái nhợt, bật khóc nói: “A Uyển đáng thương của ta ơi, thân thể con tĩnh dưỡng mất bao lâu như vậy, mới một đêm mà đã quay về như cũ rồi ư?”
Tôi muốn nói: Mẹ ơi, kỳ thực thân thể con không có vấn đề gì, tất cả đều tại vừa rồi mẹ ôm chặt quá đấy thôi…
Chỉ đáng tiếc mẹ căn bản không cho tôi có cơ hội lên tiếng, lại tiếp tục nghẹn ngào nói: “Đều tại mẹ không tốt, sớm biết thế này, hôm qua dù có mắc tội tru di cửu tộc mẹ cũng không để con đi với Thái tử… Con của ta ơi, con đã phải chịu khổ rồi…”
Đột nhiên, mẹ cất giọng hằn học: “Rồi có một ngày, nỗi khổ mà con ta phải chịu, ta sẽ bắt người nhà họ Tư Mã chịu lại gấp mười lần!”
Tơi bất giác sững ra, vì chưa bao giờ thấy người mẹ dịu dàng hiền thục của mình có giọng điệu như vậy, hơn nữa còn nói ra những lời đại nghịch bất đạo như thế nữa. Nếu những lời này mà bị kẻ có tâm địa nghe được, vậy thì hậu quả thực khó mà lường trước.
Có điều may mà đám người dưới xung quanh đều sớm đã lui đi cả rồi, ngay cả Thẩm Hành cũng đã rời đi, trong đại sảnh chỉ còn lại mình tôi với mẹ. Tôi khẽ nói: “Mẹ, là sư phụ đã cứu con, con không bị sao hết cả.”
Mẹ buông tôi ra, ngạc nhiên hỏi: “Là Thẩm công tử đã cứu con ư?”
Tôi gật đầu đáp: “Đêm qua con suýt chút nữa đã gặp bất trắc, may mà có sư phụ kịp thời đến cứu. Vì lúc đó mưa quá to, cho nên sư phụ liền tìm lấy một hang động kín đáo rồi hai người bọn con ở trong đó tránh mưa suốt cả đêm.”
Sắc mặt mẹ lập tức trở nên nặng nề, nhưng bà rất nhanh đã thu những tia thần sắc phức tạp lại, ôn tồn nói: “Ơn cứu mạng của Thẩm công tử, con ta nhất định chớ có quên. Con và Thẩm công tử là thầy trò, hai thầy trò đơn độc ở chung với nhau một đêm cũng không phải là chuyện gì quá ghê gớm cả.”
Tôi đột nhiên nhớ tới lời của Liễu Không đại sư, bèn hỏi: “Mẹ, hôm qua con đã cùng Thái tử điện hạ tới chùa Bảo Ân nghe Liễu Không đại sư giảng kinh, có phải hồi con còn nhỏ Liễu Không đại sư từng gặp con rồi hay không vậy?”
Mẹ hờ hững đáp: “Hồi nhỏ thân thể con không được khỏe, ta với cha con mời Liễu Không đại sư tới niệm kinh cầu phúc cho con.”
Tôi tò mò hỏi tiếp: “Vậy có phải Liễu Không đại sư đã nói gì về con không?”
Mẹ nói: “Đùng là có nói một số lời, có điều vì lâu quá rồi nên ta không nhớ được mấy. Sao tự nhiên con lại hỏi tới vấn đề này?”
Tôi cắn chặt môi tỏ vẻ ấm ức. “Liễu Không đại sư nói là mẹ bảo ông ấy phải giấu con một số chuyện.”
Mẹ mặt không đổi sắc, bất chợt cười nói: “Con nói tới đây thì mẹ nhớ ra rồi. A Uyển là con gái, da mặt mỏng, còn Liễu Không đại sư là người xuất gia, bảo ông ấy nói với con những lời đó thực sự là không ổn. Năm xưa ấy à, Liễu Không đại sư xem tướng cho con, nói là con đường tình trắc trở, rất khó tìm chồng. Mẹ sợ con nghe rồi thì đâm khó chịu nên nhờ Liễu Không đại sư giấu kín việc này.”
Tôi liếc thấy hai ngón tay bên dưới áo của mẹ đang bóp chặt lấy viền tay áo thêu chỉ vàng, trong lòng lập tức sáng rõ như gương.
Mẹ đang nói dối.
Mỗi lần nói dối, mẹ thường sẽ làm động tác đó, đây là kết luận của tôi sau mấy năm liền quan sát, tuyệt đối không sai được. Chỉ là, tại sao mẹ phải nói dối như thế chứ? Mà tôi nghĩ ra rồi, nếu muốn biết Liễu Không đại sư từng nói cái gì, tôi cứ đi hỏi Thẩm Hành là được mà.
Chẳng phải mẹ từng nói cha chính là vì Thẩm Hành khi xưa đã nói ra những lời giống hệt với Liễu Không đại sư nên mới không tiếc bỏ ra một số tiền lớn lôi Thẩm Hành ra khỏi núi sâu rừng thẳm ư?
Sau khi rời khỏi đại sảnh, tôi tùy ý kéo một gã người hầu lại hỏi: “Sư phụ ta đâu?”
“Bẩm Quận chúa, Thẩm công tử ra ngoài rồi.”
Vừa mới từ trong núi trở về đã lại ra ngoài rồi ư? Lẽ nào Thẩm Hành muốn tới Tần lâu Sở quán gặp tình nhân cũ? Tôi thoáng có chút thất vọng, khẽ cất tiếng thở dài.
Tin tức tôi bình an trở về vương phủ rất nhanh đã lan ra ngoài, lời đồn ở chung với Thái tử một đêm trong chùa Bảo Ân khỏi cần biện bạch cũng tự tan vỡ. Cha và huynh trưởng rất nhanh cũng đã về phủ, thấy tôi bình an vô sự thì đều thở phào một hơi.
Cha không hề nói gì nhiều, chỉ có huynh trưởng là nói với tôi: “Sau này nếu Thái tử điện hạ hẹn muội ra ngoài, muội cứ giả bệnh đi. Ngày mai ta sẽ cho người ra ngoài phao tin đồn là muội bị kinh sợ quá độ nên đổ bệnh không dậy nổi.”
Nghĩ tới việc không cần phải gặp Tư Mã Cẩn Du nữa, tôi đương nhiên rất vui mừng.
Chắc hẳn Lê Tâm và Đào Chi cũng đã tìm tôi thâu đêm, lúc này cả hai đều áo quần nhầu nhĩ, trên tà váy dính đầy bùn đất, hai đôi giày lụa thêu hoa thì bẩn đến nỗi chẳng còn có thể nhìn ra bộ dạng ban đầu được nữa.
Hai người nước mắt lưng tròng nhìn tôi, nói: “Quận chúa, người không sao thật là tốt quá rồi.”
Tôi nói: “Bổn Quận chúa phúc lớn mạng lớn, hai người cũng vất vả rồi, quay về tắm rửa đi.”
Hai người thưa “vâng” một tiếng. Tôi đột nhiên gọi Đào Chi lại bảo: “Bỏ cây trâm này vào trong hộp đồ trang điểm của ta đi, để trong tay áo mãi thực là nặng quá chừng.”
Đào Chi thoáng ngẩn ra, sau đó mới đón lấy cây trâm phỉ thúy đỏ trổ hoa mà Tư Mã Cẩn Du tặng cho tôi, cúi gằm mặt xuống, nhỏ giọng đáp: “Dạ, Quận chúa.”
Thẩm Hành mãi đến khi chiều tối mới về phủ. Tôi vẫn còn nhớ tới lời của Liễu Không đại sư, thế là một mực chờ trong tiểu viện của Thẩm Hành, cho nên y vừa về đến nơi tôi liền nhìn thấy y ngay.
Y lúc này đang ôm theo ba chiếc hộp sứ tráng men xếp chồng lên nhau.
Tôi ngạc nhiên hỏi: “Sư phụ ra ngoài là để mua đồ sao?”
Thẩm Hành đặt mấy chiếc hộp sứ đó lên trên chiếc bàn đá cẩm thạch, trên mặt thoáng lộ ra nét cười nhưng việc chớp mắt liên tục đã làm lộ ra tâm trạng có chút căng thẳng của y lúc này. “Con mở ra xem thử đi.”
Tôi không biết Thẩm Hành có ý đồ gì nhưng vẫn không kìm được tò mò mà lần lượt mở ba chiếc hộp sứ tráng men ấy ra. Đưa mắt nhìn thử, tôi lại càng ngạc nhiên hơn, bên trong đó không ngờ lại toàn là những thứ như trâm cài tóc, thoa cài tóc, bộ dao[1], đủ kiểu dáng, khiến tôi nhìn mà hoa cả mắt.
“Đây… đây là…”
Thẩm Hành khẽ nói: “Chẳng phải A Uyển không đặc biệt thích loại trâm cài tóc nào ư? Hôm nay ta đã tới Lâm Lang các, chưởng quỹ ở đó nói là các vị cô nương ở tuổi như con bây giờ phần lớn đều thích các món đồ này, trong hai chiếc hộp phía bên trái đều là những thứ bán chạy nhất trong mấy tháng gần đây. Còn nếu A Uyển thích loại độc nhất vô nhị thì trong chiếc hộp phía bên phải đều là các món trân phẩm của Lâm Lang các cả đấy.”
Tôi mở to hai mắt, vốn cứ ngỡ Thái tử đã bạo chi lắm rồi, chẳng ngờ Thẩm Hành mới thực sự là một tay tiêu tiền như nước…
Có lẽ vì thấy tôi mãi một hồi lâu không nói gì, trên trán Thẩm Hành liền rỉ ra một ít mồ hôi, bộ dạng dường như có chút căng thẳng. Rồi y cất giọng dịu dàng: “Nếu A Uyển không thích cũng không sao, ngày mai ta sẽ đến cửa hàng khác mua thêm.”
Tôi vội vàng nói: “Không, con thích lắm. Cảm ơn sư phụ.”
Tôi bị ba chiếc hộp sứ tráng men này làm cho kinh ngạc đến nỗi quên cả hỏi chuyện y, mãi đến lúc về đến tiểu viện của mình mới nhớ ra mục đích ban đầu khi đi tìm Thẩm Hành. Có điều mắt thấy sắc trời đã tối, tôi đành tạm gác việc này lại.
Trước khi đi ngủ, tôi bỗng nhớ tới cơn ác mộng mình gặp phải trong hang động kia, trong lòng bất giác có chút sợ hãi. Tôi gọi Đào Chi lại, kêu thị đốt một chút hương an thần, sau đó mới yên tâm đi ngủ.
Nửa đêm đầu tôi ngủ rất ngon, nhưng nửa đêm sau tôi bỗng cảm thấy có một thứ âm thanh thê lương nào đó đang gọi mình. Tôi đột ngột mở mắt ra, phát hiện xung quanh mình lại là những sự bố trí theo phong cách của vùng Giang Nam, có điều so với vẻ tang tóc lần trước thì khác hẳn, lần này đèn lồng đỏ được treo cao khắp nơi, hiển nhiên là đang có chuyện mừng.
Tôi thử đưa tay ra sờ vào cánh tay của một a hoàn, vẫn giống như lần trước, tay tôi xuyên qua thân thể a hoàn đó.
Đúng như câu một lần thì lạ hai lần thì quen, lần này tôi không còn cảm giác hoang mang sợ hãi như lần trước nữa, sau khi thoáng trầm ngâm một lát liền đi tìm đường ra ngoài. Tôi đã nghĩ kĩ rồi, cứ ra thẳng ngoài còn hơn là đi lại bừa bãi trong tòa phủ đệ này, như thế đoán chừng có thể tránh khỏi việc gặp lại gã Mộc Viễn công tử điên khùng kia lần nữa.
Đêm qua nam tử tên gọi Mộc Viễn đó thực sự đã làm tôi sợ đến nỗi tim đập chân run, đêm nay tự nơi đáy lòng tôi thực sự không muốn gặp lại hắn nữa.
Tôi mới đi được một lát thì chợt có dăm ba ả a hoàn đi về phía tôi.
Tôi rất ngạc nhiên, rõ ràng là đang có chuyện mừng tại sao sắc mặt đám a hoàn này lại lạ thường đến vậy? Nụ cười của mỗi người đều gượng gạo vô cùng, hơn nữa trong mắt họ còn ngợp đầy nỗi sợ hãi.
Mấy ả a hoàn đi xuyên qua người tôi, tôi hơi dừng lại, sau đó tiếp tục đi về phía trước. Khi sắp ra đến ngoài cửa lớn, tôi chợt nghe thấy có tiếng chiêng trống cùng tiếng pháo nổ vang lên không ngớt, làm đôi tai tôi bất giác nhói đau. Tôi bịt tai lại ngước mắt nhìn, lập tức thầm cảm thấy kinh hãi, bởi người mà tôi không muốn gặp nhất không ngờ lại đang ở ngay trước mặt.
Mộc Viễn lúc này mặc một bộ đồ tân lang, trên mặt là nụ cười tươi rạng rỡ.
Tôi ngẩn ra, chuyện này rốt cuộc là sao vậy? Đêm qua hắn còn ôm chặt lấy quan tài mà gào khóc thảm thiết, tại sao mới thoáng đó mà đã tươi cười rạng rỡ đi thành thân với người khác thế này? Nhưng nói đi cũng phải nói lại, lần này gã Mộc Viễn đó trông quả thực dễ coi hơn nhiều.
Về mặt chỉnh thể, tướng mạo hắn còn ở trên Dịch Phong nữa.
Chợt có người cất tiếng hô to: “Tân nương tử tới rồi, tân nương tử tới rồi, tân lang quân mau đi nghênh đón.”
Trong ấn tượng của tôi, việc cưới hỏi vốn phải vô cùng náo nhiệt. Từ phủ đệ Mộc Viễn cư trú mà xét, hắn nhất định là công tử của một nhà có tiền, theo lý mà nói, lần cưới vợ này của hắn ắt phải náo nhiệt hơn so với những gia đình bình thường mới đúng.
Nhưng sau khi tiếng chiêng trống ngưng lại, bên phía chiếc kiệu hoa căn bản chẳng có chút động tĩnh nào, cứ như vật ở trong tranh, ngay đến những người xung quanh cũng đều tĩnh lặng, thần sắc thì chẳng khác nào các a hoàn mà tôi vừa mới gặp.
Tôi lại càng cảm thấy ngạc nhiên hơn, bèn ghé tới xem cho kĩ, chỉ thấy Mộc Viễn đưa chân đá nhẹ vào cửa kiệu, hỷ nương[2] liền run rẩy nói ra những lời tốt lành.
Tiếp theo đó hỷ nương cần phải cõng tân nương tử vào nhà nhưng lúc này khuôn mặt hỷ nương lại tái nhợt, hơn nữa đôi môi còn càng lúc càng run rẩy dữ dội. Cuối cùng, toàn thân bà ta đều run lên lẩy bẩy, ánh mắt thì căn bản chẳng dám nhìn về phía tân nương tử ở trong kiệu hoa.
Đột nhiên, gã người hầu sau lưng Mộc Viễn nhét cho hỷ nương mấy nén vàng, còn ghé đến bên tai bà ta nói mấy lời gì đó. Tôi nghe không rõ lắm, nhưng nhìn thần sắc của gã người hầu đó thì có tám, chín phần mười là hắn vừa buông lời uy hiếp hỷ nương.
Hỷ nương mím chặt đôi môi rồi mới khom người chui vào trong kiệu cõng tân nương tử lên lưng.
Tiếng chiêng trống lại một lần nữa vang lên, tiếp theo đó là tiếng pháo. Thế rồi tân nương tử rốt cuộc cũng đã xuất hiện trong một bộ đồ cưới màu đỏ rực, chỉ là được làm hơi vội vã, có điều chất vải thì rất tốt. Chiếc khăn đỏ trùm đầu đã che đi khuôn mặt của tân nương tử, chiếc áo trên người cũng hơi rộng, đôi bàn tay vốn phải lộ ra ngoài nhưng lại bị che khuất đi hoàn toàn.
Hỷ nương giống như đang cõng một miếng vải lớn bọc người trên lưng vậy.
Tôi nhíu chặt đôi mày, cảm thấy vị tân nương tử này có cái gì đó không đúng lắm, hình như thân thể đặc biệt yếu ớt, ngoài ra tân nương tử còn rất thích hương liệu, trên quần áo xông không biết bao nhiêu loại hương liệu khác nhau, mùi nồng đến mức khiên tôi không kìm được phải hắt xì hơi mấy cái.
Mộc Viễn tươi cười rạng rỡ, tôi thấy lần này Mộc Viễn đã bình thường trở lại rồi thì không còn sợ nữa, liền đi theo hắn vào trong hỷ đường. Trong hỷ đường không có người nào khác, chỉ có mấy ả a hoàn vừa rồi.
Tôi đột nhiên có một sự cảm không lành.
Tân nương tử này mềm oặt như không xương, toàn thân đều tựa vào người tân lang Mộc Viễn. Khi hỷ nương hô to nhất bái thiên địa, Mộc Viễn đỡ tân nương tử hướng ra phía bên ngoài hơi cúi đầu một chút. Đến khi nhị báo cao đường, tình hình cũng gần tương tự như vậy.
Cuối cùng, khi phu thê giao bái, Mộc Viễn ôm lấy tân nương tử, cùng tân nương tử tai ấp má kề một chút qua chiếc khăn đỏ trùm đầu.
Từ đầu đến cuối, tân nương tử căn bản chẳng hề động đậy.
Lúc này, tôi rốt cuộc đã nhìn ra chỗ khác thường nằm ở đâu rồi. Sau khi suy nghĩ một chút, tôi đoán chừng vị tân nương tử này không muốn gả cho Mộc Viễn, thế là Mộc Viễn bèn sai người đánh thuốc mê nàng ta nên trong khi bái đường nàng ta mới không động đậy chút nào.
Tôi muốn qua đó ngó thử dung nhan của tân nương tử. Dù sao lúc này cũng không có ai nhìn thấy tôi, tôi chỉ cần hơi khom người xuống rồi ngẩng đầu lên là có thể nhìn thấy mặt mũi của tân nương tử bên dưới chiếc khăn đỏ trùm đầu rồi.
Tôi bước lên ba bước, ngồi xổm xuống, nhưng khi mới ngẩng đầu lên được một nửa thì Mộc Viễn đột nhiên cất tiếng cười vang vẻ hài lòng, thế rồi bèn hô to: “A Uyển, A Uyển, ta rốt cuộc đã cưới được nàng rồi.”
Lòng tôi bất giác lạnh ngắt như băng.
Hôm qua chẳng phải A Uyển còn nằm trong cổ quan tài gỗ kia sao? Người mà Mộc Viễn cưới hôm nay là A Uyển nào vậy?
Khi ánh mắt tiếp xúc với khuôn mặt của tân nương tử bên dưới chiếc khăn trùm đầu, tôi còn chưa nhìn rõ dung mạo nàng ta thì đã sợ đến nỗi phải kêu thét lên thành tiếng. Chỉ thấy tân nương tử này mặt mày rữa nát, rõ ràng là đã chết được một thời gian rồi.
Chân tôi mềm nhũn đi, cứ thế ngồi bệt xuống đất, đôi môi run rẩy còn dữ hơn hỷ nương vừa rồi.
“A…” Tôi lại kêu thét lên lần nữa, hai tay khua khoắng không ngừng.
Đúng lúc này, giọng nói của Đào Chi đột ngột vang lên: “Quận chúa, Quận chúa, người lại gặp phải ác mộng ư?”
Tôi mở mắt ra, thở dốc liên hồi.
Đào Chi rót cho tôi một chén trà ấm. “Quận chúa hãy uống chén trà đi cho bớt sợ.” Rồi thị liền đỡ tôi dậy, lót vào sau lưng tôi một chiếc gối mềm. Khi lòng bàn tay chạm vào chiếc chén sứ ấm áp, trái tim tôi mới phần nào bình lặng trở lại.
Đào Chi giúp tôi lau mồ hôi lạnh trên trán, cất giọng hết sức nhẹ nhàng: “Đêm qua Quận chúa nhất định là đã sợ quá rồi, có lẽ cần phải mời người về giải hạn cho Quận chúa mới xong.”
Sau khi tôi thở dốc, tôi ngó mắt nhìn ra phía ngoài, thấy sắc trời đã lờ mờ chuyển trắng, đoán chừng trời sắp sáng tới nơi rồi. Tôi khẽ lắc đầu nói với Đào Chi: “Bỏ đi, đừng làm kinh động tới cha mẹ ta, đây không phải là giấc mơ mà khi xưa ta thường gặp.”
Đào Chi đáp “vâng” một tiếng.
Tôi bây giờ chẳng còn lòng dạ nào mà ngủ nữa, bèn nói: “Chuẩn bị nước đi, ta muốn rửa ráy một chút.”
Sau khi Đào Chi rời đi, trong phòng chỉ còn lại một mình tôi, hương an thần trong lò chẳng biết đã hết tự lúc nào. Tôi xỏ giày rồi đi tới bên cạnh bàn trang điểm, nhìn vào chiếc gương đồng, thấy sắc mặt mình đã trở nên trắng bệch. Đột nhiên, tôi nhớ tới vị tân nương tử bên dưới chiếc khăn đỏ trùm đầu, thế là lòng thầm lạnh giá, vội vàng thu ánh mắt về.
Hộp đồ trang sức đang hé mở, tôi ngó nhìn vào trong, thấy cây trâm phỉ thúy đỏ trổ hoa kia nằm nghiêng ở trên cùng. Tôi vốn định đặt nó lại cẩn thận, nhưng khi chạm bàn tay tới lại bất giác sững người.
Trên cây trâm vẫn còn hơi ấm.
Đào chia bưng một chậu nước vào phòng, chờ tôi rửa ráy xong xuôi, Lê Tâm liền giúp tôi chải chuốc trang điểm. Khi nhìn thấy ba chiếc hộp lớn trên bàn trang điểm, Lê Tâm lập tức lộ ra vẻ kinh ngạc chẳng kém gì tôi hôm qua.
Tôi cười nói: “Những thứ này đều là do sư phụ tặng cho ta đấy.”
Lê Tâm lắp bắp nói: “Thế này… thế này… thật là… thật là khoa trương quá.”
Đào Chi nói: “Đồ trang sức ở Lâm Lang các nổi tiếng đắt đỏ, những thứ này tính sơ qua thôi chắc cũng phải ngang với nửa năm bổng lộc của Vương gia rồi, mà Thẩm công tử thì chỉ vừa tới thành Kiến Trung được mấy tháng, trước đây lại ở trong núi sâu…” Nói tới đây Đào Chi liền ngừng lại, không nói tiếp nữa.
Ý của Đào Chi tôi đương nhiên hiểu rõ, kỳ thực tôi cũng hoài nghi không biết Thẩm Hành rốt cuộc lấy đâu ra được nhiều bạc như vậy, có điều ngẫm lại, Thẩm Hành là cao nhân, cao nhân thì tất nhiên có biện phạp kiếm tiền của riêng mình.
Tôi nói: “Những lời này chớ có nói ra trước mặt sư phụ đấy.” Dứt lời, tôi tùy tiện chọn lấy một cây thoa ngọc hình hoa hải đường, nói với Lê Tâm: “Hôm nay hãy cài cái này đi.”
Tôi vừa dùng bữa sáng xong, gã tùy tùng bên cạnh huynh trưởng liền tới nói với tôi rằng đã phao tin tôi vì kinh hãi quá độ mà đổ bệnh phải nằm giường ra ngoài rồi, còn nói: “Xin Quận chúa cứ việc yên tâm, thời gian tới Thái tử điện hạ sẽ không đến gây phiền phức cho Quận chúa nữa đâu.”
Tôi khẽ gật đầu.
Khi Thẩm Hành tới tiểu viện của tôi thì tôi đang kiểm kê những món lễ vật sáng nay vừa được ùn ùn đưa tới, tất cả về cơ bản đều là do những nhân vật quyền quý đương triều tặng. Có điều vẫn còn một việc khiến tôi khá ngạc nhiên, đó là lễ vật được đưa tới trước tiên không ngờ lại là của Công chúa Văn Dương.
Theo tôi nhớ thì quan hệ giữa tôi và Công chúa Văn Dương cũng chỉ bình bình, chẳng ngờ cô ta lại nhiệt tình tặng quà như vậy.
Tôi cười híp mắt nói: “Sư phụ, người tới rồi.”
Ánh mắt Thẩm Hành vẫn dừng trên búi tóc của tôi đầu tiên như mọi lần, và lần này trong mắt y ánh lên mấy tia ngạc nhiên và mừng rỡ. “A Uyển quả là rất hợp với chiếc thoa ngọc này, người vốn đã đẹp rồi đeo thoa vào lại càng đẹp hơn.”
Tôi kỳ thực cũng tự biết mình, tuy thân là Quận chúa nhưng tướng mạo của tôi không hề nghiêng nước nghiêng thành, tối đa chỉ có thể tính là thanh tú mà thôi. Giờ đây được một người tuấn tú phi phàm khen ngợi, tôi bất giác có chút thẹn thùng.
“Sư phụ quá khen rồi!”
Thẩm Hành đưa tay tới xoa đầu tôi, khi vuốt ve cây thoa ngọc đó, ánh mắt y lại càng dịu dàng thêm mấy phần. “Không phải quá khen đâu. Bất kể A Uyển có dung mạo thế nào, trong mắt vi sư con đều là mỹ nhân.”
Tôi cười nói: “Hôm nay mồm miệng sư phụ cứ ngọt như mật vậy.”
Thẩm Hành cũng khẽ cười. “A Uyển không biết câu ‘tình nhân nhãn lý xuất Tây Thi’[3] sao?”
“Rầm” một tiếng vang lên, đống lễ vật chất cao như núi đột nhiên đổ xuống, các mòn lễ vật rơi đầy ra đất, Đào Chi và Lê Tâm vội vàng ngồi xuống nhặt. Lê Tâm lúc này mặt mũi đỏ bừng, còn Đào Chi thì lại mặt mày trắng bệch.
Chẳng biết hai đứa a hoàn này xảy ra chuyện gì mà lại một người biến thành mặt đỏ một người biến thành mặt trắng như thế nữa. Tôi liếc mắt nhìn đống lễ vật trên đất, thấy có ít hương liệu trong một chiếc hộp gấm đã rơi ra ngoài, thế là bèn nói: “Hộp hương liệu này ta không cần nữa, thưởng cho ngươi đấy Đào Chi.”
“Tạ ơn Quận chúa ban thưởng.” Đào Chi nói.
Tôi lại chỉ tay vào một chiếc hộp gấm màu xanh lục khác mà hình như cũng đựng hương liệu, nói: “Lê Tâm, hộp hương liệu đó ta tặng cho ngươi. Hai ngươi mau lui xuống đi, không cần ở lại đây hầu hạ nữa.”
Sau khi Đào Chi và Lê Tâm rời đi, tôi lộ vẻ nghiêm túc nói với Thẩm Hành: “Sư phụ, tuy A Uyển không hiểu lắm về chữ tình, nhưng cũng biết rằng lời này nên dùng trên người ai. Sau này sư phụ chớ nên nói năng linh tinh như vậy nữa, nếu để mẹ con nghe được, mẹ con nhất định sẽ không thích đâu.”
Nụ cười trên khóe miệng tức thì trở nên cứng đờ, mãi một lúc lâu sau Thẩm Hành mới khẽ nói: “Được.”
Tôi nhớ đến những lời mà đêm qua còn chưa hỏi, liền nói: “Sư phụ, trước khi vào phủ người từng nói gì với cha con vậy?”
Thẩm Hành hờ hững đáp: “Ta nói con đường tình trắc trở, rất khó tìm chồng.”
Tôi sững người ra, sao lại giống hệt với những lời mẹ nói thế nhỉ, lẽ nào mẹ thực sự không nói dối tôi? Tôi cẩn thận quan sát thần sắc của Thẩm Hành lúc này, cũng không giống như là đang nói dối tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy mình hồ đồ rồi.
Trong quãng thời gian giả bệnh, tôi được sống một cuộc sống vô cùng thư thái. Thẩm Hành cứ đôi ba ngày lại tới gảy đàn cho tôi nghe một lần, Dịch Phong quả nhiên không nói dối tôi, tài cầm nghệ của Thẩm Hành còn ở trên y nữa, gọi là dư âm vang vọng, vương mãi không tan cũng không có gì là quá cả.
Khi tôi đã bắt đầu si mê tiếng đàn của Thẩm Hành, y đột nhiên không chịu gảy đàn cho tôi nghe nữa, nói là kể từ giờ sẽ chuyển sang dạy tôi các môn công phu quyền cước để phòng thân.
Tôi vốn là nữ giới, tay trói gà không chặt, học công phu quyền cước thực sự vất vả vô cùng, mới luyện được mấy ngày đã bắt đầu có chút bệ rạc. Đồng thời, tôi có thể cảm nhận sâu sắc được rằng Thẩm Hành rất giỏi kế công tâm, trước tiên là cho tôi nếm mùi ngon ngọt, chờ tôi đắm đuối rồi thì đột ngột thu tay về, khiến tôi không thể không vì tiếng đàn của y mà dốc lòng học công phu quyền cước.
Người hiểu tôi, quả chính là sư phụ chẳng sai.
Quãng thời gian này câu nói ưa thích nhất của Thẩm Hành chính là: “Hôm nay nếu có thể đỡ được một nửa chiêu của ta, ta sẽ gảy cho con nghe một khúc đàn.”
Có lẽ vì thiên phú của tôi ở phương diện võ học thực sự quá ư kém cỏi, thành ra đã bảy, tám ngày rồi mà tôi vẫn chưa thể đỡ được nửa chiêu của Thẩm Hành. Tôi ngó nhìn chiếc ngũ huyền cầm của Thẩm Hành mà ngơ ngẩn, cất giọng u oán: “Sư phụ, đàn phủ bụi rồi kìa.”
Thẩm Hành hờ hững nói: “Không sao.”
Sư phụ không sao… nhưng con thì có sao đấy…
Thẩm Hành lại nói tiếp: “Hôm nay nếu con có thể đỡ được nửa chiêu của ta, nó sẽ không bị phủ bụi nữa.” Vừa nói y vừa mỉm cười nhìn tôi. “Đối mặt với kẻ địch cần phải giữ lòng bình lặng, đồng thời nhanh chóng nhìn ra sơ hở của đối phương rồi tấn công. Hôm qua tốc độ lùi của con chậm quá, nếu nhanh hơn một chút thì đã tránh được chiêu đó của ta rồi.”
Tôi cúi đầu ủ rũ nói: “Sư phụ, chiêu số phòng thân có không ít, tại sao người không đưa cho con những vật phòng thân như là ám khí vậy?” Đến lúc đó, tôi chỉ cần tùy ý vung một nắm ám khí ra là được, không cần vất vả học công phu quyền cước thế này nữa.
Thẩm Hành thở dài nói: “A Uyển, con không thể lúc nào cũng mang ám khí trên người được, xét cho cùng trên đời này chỉ có bản thân là đáng tin cậy nhất, cho dù là người thân thiết đến mấy thì cũng không thể ở bên con mọi lúc mọi nơi, kiểu gì cũng phải có lúc sơ suất. Cho nên, con cần phải luyện lấy một thân bản lĩnh thực sự, như thế đến lúc cần dùng tới mới không luống cuống chân tay.”
Tôi biết Thẩm Hành cũng chỉ muốn tốt cho tôi thôi, bèn hỏi: “Hôm nay vẫn như cũ chứ?”
Thẩm Hành gật đầu.
Thẩm Hành tấn công về phía tôi. Tôi không biết võ công của y cao thâm khó lường đến cỡ nào, có điều nhìn tình hình trước mắt thì y hẳn là chưa dùng toàn lực, mà có lẽ ngay đến một nửa thực lực y cũng chưa dùng tới nữa. Tôi vội vàng tránh ngay sang bên phải, chưởng phong của Thẩm Hành ập thẳng vào mặt, khi sắp chạm đến mặt tôi thì tôi đột nhiên kêu “úi chao” lên một tiếng, đôi hàng lông mày cau lại, tay đưa lên giữ chặt bụng.
Chưởng phong lập tức biến mất, Thẩm Hành hoang mang bước tới hỏi: “A Uyển, có phải là đến kỳ kinh rồi không?”
Tôi thiếu chút nữa thì hộc máu tươi ngay tại chỗ, không ngờ Thẩm Hành ngay đến loại chuyện này cũng biết rõ ràng như vậy, thật là thần thông quảng đại quá chừng. Có điều tôi vốn mặt dày, vì được nghe đàn có thể không từ thủ đoạn.
Tôi đột ngột vung chưởng ra, cứ thế đánh thẳng về phía cổ của Thẩm Hành. Khi đầu ngón tay chạm vào da phía cổ của Thẩm Hành, tôi lập tức cười tươi rạng rỡ như hoa: “Sư phụ, vừa rồi A Uyển không chỉ hóa giải được chiêu số của người mà còn phản kích được một đòn nữa, như vậy tính ra có phải là hôm nay người nên đàn cho con nghe hai khúc không?”
Thẩm Hành ngây người nhìn tôi, hỏi: “Không có chỗ nào không thoải mái ư?”
Tôi chớp chớp mắt, đáp: “Sư phụ đâu có nói là không cho phép con dùng khổ nhục kế.”
Mãi một lúc sau Thẩm Hành mới thở ra một hơi thật dài, nói với giọng hết cách: “Lần sau con chớ nên như vậy nữa, khổ nhục kế không phải là với ai cũng đều hữu hiệu đâu.”
Tôi nói: “Con còn có mỹ nhân kế nữa.”
Thẩm Hành chợt lại nghiêm túc dặn dò: “A Uyển, nếu có một ngày con không còn con đường nào khác, bắt buộc phải đưa ra một sự lựa chọn giữa trinh tiết và tính mạng, vậy thì đừng nên vì giữ gìn trinh tiết mà từ bỏ tính mạng của bản thân.”
Tôi bất giác có chút cảm động, Thẩm Hành vốn là người Đại Phụng triều, theo lý mà nói người Đại Phụng triều đều rất xem trọng trinh tiết của nữ tử, thế mà bây giờ y lại có thể vì tôi mà nói ra những lời như thế, quả thực là không dễ dàng gì.
“A Uyển, những thứ khác đều không quan trọng, vi sư chỉ mong con coi trọng tính mạng của mình thôi.”
Tôi cười nói: “Sao sư phụ tự dưng lại nói tới cái này vậy? A Uyển không vô dụng tới mức như thế đâu.” Hơi dừng một chút, tôi cố tình chuyển chủ đề: “Sư phụ không được chối không gảy cho A Uyển hai khúc đàn đâu đấy nhé.”
Thẩm Hành tới lúc này mới tươi cười trở lại. “Đương nhiên rồi.”
Dứt lời, Thẩm Hành quả nhiên đã gảy cho tôi nghe hai khúc đàn. Tôi nghe mà như si như mê, cặp mắt nhìn chằm chặp vào y, hy vọng y có thể gảy thêm một khúc nữa. Có điều Thẩm Hành xưa nay vốn nhất ngôn cửu đỉnh, nói một là một, hai là hai, chưa từng thay đổi.
Tôi vừa rồi có thể giở chút trò thông minh vặt, bây giờ thì không thể nữa rồi.
Lúc này, Đào Chi và Lê Tâm bưng trà và đồ điểm tâm đi vào. Lê Tâm cười nói: “Quận chúa đã học cả buổi sáng chắc cũng mệt rồi, Vương phi kêu em mang tới đây ít đồ điểm tâm mà Quận chúa thích ăn.”
Đào Chi cũng cười nói: “Còn có cả trà búp Tín Dương mà Thẩm công tử thích nữa.”
Bọn họ đặt trà và đồ điểm tâm lên chiếc bàn đá cẩm thạch bên dười gốc cây. Tôi ngửi thấy một mùi thơm nhàn nhạt, bèn hỏi: “Lê Tâm, hương liệu đó dùng có tốt không?”
Lê Tâm gật đầu thưa: “Tạ ơn Quận chúa ban thưởng, hương liệu có mùi thơm lắm.”
Tôi ngửi thử một chút. “Là hương thanh quế ư?”
“Dạ phải, Quận chúa.”
Tôi mỉm cười quay sang nhìn Đào Chi. “Của ngươi thì sao?”
Đào Chi thưa: “Bẩm Quận chúa, là hương bách hợp.”
Tôi ngồi xuống ăn một ít đồ điểm tâm, lại uống nửa chén trà búp Tín Dương. Lê Tâm chợt nói: “Thẩm công tử quả nhiên là thần y, mấy hôm đầu sau khi từ chùa Bảo Ân trở về khí sắc của Quận chúa rất tệ, nhưng bây giờ thì đã tốt hơn rất nhiều rồi.”
Tôi nói: “Gần đây ta không còn gặp ác mộng nữa, khí sắc tất nhiên là phải tốt lên rồi.” Từ sau đêm mơ thấy cảnh Mộc Viễn cưới người chết, những ngày qua tôi về cơ bản đều ngủ một mạch từ tối đến sáng.
Thẩm Hành buông chén trà xuống hỏi: “Vẫn là giấc mơ đó ư?”
Tôi cười đáp: “Dạ không, là một giấc mơ khác. Nói ra kể cũng lạ, con nằm mơ hai lần, mà lần nào cũng mơ thấy một nam tử tên là Mộc Viễn.”
Thần sắc Thẩm Hành tức thì biến đổi hẳn. “Mộc Viễn?”
Tôi cất lời trêu chọc: “Nhìn vẻ mặt này của sư phụ thì cứ như là người quen biết hắn vậy.”
Thẩm Hành đột nhiên đứng bật dậy trước chiếc bàn đá cẩm thạch. Tôi hơi sững ra, bèn hỏi: “Sư phụ sao vậy? Lẽ nào người thực sự quen biết hắn?”
Thẩm Hành đáp: “Không, vi sư chỉ đột nhiên nhớ tới một chuyện gấp cần làm thôi, mấy ngày tới chắc là không thể quay về được.”
Sau khi Thẩm Hành rời đi, tôi bất giác cảm thấy hơi mỏi mệt, bèn quay về trong tiểu viện của mình nghỉ ngơi. Đang khi tôi âu sầu không biết nên làm sao cho qua ngày đoạn tháng, chợt có một gã hầu vội vã chạy vào trong tiểu viện của tôi bẩm báo: “Quận chúa, Công chúa Văn Dương tới rồi.”
Công chúa Văn Dương? Tôi nhớ tới việc lần trước tin đồn mình đổ bệnh được truyền ra ngoài, mọi người liền tặng quà tới tấp, trong đó người tặng sớm nhất chính là Công chúa Văn Dương, không ngờ lần này cô ta còn đích thân tới đây, thực khiến tôi được yêu quá mà hóa sợ. Có điều quan hệ giữa tối và Công chúa Văn Dương vốn chỉ bình bình, tôi thựa sự không đoán được cô ta tới đây là để làm gì.
Mà nói đi thì cũng phải nói lại, Công chúa Văn Dương và Tư Mã Cẩn Du vốn là huynh muội ruột thịt, huynh trưởng tính cách như thế, muội muội đoán chừng cũng chẳng kém gì.
“Úi chao, Quận chúa, người vẫn còn đang giả bệnh đấy, sắc mặt thế này thực là khỏe mạnh quá chừng.” Lê Tâm vội vàng lôi phấn son ra, chuẩn bị tô vẽ lên mặt tôi. Đúng lúc này giọng nói của Công chúa Văn Dương đã vang vào: “Quận chúa nhà các ngươi ở đâu?”
Nghe giọng cô ta thì cứ như là đến để hỏi tội tôi vậy.
Đào Chi cất tiếng thưa: “Bẩm Công chúa, Quận chúa vừa rồi đang ngủ trưa, biết là Công chúa điện hạ quá bộ tới đây, sợ sẽ thất lễ trước mặt Công chúa điện hạ, lúc này Quận chúa đang chải chuốt thay quần áo.”
“Được rồi, nể tình Quận chúa nhà các ngươi đang yếu, bản cung sẽ đích thân tới chỗ cô ta thăm nom. Dẫn đường đi.”
Tôi đưa mắt liếc Lê Tâm, hờ hững nói: “Khỏi cần đánh phấn nữa, ta cứ thế này mà ra ngoài là được rồi.” Công chúa Văn Dương vội vã tới đây như vậy ắt là không có lòng dạ gì tốt, mà nghe giọng điệu vừa rồi của cô ta thì chắc là đang đi về phía khuê phòng của tôi. Có điều, trong khuê phòng của tôi có thứ gì đáng để Công chúa Văn Dương phải như vậy nhỉ?
Lê Tâm đỡ tôi ra ngoài, còn chưa đi được mấy bước đã gặp Công chúa Văn Dương đang vội vã đi tới. Tôi khẽ ho một tiếng, nhún người hành lễ: “Bình Nguyệt bái kiến Công chúa.”
Công chúa Văn Dương hờ hững nói: “Ngươi đang có bệnh trên người, khỏi cần hành lễ.” Hơi dừng một chút, cô ta chăm chú nhìn tôi, nói tiếp: “Xem ra thời gian qua ngươi tĩnh dưỡng không tệ, sắc mặt còn tốt hơn cả ta nữa.”
Tôi cười gượng một tiếng, nói: “Món quá mà lần trước Công chúa đưa tặng rất đẹp, Bình Nguyệt xin có lời cảm tạ tại đây.”
Công chúa Văn Dương nhướng mày. “Vậy ư?”
Trong lòng tôi bất giác giật thót, quả nhiên là tới đây để gây sự, cặp huynh muội này hình như có thù có oán với tôi hay sao ấy!
Tôi tiếp tục cất giọng gượng gạo nói: “Dạ, tất nhiên là vậy rồi…” Để tôi nghĩ lại xem nào, Công chúa Văn Dương rốt cuộc đã tặng cái gì ấy nhỉ? Tôi ném về phía Đào Chi một ánh mắt cầu cứu, Đào Chi vốn đứng sau lưng Công chúa Văn Dương liền chỉ tay vào đỉnh đầu mình. Tôi thở phào một hơi, cười nói tiếp: “Cây trâm đó giá trị không thấp, đã khiến Công chúa phải tốn kém rồi.”
Đào Chi mặt mày ủ dột.
Sắc mặt hơi trầm xuống, Công chúa Văn Dương nheo mắt lại. “Vậy ư?”
Tôi lại đưa mắt nhìn về phía đỉnh đầu Đào Chi, thấy trên đó chỉ có mỗi trâm cài tóc chứ chẳng có thứ gì khác. Tôi không biết phải làm sao, đành nói: “Thời gian vừa rồi bị bệnh lâu quá, đầu óc Bình Nguyệt hơi lú lẫn mất rồi.”
Công chúa Văn Dương cất giọng lạnh lùng: “Có cây trâm phỉ thúy đỏ trổ hoa đó của hoàng huynh, bản cung dù có tặng trâm cho ngươi thì ngươi cũng chưa chắc đã nhớ được.”
Tôi biết ngay mà, một khi nhận cây trâm đó thì sẽ không tránh được chuyện phiền phức, bây giờ Công chúa Văn Dương chính là vì nó mà tới tìm tôi. Tôi cười trừ nói: “Sao thế được.”
“Ồ? Vậy là hoàng huynh thực sự đã tặng cây trâm đó cho ngươi rồi ư?”
Tôi bất giác cảm thấy uất ức, người hà họ Tư Mã này đúng là giảo hoạt, hóa ra Công chúa Văn Dương tới đây là để moi lời tôi. Đã đến nước này rồi tôi cũng đành thừa nhận. “Đúng là Thái tử điện hạ đã thưởng nó cho Bình Nguyệt.”
Bỗng có một cơn gió nổi lên, từ trên cây rơi xuống rất nhiều lá vàng, tôi bèn nói: “Sắp sang thu rồi, trời lạnh, Công chúa điện hạ, chúng ta vào trong phòng nói chuyện thì hơn.”
Công chúa Văn Dương không hề cự tuyệt, khẽ gật đầu.
Lòng tôi lúc này sáng rõ như gương, Công chúa Văn Dương tới đây kỳ thực là để xác nhận xem cây trâm phỉ thúy đỏ trổ hoa kia có ở chỗ tôi hay không.
Vừa mới ngồi xuống, Công chúa Văn Dương đã đột nhiên thay đổi hẳn thái độ, trở nên thân thiện hiền hòa, sau đó cười tươi nói: “Hoàng huynh đối xử với muội đúng là không tệ, cây trâm đó ta và Vinh Hoa đã xin mấy lần mà huynh ấy không cho đấy. Xem ra hoàng huynh rất xem trọng muội, có lẽ chẳng bao lâu sau sẽ xin phụ hoàng ban hôn, đến lúc ấy ta cũng phải gọi muội một tiếng hoàng tẩu rồi.”
Những lời này của Công chúa Văn Dương như có giấu kim bên trong, khiến tôi nghe mà rất khó chịu.
Cô ta lại nói tiếp: “Cây trâm phỉ thúy đỏ này không tầm thường đâu nhé, ngoài việc có giá trị liên thành ra nó còn là do hoàng huynh đích thân vẽ hình rồi sai người chế tạo, bên trong đó ẩn chưa không ít tâm tư của hoàng huynh. Ta nói thực với muội nhé, cây trâm phỉ thúy đỏ còn có chút liên quan tới bà cố nội của ta đấy.”
“Bà cố nội?”
Công chúa Văn Dương nói tiếp: “Bà cố nội của ta có phong hiệu là Ninh An, tức là Công chúa Ninh An. Mẫu hậu ta thường nói, hồi trẻ bà cố nội là một đại mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành.” Công chúa Văn Dương nhìn chằm chằm vào tôi. “Muội có biết chăng?”
Đây đã là chuyện từ bao nhiêu đời trước rồi, tôi làm sao mà biết được chứ? Tôi khẽ lắc đầu.
Công chúa Văn Dương dường như không tin, bèn nhìn chằm chằm vào tôi hồi lâu. Tôi cứ để mặc cho cô ta nhìn. Lại qua một lúc nữa, cô ta mới nói: “Nếu không biết thì hãy nhớ kĩ lấy, bà cố nội ta Công chúa Ninh An là một đại mỹ nhân.”
Chú thích:
[1] Một kiểu đồ trang sức cài đầu, bên dưới có tua, do đó mới được gọi là bộ dao, nghĩa là khi bước đi thì lay động.
[2] Trong lễ cưới ngày xưa, hỷ nương là người chuyên môn săn sóc, lo liệu mọi việc cho tân nương.
[3] Câu này nghĩa là trong mắt người đang yêu thì người yêu của mình đẹp chẳng kém gì Tây Thi, nàng mỹ nữ nước Việt thời Xuân Thu, một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc thời cổ đại.