← Quay lại trang sách

Quá Nhiều Hạnh Phúc.

Nguyên tác: Too Much Happiness

* * *

«Nhiều người không học toán học nhầm lẫn nó với số học và coi đó là một khoa học khô khan và cằn cỗi. Tuy nhiên, trên thực tế, khoa học nầy đòi hỏi một sự tưởng tượng tuyệt vời» - Sophia Kovalevsky.

Ngày đầu tháng giêng năm 1891, một phụ nữ nhỏ người và một người đàn ông to lớn đi bộ trong Nghĩa Trang Cũ, tai Genoa. Cả hai đều khoảng bốn mươi tuổi. Người phụ nữ có cái đầu to trông trẻ con, bộ tóc dầy lọn đen và nét mặt hăm hở, kín đáo cầu khẩn. Gương mặt của cô bắt đầu mỏi mệt. Người đàn ông to lớn. Anh cân nặng 140 ký, một thân hình rộng và là người Nga, người ta thường gọi anh là con gấu, hay là Cossack. Hiện giờ, anh đang cúi xuống trên các mộ bia và viết trong cuốn sổ tay, thu thập những chữ ghi khắc và tìm hiểu những chữ viết tắt không đuoc rõ ràng với anh, mặc dù anh nói tiếng Nga, Pháp, Anh, Ý và hiểu biết tiếng La-tinh cổ điển và trung cổ. Kiến thức của anh mở rộng như vóc dáng của anh và mặc dù anh chuyên về luật pháp chính phủ, anh có khả năng giảng dạy về sự phát triển của các tổ chức chính trị đương thời ở Mỹ, những đặc thù của xã hội ở Nga và phương Tây, và những bộ luật và thông lệ của đế quốc cổ xưa. Nhưng anh không phải là một nhà giáo. Anh dí dỏm và được nhiều người biết đến, dễ chịu ở nhiều cấp độ khác nhau, và có thể sống thoải mái nhất, nhờ những bất động sản của anh gần Kharkov. Tuy nhiên, anh đã bị cấm giữ một chức vụ giảng dạy ở Nga, vì anh là một người Tự Do.

Tên của anh phù hợp với anh. Maksim. Maksim Maksimovich Kovalevsky.

Người phụ nữ đi với anh cũng mang tên Kovalevsky. Cô đã kết hôn với một người họ hàng xa của anh, nhưng bây giờ cô là một góa phụ.

Cô nói với anh giọng trêu chọc.

"Anh biết là một trong chúng ta sẽ chết", cô nói. "Một trong chúng ta sẽ chết năm nay."

Chỉ nghe có phân nửa, anh hỏi lại, "Tại sao vậy?"

"Tại vì chúng ta đi bộ trong nghĩa trang vào ngày đầu của Năm Mới."

"Đúng vậy."

"Hiện vẫn còn một vài điều anh không biết", cô bộc lộ nhưng lo lắng. "Tôi biết trước khi tôi lên tám tuổi."

"Con gái dành nhiều thời gian với người giúp việc trong bếp và con trai trong chuồng bò - Tôi nghĩ đó là lý do tại sao."

"Con trai trong chuồng bò không nghe nói về cái chết?"

"Không nhiều lắm. Họ bận tập trung vào những thứ khác."

Ngày hôm đó có tuyết rơi nhẹ. Bước chân của họ làm tuyết tan để lại những dấu vết đen.

Cô gặp anh lần đầu tiên vào năm 1888. Anh đến Stockholm tư vấn về việc thành lập một trường khoa học xã hội. Họ cùng quốc tịch và cùng cả một tên, nên họ bị đẩy gần lại với nhau mặc dù không có một sự hấp dẫn đặc biệt nào. Cô có trách nhiệm tiếp đón và thường chăm lo người đồng hương Tự Do, không được ưu đãi ở nước nhà.

Nhưng đó không phải là nhiệm vụ gì cả. Họ chạy đến nhau như thể họ thực sự là người thân đã mất liên lạc từ lâu. Một loạt những câu chuyện cười đùa và câu hỏi nối tiếp, một sự thông cảm ngay lập tức, một tràng tiếng Nga phong phú, như thể họ đã bị nhốt quá lâu trong chiếc lồng hình thức hời hợt của ngôn ngữ Tây Âu, hoặc một sự thay thế không đáng kể cho lời nói thực sự của con người. Cách cư xử của họ cũng vậy, đã vượt qua những nghi thức của Stockholm. Anh ở lại trễ trong căn hộ của cô. Cô đi ăn trưa một mình với anh tại khách sạn. Khi anh đau chân vì trượt trên băng, cô giúp anh ngâm và băng chân lại, và hơn thế nửa, cô nói với mọi người về anh. Cô rất chắc chắn về mình lúc đó, và đặc biệt là chắc chắn về anh. Cô viết mô tả anh cho một người bạn, mượn bài thơ của De Musset.

«Anh rất vui vẻ, và cùng một lúc rất ảm đạm

Người hàng xóm khó chịu, một đồng chí hoàn toàn

Đầu óc cực nhẹ, nhưng rất dễ cãm động

Ngây thơ một cách tức tối, tuy nhiên rất nhàm chán

Chân thành khủng khiếp, và cùng một lúc rất ranh mãnh».

Và đoạn kết cô viết: "Anh là một người Nga thực sự, đồng ý như vậy."

Lúc đó, cô gọi anh là Maksim Mập.

"Chưa bao giờ tôi có ý định viết tiểu thuyết, như lúc tôi ở bên Maksim Mập."

Và "Anh chiếm quá nhiều chỗ, trên đi văng và trong tâm trí của con người. Với sự hiện diện của anh, tôi không thể nghĩ gì khác hơn ngoài anh ta."

Đây đúng là lúc cô cần phải làm việc ngày đêm, chuẩn bị đệ trình cho giải thưởng Bordin. "Tôi bỏ qua không những Chức Năng của tôi, mà cả Chiều Dài Vòng Cung và Vật Rắn," cô nói đùa với đồng nghiệp toán học, Mittag-Leffler, người đã thuyết phục Maksim đến lúc phải đi và giảng dạy ở Uppsala trong một thời gian. Cô tự tách rời mình ra khỏi những suy nghĩ về anh, khỏi các mơ mộng, để trở lại với sự chuyển động của những vật rắn và giải pháp của cái gọi là vấn đề mỹ nhân ngư bằng cách sử dụng các chức năng theta với hai biến đổi độc lập. Cô làm việc một cách tuyệt vọng nhưng hạnh phúc, bởi vì anh vẫn còn ở trong tâm trí cô. Khi anh trở lại cô đã kiệt sức nhưng chiến thắng. Hai chiến thắng - công trình của cô sẵn sàng để duyệt lại lần cuối và đệ trình ẩn danh; người yêu của cô gầm gừ nhưng vui vẻ, háo hức trở về từ lưu đày của anh và với tất cả các dấu hiệu cho thấy, như cô nghĩ, rằng cô là người đàn bà của cuộc đời anh.

Giải thưởng Bordin làm họ hư hỏng. Sophia tin như vậy. Lúc đầu chính bản thân cô cũng bị lôi cuốn vào đó, lóa mắt bởi tất cả các đèn chùm và rượu sâm banh. Lời khen ngợi khá chóng mặt, ngạc nhiên và hôn tay tràn đầy trên một số sự thật không thuận lợi nhưng không thay đổi được. Thực tế là họ sẽ không bao giờ cho cô một công việc xứng đáng với thiên tài của cô, rằng cô sẽ thực sự may mắn lắm để có một chổ giảng dạy ở một trường trung học tỉnh cho nữ sinh. Trong khi cô đang vui mừng, Maksim bỏ đi. Tất nhiên là không bao giờ có một lời nói nào về lý do thực sự - chỉ là anh phải viết tài liệu, và cần sự bình an yên tĩnh ở Beaulieu.

Anh cảm thấy không ai để ý đến anh. Một người đàn ông không quen bị bỏ rơi, có thể chưa bao giờ đến bất cứ một buổi họp mặt, bất cứ một tiếp tân nào, từ khi trưởng thành, đó là trường hợp của anh. Và cũng không có gì khác nhiều ở Paris. Không phải là anh vô hình ở đó, trong ánh đèn sáng chiếu vào Sonya, mà vì bình thường anh như vậy. Một người đàn ông có giá trị vững chắc và uy tín thương lượng, với một hình dáng và trí tuệ to lớn nào đó, cùng với ánh sáng của trí thông mình, một sự quyến rũ nam tính khéo léo. Trong khi cô là một khám phá mới lạ hoàn toàn, một nhân vật kỳ dị thú vị, người phụ nữ có thiên tài về toán học và sự rụt rè nữ tính, khá quyến rũ, nhưng với một tâm trạng không bình thường nhất, dưới những lọn tóc của cô.

Từ Beaulieu anh đã viết lời xin lỗi lạnh lùng và hờn dỗi, từ chối đề nghị của cô đến thăm một khi sự bối rối của cô qua đi. Anh nói có một phụ nữ đang ở với anh, anh không thể giới thiệu cho cô được. Người phụ nữ ấy gặp nạn và cần sự chú ý của anh lúc nầy. Anh nói Sonya sẽ trở lại Thụy Điển, cô sẽ hạnh phúc với bạn bè đang chờ đợi cô ở đó. Các học sinh cũng sẽ cần đến cô và đứa con gái nhỏ của cô cũng vậy. (Một cái mĩa mai ở đây, một gợi ý quen thuộc với cô, sự thiếu bổn phận làm mẹ?)

Và cuối thư anh viết một câu tồi tệ.

"Nếu tôi yêu cô tôi sẽ viết khác đi."

Tất cả mọi chuyện đã kết thúc. Từ Paris trở về với giải thưởng và tiếng tăm sáng chói kỳ dị, sự trở lại của cô với bạn bè đột nhiên không còn ý nghĩa gì nhiều hơn là nhất thời. Trở lại với các sinh viên còn có một ý nghĩa gì đó, nhưng chỉ khi cô đứng trước mặt họ để biến thành nhân vật toán học mà cô thể hiện được một cách kỳ lạ. Và trở lại với bé Fufu của cô bị cho là bỏ rơi nhưng thật ra nó phá phách và vui nhộn.

Tất cả mọi thứ ở Stockholm đều làm cô nhớ lại.

Cô ngồi cũng trong phòng đó, bàn ghế được chở về với một chi phí quá ư là điên cuồng qua Biển Baltic. Tướng người to lớn của anh gần đây đã ngồi một cách ung dung trên cái đi văng trước mặt cô. Và khi cô đến bên cạnh, anh khéo léo ôm cô vào vòng tay. Dù với kích thước đồ sộ của anh, anh không bao giờ vụng về trong chuyện ái ân.

Cũng chiếc ghế gấm hoa màu đỏ nầy, các vị khách quý và tầm thường đã ngồi trong căn nhà cũ kỹ lạc lõng của cô. Có lẽ Fyodor Dostoyevsky đã ngồi đó với tâm trạng căng thẳng tội nghiệp, hoa mắt bởi Aniuta, chị của Sophia. Và Sophia, đứa con mà người mẹ không hài lòng, chắc chắn cảm thấy bực mình như thường lệ.

Cũng chiếc tủ cũ mang từ nhà cô ở Palibino, với bức chân dung của ông bà vẽ trên sứ lộng trong đó.

Ông bà Shubert. Không được thoải mái. Ông trong bộ đồng phục, bà trong một chiếc áo dạ hội, phô trương sự hài lòng vô lý. Họ đã có những gì họ muốn, Sophia nghĩ vậy, và chỉ có sự khinh miệt đối với những người không đồng ý hoặc may mắn như họ.

"Anh có biết là tôi lai Đức?", cô đã nói với Maksim.

"Tất nhiên. Làm thế nào khác hơn được vì cô là một thần đồng của ngành công nghiệp? Và đầu của cô đầy số huyền thoại?"

Nếu tôi yêu cô.

Fufu mang mứt đến cho cô trên một cái dĩa, rủ cô chơi bộ bài của trẻ con.

"Để mẹ yên. Con để mẹ yên được không?"

Sau đó cô lau những giọt nước mắt và cầu xin đứa bé tha lỗi.

Nhưng Sophia, dù sao, không phải là một người buồn rầu mãi mãi. Cô nuốt niềm tự hào và tập trung nguồn lực của mình, viết thư vui vẻ đề cập dễ dàng đến những thú vui phù phiếm của họ - cô đi trượt băng, cưỡi ngựa và sự chú ý của họ đến chính trị Nga và Pháp có thể đủ để làm anh thoải mái, và thậm chí đủ để cho anh cảm thấy rằng lời cảnh cáo của anh tàn nhẫn và không cần thiết. Cô tìm cách cố gởi đi một lời mời khác, và lấy ngày nghỉ đi Beaulieu ngay sau khi các lớp giảng của cô kết thúc, vào mùa hè.

Những thời gian dễ chịu. Cũng có hiểu lầm, như cô gọi. (Với thời gian, cô thay đổi điều nầy thành "nói chuyện".) Những lúc lạnh lẽo, tan vỡ, gần tan vỡ, sự tài ba đột ngột. Một chuyến đi gập ghềnh vòng Châu Âu, tự giới thiệu, một cách công khai và tai tiếng, như những người tình.

Đôi khi cô tự hỏi liệu anh có người phụ nữ nào khác không. Chính cô hay đùa giỡn với ý nghĩ kết hôn với một người Đức đeo đuổi cô. Nhưng người Đức quá nhỏ mọn, và cô nghi ngờ anh ta muốn một bà nội trợ. Ngoài ra, cô không yêu anh ấy. Máu của cô càng nguội hơn mỗi khi anh nói những lời yêu đương thận trọng bằng tiếng Đức.

Maksim, có một lần anh đã nghe nói về cuộc tán tỉnh thật vẻ vang nầy, nói rằng tốt hơn cô nên kết hôn với chính anh. Anh nói miễn là cô thoải mái với những gì anh có thể mang lại. Khi anh đề cập đến điều nầy, anh giả vờ nói chuyện về tiền bạc. Để được thoải mái với sự giàu có của anh tất nhiên là một trò đùa. Để được thoải mái với sự cung cấp cảm giác lịch sự, ấm áp, loại bỏ những lần cô thất vọng và bối cảnh không vui - là một vấn đề hoàn toàn khác nhau.

Cô né tránh bằng cách trêu chọc, để anh nghĩ rằng cô tin anh không có ý định nghiêm túc, và không có quyết định gì nửa. Nhưng khi cô trở lại Stockholm cô nghĩ mình là một kẻ ngốc. Và vì vậy cô đã viết cho Julia, trước khi cô đi về miền nam vào dịp Giáng Sinh, nói rằng cô không biết cô đang hướng về hạnh phúc hay buồn khổ. Cô muốn nói cô sẽ tỏ ra nghiêm túc và tìm hiểu nếu anh cũng vậy không. Cô đã chuẩn bị cho mình sự thất vọng nhục nhã nhất.

Cô không cần phải làm gì hết. Dù sau, Maksim là một người đàn ông lịch sự và anh đã giữ lời hứa. Họ sẽ kết hôn vào mùa xuân. Một khi đã quyết định, họ trở nên thoải mái với nhau hơn là lúc khởi đầu. Sophia cư xử tốt, không hờn dỗi hoặc nổi giận. Anh mong chờ một chút đoan trang, nhưng không phải là một người nội trợ đoan trang. Anh sẽ không bao giờ phản đối, như một người chồng Thụy Điển có thể làm, khi cô hút thuốc lá và uống trà và tranh cải chính trị không ngừng. Và cô không khó chịu khi bệnh gút làm phiền anh, làm cho anh vô lý, câu có và tự thương hại, như chính cô. Dù sau, họ cũng là đồng hương. Và cô cảm thấy tội lỗi phiền hà người Thụy Điển đã thừa nhận được và cũng là người Châu Âu duy nhất sẵn sàng mướn một nhà toán học nữ cho viện đại học mới của họ. Thành phố của họ quá sạch sẽ và ngăn nắp, thói quen quá chừng mực, đảng phái quá lịch sự. Một khi họ đã quyết định một số phương hướng chính xác họ chỉ cần tiếp tục làm và theo dõi, mà không cần một trong những đêm hăng hái và có lẽ nguy hiểm để tranh cải liên tục mãi mãi ở Petersburg hay Paris.

Maksim sẽ không can thiệp vào công việc thực sự của cô, đó là nghiên cứu, chứ không phải giảng dạy. Anh sẽ vui mừng cô có một cái gì đó để thu hút cô, mặc dù cô nghi ngờ anh nhận thấy toán học không tầm thường, nhưng chiếm một vị trí nào đó bên ngoài. Làm sao một giảng viên về luật và xã hội học có thể nghĩ khác được?

Một vài ngày sau đó, thời tiết ấm hơn ở Nice, khi anh đưa cô ra xe lửa.

"Làm thế nào em có thể đi được, làm thế nào em có thể để lại khí hậu ấm áp nầy?"

"A, nhưng mà bàn làm việc và các phương trình vi phân của em đang chờ đợi. Vào mùa xuân, em sẽ không thể nào tách rời mình ra được nửa."

"Anh nghĩ như vậy sao?"

Cô không được suy nghĩ - cô không được nghĩ rằng đó là một cách chạy vòng của anh muốn nói anh ước ao họ sẽ không kết hôn vào mùa xuân.

Cô đã viết cho Julia, nói rằng cuối cùng đó là để hướng về hạnh phúc. Cuối cùng là hạnh phúc. Hạnh phúc.

Tại bến xe lửa một con mèo đen băng chéo qua con đường họ đi. Cô ghét mèo, đặc biệt là mèo đen. Nhưng cô không nói gì và khẽ rùng mình. Và như để thưởng cho sự tự chủ của cô anh tuyên bố sẽ đi với cô đến tận Cannes, để cô cảm thấy dễ chịu hon. Cô gần như không thể trả lời, cô cảm thấy thật an lòng. Cùng lúc đó nước mắt như muốn tuôn trào ra. Khóc ở nơi công cộng là cái gì đó anh thấy hèn hạ. (Anh cũng không nghĩ anh cần phải chịu đựng nó một cách riêng tư.)

Cô cố gắng cầm lại nước mắt, và khi họ đến Cannes, anh ôm chặt cô vào bộ đồ rộng rải may cắt thật đẹp đầy mùi nam tính của anh – một hỗn hợp động vật có lông và thuốc lá đắt tiền. Anh hôn cô một cách đàng hoàng, nhưng vừa đưa lưỡi lướt nhẹ dọc theo môi cô, gợi lại những ham muốn cá nhân.

Tất nhiên là cô đã không nhắc anh rằng công việc về Lý Thuyết Phương Trình Vi Phân đã được hoàn thành khoảng thời gian trước đây. Cô dành giờ đầu tiên của chuyến đi đơn độc như cô thường làm sau khi chia tay với anh - để cân bằng những dấu hiệu tình cảm đối với sự thiếu kiên nhẫn và sự thờ ơ đối với một niềm đam mê nào đó.

"Luôn luôn nhớ rằng khi một người đàn ông đi ra khỏi phòng, anh để lại tất cả mọi thứ trong đó," Marie Mendelson bạn của cô đã nói. "Khi một người phụ nữ đi ra cô mang theo tất cả những gì xảy ra trong phòng."

Ít nhất bây giờ cô có thời gian để khám phá rằng cô đau cổ. Nếu anh cũng bị, cô hy vọng anh sẽ không nghi ngờ cô. Là một người độc thân sức khỏe vững chắc anh xem mọi lây nhiễm nhẹ như một sự xúc phạm, hệ thống thông gió kém hoặc hơi thở hôi hám như những cuộc tấn công cá nhân. Nói một cách khác anh thực sự khá hư hỏng.

Thực sự hư hỏng và ganh tị. Trước đây anh viết cho cô nói rằng vài tác phẩm của anh đã bắt đầu được gắn liền với cô, vì sự rủi ro của cái tên. Anh đã nhận được một lá thư từ một đại lý văn học ở Paris, bắt đầu bằng cách gọi anh là Bà.

Than ôi anh đã quên, anh nói, rằng cô vừa là một tiểu thuyết gia vừa là một nhà toán học. Thật là thất vọng cho anh chàng đại lý ở Paris rằng anh không là gì hết. Chỉ đơn thuần là một học giả, và một người đàn ông.

Thật là một trò đùa rất lớn.

***

Cô ngủ thiếp đi trước khi đèn được bật sáng trong xe lửa. Những suy nghĩ cuối cùng của cô khi còn thức - suy nghĩ khó chịu - là về Victor Jaclard, chồng người chị đã chết của cô, mà cô định ghé thăm ở Paris. Thực sự là cô mong gặp đứa cháu trai, Urey, con của chị cô, nhưng cậu ta sống với cha. Cô luôn thấy Urey trong tâm trí như cậu bé vào khoảng năm hoặc sáu tuổi, tóc vàng như một thiên thần, tin tưởng và dễ thương một cách tự nhiên, nhưng không có tính khí giống mẹ, Aniuta.

Cô thấy mình trong một giấc mơ lẫn lộn về Aniuta, nhưng về một Aniuta từ lâu trước khi Urey và Jaclard có mặt trong bối cảnh. Aniuta chưa lập gia đình, có mái tóc vàng, xinh đẹp và nóng tính, lúc ở trang trại gia đình Palibino, nơi cô đang trang trí căn phòng ở tháp của mình với các biểu tượng Chánh Giáo và phàn nàn rằng đây không phải là hiện vật tôn giáo thích hợp cho thời trung cổ Châu Âu. Cô đã đọc một cuốn tiểu thuyết của Bulwer-Lytton và đã che mặt quấn vải vào người, để đóng vai một cách đúng hơn Edith Cổ Thiên Nga, tình nhân của Harold of Hastings. Cô dự định viết cuốn tiểu thuyết về Edith, và đã viết một vài trang mô tả cảnh nhân vật nữ chính, phải nhận diện cơ thể người yêu bị chặt ra, qua vài dấu vết mà chỉ một mình cô biết được.

Bằng cách nào đó Aniuta đã đến trên chuyến xe lửa và đọc các trang nầy cho Sophia, mà cô không thể nào tìm được lời để giải thích với Aniuta rằng các sự kiện đã thay đổi và những gì đã xảy ra kể từ ngày cô sống trong căn phòng ở tháp.

Khi thức dậy Sophia nghĩ tất cả đều đúng sự thật - nỗi ám ảnh của Aniuta với thời Trung cổ và đặc biệt là lịch sử Anh - và đến một ngày chuyện đó biến mất thế nào, khăn che mặt và tất cả, như chẳng có gì đã từng xảy ra, và thay vào đó một Aniuta nghiêm tốn và hiện đại đang viết về một cô gái, vì những lời thúc giục của cha mẹ và những lý do thông thường từ chối một học giả trẻ và anh chàng chết. Sau đó cô nhận ra cô yêu anh, vì vậy cô không có sự lựa chọn nào khác ngoài tìm cái chết để theo chàng.

Cô bí mật gửi câu chuyện nầy cho một tạp chí mà Fyodor Dostoyevsky làm biên tập, và nó đã được in.

Cha cô bị xúc phạm.

"Bây giờ con bán các câu chuyện của con, đến lúc nào thì con sẽ bán mình?"

Trong tình trạng hỗn loạn nầy chính Fyodor xuất hiện trong bối cảnh, hành xử xấu tại một bữa tiệc nhưng dịu dàng với mẹ của Aniuta bằng một cú gọi điện riêng, và kết thúc bằng một lời câu hôn. Cha cô quá dứt khoát chống lại hành vi của cô nên gần như đã thuyết phục Aniuta chấp nhận, để né tránh tai tiếng. Nhưng dù sau cô cũng thích ánh đèn rạng rỡ của riêng mình, và có lẽ linh cảm thế nào cô phải hy sinh điều nầy với Fyodor, nên cô đã từ chối anh. Anh đã cho cô vào cuốn tiểu thuyết của anh tựa đề Kẻ Ngốc như Aglia (The Idiot as Aglia), và cưới một người viết tốc ký trẻ.

Sophia ngủ gật một lần nửa, rơi vào một giấc mơ khác trong đó cô và Aniuta đều còn trẻ nhưng không quá trẻ như khi ở Palibino, và họ đang ở tại Paris, và Jaclard người yêu của Aniuta - chưa là chồng của cô ấy - đã thay thế Harold of Hastings và tiểu thuyết gia Fyodor như người hùng của cô, và Jaclard là một anh hùng chân chính, mặc dù có những thói xấu (anh tự hào với lý lịch nông dân của mình), và từ lúc đầu, anh không chung thủy. Anh đang chiến đấu ở đâu đó bên ngoài Paris, và Aniuta sợ anh sẽ bị giết, vì anh rất dũng cảm. Bây giờ trong giấc mơ của Sophia, Aniuta đi tìm anh, nhưng các đường phố cô đi lang thang khóc lóc và gọi tên anh nằm trong Petersburg, không phải Paris, và Sophia bị bỏ lại trong một bệnh viện lớn ở Paris đầy những người lính chết và người dân máu me đầm đìa, và một trong những người chết chính là chồng của cô, Vladimir. Cô chạy ra khỏi tất cả những thương vong đó, cô tìm kiếm Maksim, người được an toàn khỏi cuộc chiến tại Khách Sạn Splendide. Maksim sẽ mang cô ra khỏi nơi đây.

Cô thức dậy. Trời mưa bên ngoài và tối, và không phải có một mình cô trong toa xe lửa. Một phụ nữ trẻ trông không gọn gàng ngồi cạnh cửa, tay cầm một bìa giấy đựng bản vẽ. Sophia lo sợ cô có thể đã khóc trong giấc mơ, nhưng có lẻ không, bởi vì cô gái đang ngủ yên.

Giả sử cô gái nầy thức và Sophia sẽ nói với cô, "Xin lỗi cô, tôi đã mơ về năm 1871. Tôi có mặt ở đó, ở Paris, chị tôi yêu một người dân trong Thị Xã. Anh ta bị bắt và anh có thể bị bắn hoặc gửi đi New Caledonia nhưng chúng tôi đã mang được anh ta ra. Chồng tôi đã làm chuyện đó. Vladimir chồng tôi không phải là một người dân trong Thị Xã gì cả nhưng anh chỉ muốn đến đó để xem các hóa thạch trong Vườn Cây."

Cô gái sẽ bị nhàm chán. Cô có thể tỏ ra lịch sự nhưng vẫn cho biết cảm nghĩ rằng tất cả điều nầy, theo ý cô, có lẻ đã xảy ra trước khi Adam và Eva bị trục xuất. Cô ấy có thể cũng không phải là người Pháp. Cô gái Pháp nào có đủ khả năng để đi du lịch hạng nhì thường xuyên không đi một mình. Hay cô là người Mỹ?

Thật là đúng một cách kỳ lạ Vladimir đã dành một số ngày đó ở trong Vườn Cây. Và không đúng sự thật là anh đã bị giết chết. Ở giữa cuộc khủng hoảng anh đặt nền móng cho sự nghiệp thực sự duy nhất của anh, như một nhà cổ sinh vật. Và cũng đúng khi Aniuta đi cùng với Sophia đến một bệnh viện mà tất cả các y tá chuyên nghiệp đã bị sa thải. Họ được xem là phản cách mạng, và được thay thế bằng những người vợ và các đồng chí của Thị Xã. Những người phụ nữ bình thường nầy bực dọc phải thay thế bởi vì thậm chí họ không biết làm thế nào để băng bó, và những người bị thương đã chết, nhưng hầu hết trong số họ cũng sẽ chết. Bệnh tật cũng như những vết thương của cuộc chiến cần phải được giải quyết. Người dân bình thường đã phải ăn thịt chó và chuột.

Jaclard và những người cách mạng của anh đã chiến đấu trong mười tuần lễ. Sau khi thua trận anh bị giam giữ tại Versailles, trong một ngục tối dưới hầm. Nhiều người đã bị bắn bởi vì họ bị nhầm lẫn là anh. Theo bản báo cáo.

Vào thời điểm đó, ông Đại Tướng, cha của Aniuta và Sophia, đã đến từ Nga. Aniuta đã được đưa đến Heidelberg, nơi mà cô suy sụp xuống giường. Sophia trở lại Berlin và nghiên cứu toán học, nhưng Vladimir ở lại, bỏ nhóm sinh hoạt ở đại học để thông đồng với Đại Tướng tìm cách cứu Jaclard ra. Chuyện nầy được dàn xếp bởi hối lộ và dám làm. Jaclard sẽ được chuyển giao dưới sự canh gác của một người lính đến một nhà tù ở Paris, và đi qua một con đường nơi đó sẽ có đông người vì một cuộc triển lãm. Vladimir sẽ cướp anh ta đi trong khi lính bảo vệ nhìn sang phía khác, như ông đã được trả tiền để làm. Và vẫn dưới sự hướng dẫn của Vladimir Jaclard sẽ được hối hả đưa ra khỏi đám đông đến một căn phòng, nơi đó anh sẽ thay vào một bộ quần áo dân sự, sau đó đưa anh đến nhà ga xe lửa và với hộ chiếu của Vladimir, anh có thể trốn thoát qua Thụy Sĩ.

Tất cả chuyện nầy đã được thực hiện.

Jaclard không bận tâm gửi lại hộ chiếu cho đến khi Aniuta qua gặp anh, và sau đó cô trả nó lại. Tiền không bao giờ được hoàn lại.

Sophia gửi tin nhắn từ khách sạn của cô ở Paris đến Marie Mendelson và Jules Poincaré. Người giúp việc của Marie trả lời rằng bà chủ đang ở Ba Lan. Sophia gửi một tin nhắn nửa để nói rằng có thể cô sẽ cần sự giúp đỡ của người bạn, khi mùa xuân đến, để "lựa chọn bất cứ bộ trang phục nào phù hợp với sự kiện mà thế giới có thể xem như quan trọng nhất trong cuộc đời người phụ nữ". Trong dấu ngoặc cô nói thêm rằng bản thân cô và thế giới thời trang "vẫn còn trong những điều kiện khá lúng túng."

Poincaré đến đặc biệt thật sáng sớm, phàn nàn ngay tức khắc về hành vi của nhà toán học Weierstrass, người cố vấn cũ của Sophia, và là một trong những vị giám khảo cho giải thưởng toán học gần đây của nhà vua Thụy Điển. Poincaré đã thực sự được trao tặng giải thưởng, nhưng Weierstrass đã quyết định thông báo rằng có thể có một số lỗi - trong công việc của Poincaré - mà ông, Weierstrass, đã không có đủ thời gian để điều tra. Ông đã gửi một bức thư trình bày các câu hỏi có chú thích của mình cho vua Thụy Điển - như thể một nhân vật như vậy sẽ biết những gì ông đang nói. Và ông đưa ra một vài nhận xét về Poincaré đã được đánh giá trong tương lai nhiều hơn cho những khía cạnh tiêu cực hơn là tích cực trong công việc của anh ta.

Sophia vỗ về anh, nói rằng cô đang trên đường đi đến gặp Weierstrass và sẽ đưa vấn đề ra với ông. Cô giả vờ không có nghe bất cứ điều gì về chuyện nầy, mặc dù cô đã thực sự viết một bức thư trêu chọc ông thầy cũ của mình.

"Tôi chắc chắn là giấc ngủ hoàng gia của nhà vua đã bị xáo trộn rất nhiều từ lúc nhận được bức thư của ông. Ông chỉ cần nghĩ đến việc ông đã làm đảo lộn như thế nào tâm trạng của hoàng gia vốn đến nay rất vui vẻ không biết gì về toán học. Ông hãy cẩn thận đừng làm cho nhà vua hối hận về sự rộng lượng của ngài..."

"Và dù sau," cô nói với Jules, "dù sau anh cũng đã nhận được giải thưởng và nó sẽ vĩnh viễn là của anh."

Jules đồng ý, nói thêm rằng tên của anh sẽ tỏa sáng khi Weierstrass sẽ bị lãng quên.

Mỗi người chúng ta đều sẽ bị lãng quên, Sophia nghĩ nhưng không nói ra, vì sự quá nhạy cảm của người đàn ông - đặc biệt của một người đàn ông trẻ - trên điểm nầy.

Cô chia tay với anh vào giữa trưa và đi gặp Jaclard và Urey. Họ sống trong một khu nghèo của thành phố. Cô phải băng qua một khoảng sân phơi quần áo - mưa đã ngừng nhưng trời vẫn còn tối - và bước lên một cầu thang dài bên ngoài hơi trơn. Jaclard gọi ra cho biết cánh cửa đã mở khóa, và cô bước vào để tìm thấy anh ta ngồi trên một cái thùng lật ngược, đang đánh đen một đôi giày ống. Anh không đứng lên để chào đón cô, và khi cô bắt đầu cởi áo choàng ra, anh nói, "Không nên. Tôi không đốt lò đến tối." Anh ra hiệu chỉ cho cô chiếc ghế bành duy nhất, rách rưới và dầu mỡ. Thật là tồi tệ hơn cô mong đợi. Urey không có ở đây, cậu ta đã không chờ để gặp cô.

Có hai điều cô muốn tìm hiểu về Urey. Cậu ấy có giống Aniuta và phía gia đình Nga của nó nhiều hơn không? Và nó có cao hơn không? Mười lăm tuổi, năm ngoái ở Odessa, trông cậu không khác gì hơn mười hai tuổi.

Cô sớm phát hiện ra nhiều điều đã biến chuyển làm cho những mối quan tâm đó không quan trọng nửa.

"Urey?", cô hỏi.

"Nó đi ra ngoài."

"Nó đi học?"

"Có thể. Tôi biết rất ít về nó. Và tôi càng biết, tôi càng quan tâm ít hơn."

Cô nghĩ để làm dịu anh ta cô sẽ trở lại vấn đề nầy một lát nữa. Cô hỏi về anh - sức khỏe của Jaclard, và anh cho biết phổi của anh rất xấu. Anh nói anh đã không bao giờ hồi phục lại từ mùa đông năm 71, nạn đói và những đêm ngủ ngoài trời. Sophia không nhớ là những người chiến đấu đã bị đói khổ - đó là nhiệm vụ của họ phải ăn, để họ có thể chiến đấu, nhưng cô nói một cách dễ chịu là cô vừa nghĩ đến những thời điểm đó, trên xe lửa. Cô nói cô đã nghĩ đến Vladimir và sự giải cứu đó giống như một đoạn trong vở kịch hài.

Không phải hài, anh nói, và không phải kịch. Nhưng anh trở nên linh hoạt, khi đề cập tới. Anh nói về những người đàn ông bị bắn bởi vì họ đã bị tưởng lầm là anh, và về trận chiến tuyệt vọng giữa ngày hai mươi và ba mươi tháng năm. Khi cuối cùng anh bị bắt, thời điểm hành quyết đã qua, nhưng anh vẫn dự đoán sẽ chết sau màn xét xử lố bịch của họ. Làm thế nào anh đã tìm cách để trốn thoát chỉ có Chúa mới biết. Không phải anh tin vào Chúa, như mỗi lần anh đều nói thêm sau đó.

Mỗi lần. Và mỗi lần anh kể câu chuyện, phần về Vladimir - và phần tiền của ông Đại Tướng thu ngắn hơn. Anh cũng không đề cập đến hộ chiếu. Chỉ có sự dũng cảm riêng của Jaclard, sự lanh lẹ của chính anh, là đáng kể. Nhưng anh có vẻ tự nhiên hơn với khán giả khi anh nói chuyện.

Người ta vẫn còn nhớ tên anh. Người ta vẫn còn kể câu chuyện của anh.

Và nhiều câu chuyện được kể tiếp, cũng quen thuộc. Anh đứng dậy và lấy ra một tủ sắt từ dưới gầm giường. Đây là tờ giấy quý, tờ giấy đã ra lệnh cho anh rời khỏi Nga, khi anh ở Petersburg với Aniuta một thời gian sau những ngày ở Thị Xã. Anh phải đọc hết nó.

"Kính thưa ông Konstantin Petrovich, tôi vội vã kêu gọi sự chú ý của ông là người Pháp Jaclard, một thành viên của Thị Xã trước đây, khi sống ở Paris đã thường xuyên liên lạc với đại diện của Đảng Vô Sản Cách Mạng Ba Lan, người Do Thái Karl Mendelson, và nhờ sự kết nối Nga thông qua vợ của ông đã tham gia vào việc chuyển giao thư từ của Mendelson đến Warsaw. Ông là một người bạn của nhiều người Pháp đảng cấp tiến đáng để ý. Từ Petersburg Jaclard gửi hầu hết tin tức sai và có hại vào Paris về vấn đề chính trị của Nga và sau ngày một tháng ba và nỗ lực chống lại hoàng đế Nga thông tin nầy vượt qua tất cả các giới hạn của sự kiên nhẫn. Đó là lý do tại sao thể theo lời yêu cầu của tôi, ông Bộ trưởng quyết định đưa ông ấy ra khỏi biên giới đế quốc của chúng ta."

Niềm vui đã trở lại với anh khi anh đọc, và Sophia nhớ cách anh hay trêu chọc và nhảy nhót, và cách cô, và thậm chí cả Vladimir, cảm thấy vinh dự thế nào đó được anh để ý, cho dù họ chỉ là khán giả.

"À, tiếc quá", anh nói. "Tiếc quá thông tin không đầy đủ. Ông ta không bao giờ đề cập là tôi đã được Chủ Nghĩa Marx Quốc Tế ở Lyon lựa chọn để đại diện cho họ tại Paris."

Lúc nầy Urey bước vào. Cha của cậu vẫn tiếp tục nói chuyện.

"Tất nhiên đó là bí mật. Họ chính thức đưa tôi vào Uỷ Ban Chấp Hành về An Toàn Công Cộng của thành phố Lyon." Bây giờ ông đi đi lại lại, một cách nghiêm túc vui vẻ điên cuồng. "Cũng tại Lyon chúng tôi được tin Napoleon le Neveu bị bắt. Mô tả như một con điếm."

Urey gật đầu chào dì của cậu, cởi áo khoác ra - hiển nhiên cậu ta không cảm thấy cái lạnh - và ngồi xuống trên cái thùng để tiếp tục công việc cha cậu đang đánh bóng đôi giày ống.

Có. Cậu có giống Aniuta. Nhưng đó là Aniuta của những ngày về sau mà cậu mang một nét tương tự. Nét uể oải ủ rũ mệt mỏi ở mí mắt, đôi môi đầy đặn cong lên vẻ hoài nghi khinh thường trong cậu ta. Không có một dấu hiệu của cô gái tóc vàng với những bùng nổ công kích tự nhiên như cơn đói cho nguy hiểm, cho vinh quang chính đáng. Urey không có ký ức nào về người đó, mà chỉ về một phụ nữ bệnh hoạn, không hình thù, ho suyễn, bị ung thư, tuyên bố mình sẵn sàng cho cái chết.

Lúc đầu, Jaclard đã yêu cô ấy nhiều, có lẽ, như anh có thể yêu bất cứ ai. Anh ghi nhận tình yêu của cô cho anh. Trong lá thư ngây thơ hoặc có thể chỉ đơn giản khoác lác anh gởi đến cha của cô, anh giải thích quyết định để kết hôn với cô ấy, anh đã viết là nó có vẻ không công bằng để rời bỏ một người phụ nữ đã có rất nhiều gắn bó với anh. Anh chưa bao giờ từ bỏ người phụ nữ nào khác, ngay cả lúc khởi đầu mối liên lạc khi Aniuta say mê với sự phát hiện về anh. Và chắc chắn là không phải như vậy trong suốt cuộc hôn nhân. Sophia cho rằng anh vẫn còn có thể hấp dẫn phụ nữ, mặc dù bộ râu của anh không gọn gàng và bạc màu và khi anh nói, đôi khi anh rất phấn khởi đến độ lời nói của anh lắp bắp. Một anh hùng kiệt sức bởi cuộc đấu tranh, một người đã hy sinh tuổi trẻ của mình đó là cách anh có thể tự giới thiệu anh, không phải không có hiệu lực. Và một cách nào đó, thật như vậy. Thể xác của anh dũng cảm, anh đã có những lý tưởng, anh được sinh ra như một người nông dân và biết thế nào là bị khinh khi.

Và ngay bây giờ, cô cũng vậy, đã khinh khi anh.

Căn phòng tồi tàn, nhưng khi nhìn kỹ vào nó cũng đã được dọn sạch như họ có thể làm. Một vài cái nồi treo trên những cây đinh đóng trên tường. Lò bếp lạnh lẽo đã được đánh bóng, và đáy nồi cũng vậy. Cô nghĩ có thể một người phụ nữ ở với anh, ngay cả bây giờ.

Anh đề cập đến Clemenceau, nói rằng họ có quan hệ tốt. Bây giờ anh sẵn sàng để khoe khoang về một tình bạn với một người đàn ông cô đã có dự kiến anh sẽ buộc tội là làm việc cho Bộ Ngoại giao Anh (mặc dù bản thân cô không tin là có thật).

Cô chuyển hướng anh bằng cách khen ngợi sự ngăn nắp của căn hộ.

Anh nhìn quanh, ngạc nhiên về sự thay đổi chủ đề, sau đó từ từ mỉm cười, và với một vẻ thù hận mới.

"Tôi kết hôn với một người, cô ấy chăm sóc sự an vui của tôi. Tôi vui mừng để nói đó là một phụ nữ Pháp, cô không quá ba hoa và lười biếng như người Nga. Cô là một người có học, là một gia sư nhưng bị sa thải vì những cảm tình chính trị. Tôi sợ tôi không thể giới thiệu dì với cô ấy. Cô nghèo nhưng tốt và cô vẫn coi trọng tiếng tăm của cô."

"À," Sophia vừa nói, vừa đứng dậy. "Tôi có ý định nói cho anh biết là tôi cũng sẽ kết hôn một lần nửa. Một người đàn ông Nga lịch thiệp."

"Tôi có nghe nói dì đi với Maksim Maksimovich. Tôi không nghe gì hết về một cuộc hôn nhân."

Sophia run lên vì ngồi quá lâu trong cái lạnh. Cô nói với Urey, cố gắng thật vui vẻ.

"Cháu có đi với bà dì già đến trạm xe lửa không? Dì chưa có một cơ hội để nói chuyện với cháu."

"Tôi hy vọng tôi đã không xúc phạm đến dì," Jaclard nói một cách khá độc hại. "Tôi luôn tin ở nói sự thật."

"Không có gì cả."

Urey mặc áo khoác vào, mà bây giờ cô mới nhận thấy là nó quá lớn cho cậu. Có thể nó được mua trong một tiệm bán đồ rẻ tiền. Cậu ta đã lớn, nhưng không cao hơn Sophia. Có thể nó không có những thức ăn đúng cho thời điểm quan trọng của cuộc đời nó. Mẹ cậu cao, và Jaclard cũng cao.

Mặc dù cậu không có vẻ háo hức để đi cùng với dì, Urey bắt đầu nói chuyện trước khi họ đạt đến chân cầu thang. Và cậu đã nhặt lấy túi xách của dì ngay lập tức, mà không đợi hỏi.

"Ông ấy quá keo kiệt thậm chí để đốt lửa cho dì. Có củi trong thùng, cô ấy có mang một số đến sáng nay. Cô ta xấu xí như một con chuột cống, đó là lý do tại sao ông không muốn dì gặp cô ấy."

"Cháu không nên nói như vậy về phụ nữ."

"Tại sao không, nếu họ muốn được bình đẳng?"

"Dì nghĩ dì nên nói 'về con người’. Nhưng dì không muốn nói về cô ấy hoặc cha của cháu. Dì muốn nói về cháu. Cháu học hành như thế nào?"

"Cháu ghét học."

"Cháu không thể ghét tất cả bộ môn."

"Tại sao cháu không thể? Thật không khó chút nào để ghét tất cả các môn học."

"Cháu có thể nói tiếng Nga với dì không?"

"Đó là một ngôn ngữ chưa khai hóa. Tại sao dì không thể nói tiếng Pháp khá hơn? Ông nói giọng của dì chưa khai hóa. Ông nói giọng của mẹ cũng chưa khai hóa. Người Nga chưa khai hóa."

"Ông ta cũng nói như vậy sao?"

"Cháu tự quyết định được."

Họ đi một lúc trong im lặng.

"Trời lúc nầy hơi ảm đạm ở Paris," Sophia nói. "Cháu có nhớ mình đã có một thời gian thật vui mùa hè đó ở Sèvres không? Chúng ta nói về tất cả mọi thứ. Fufu vẫn nhớ đến cháu và nói về cháu. Cô bé nhớ là cháu rất muốn đến sống với dì và bé."

"Đó là trẻ con. Lúc đó cháu không nghĩ một cách thực tế."

"Vậy, bây giờ cháu nghĩ thế nào? Cháu có nghĩ đến một việc làm cho suốt đời mình chưa?"

"Có."

Vì trong giọng nói của cậu có một sự hài lòng châm chọc, cô không hỏi đó là cái gì. Cậu cũng nói ra.

"Cháu sẽ là một cậu bé đi theo xe ô tô buýt và gọi tên các trạm. Cháu có được công việc đó khi cháu bỏ đi vào dịp lễ Giáng Sinh, nhưng ông ấy đến và mang cháu về. Khi cháu thêm một tuổi, ông sẽ không thể làm điều đó."

"Có thể cháu sẽ không được vui luôn để gọi tên các trạm."

"Tại sao không? Nó rất hữu ích. Nó luôn luôn cần thiết. Là một nhà toán học là không cần thiết, như cháu nhìn thấy."

Cô giữ im lặng.

"Cháu không thể tôn trọng cháu," cậu nói. "Nếu cháu là một giáo sư toán học."

Họ đã bước lên sân ga.

"Chỉ cần nhận được giải thưởng và rất nhiều tiền cho những thứ không ai hiểu hay quan tâm đến và không ai sử dụng được."

"Cảm ơn cháu đã mang túi xách dùm dì."

Cô đưa cho cậu một số tiền, mặc dù không quá nhiều như cô đã dự định. Cậu nhận lấy với một nụ cười khó chịu, như muốn nói, Dì nghĩ rằng cháu sẽ quá tự hào, phải không? Sau đó, cậu cảm ơn cô, một cách vội vả, như thể đó là ngoài ý muốn của cậu.

Cô nhìn cậu ta đi và nghĩ rằng rất có thể cô sẽ không bao giờ gặp lại cậu ấy nửa. Con của Aniuta. Và dù sau cậu cũng thật giống Aniuta. Aniuta đã phá vỡ hầu hết các bữa ăn gia đình tại Palibino với những tràng ngạo mạn của cô. Aniuta đã từng bước ngang dọc trong vườn, đầy khinh miệt đối với cuộc sống hiện tại của cô và niềm tin vào số phận của mình sẽ đưa cô vào một thế giới hoàn toàn mới lạ và công bằng và tàn nhẫn.

Urey có thể thay đổi hướng đi của cậu; không ai biết được. Cậu cũng có thể đến để bày tỏ một vài thương mến cho dì Sophia, mặc dù có thể sẽ không xảy ra cho đến khi cậu lớn tuổi như cô bây giờ, và lúc đó cô đã chết từ lâu.

***

Sophia đến trước nửa giờ cho chuyến xe lửa của cô. Cô cần mua nước trà, và vài viên kẹo ngậm cho cổ họng, nhưng cô không thể kiên nhẫn chờ đợi xếp hàng và nói tiếng Pháp. Dù cho cô có thể tự xoay sở khi sức khỏe tốt, chỉ cần tinh thần xuống dốc hoặc linh cảm sắp sửa bệnh để đưa cô trở lại trú ẩn trong thế giới trẻ thơ. Cô ngồi trên một băng ghế và gục đầu xuống. Cô có thể ngủ một chút.

Hơn một chút. Mười lăm phút trôi qua theo đồng hồ nhà ga. Bây giờ có một đám đông tụ tập, rất nhiều người qua lại xung quanh cô, xe hành lý di chuyển.

Khi cô vội vã đi về phía xe lửa, cô thấy một người đàn ông đội một chiếc mũ lông thú như của Maksim. Một người đàn ông to lớn, trong cái áo khoác sậm đen. Cô không thể nhìn thấy khuôn mặt của ông. Ông di chuyển xa cô. Nhưng đôi vai rộng, cách đi len lỏi lịch sự nhưng kiên quyết của ông, làm cho cô nghĩ đến Maksim rất nhiều.

Một chiếc xe chất đầy hàng hóa chạy qua giữa họ, và người đàn ông biến mất.

Tất nhiên không thể là Maksim. Anh làm gì ở Paris? Anh đang vội vã đi đến chuyến xe lửa hay buổi hẹn nào? Trái tim của cô bắt đầu đập một cách khó chịu khi cô leo lên xe lửa và tìm chỗ ngồi bên cửa sổ. Nó đứng lại với lập luận rằng phải có những phụ nữ khác trong cuộc sống của Maksim. Ví dụ như, có người phụ nữ đó anh không thể giới thiệu Sophia được, khi anh từ chối mời cô đến Beaulieu. Nhưng cô tin rằng anh không phải là một người đàn ông phô trương rắc rối. Càng không phải cho những màn ghen tuông, nước mắt và quở trách của phụ nữ. Trong một dịp trước đó anh đã nhấn mạnh rằng cô không có quyền nào, không có bám giữ nào ở anh.

Điều nầy chắc chắn có nghĩa là anh biết việc cô có bám giữ anh bây giờ, và nhân phẩm của anh sẽ cảm thấy được nếu làm cô thất vọng.

Và khi cô nghĩ nhìn thấy anh cô vừa thức dậy ra khỏi một giấc ngủ không lành mạnh không tự nhiên. Cô đã bị ảo giác.

Chuyến xe lửa bắt đầu lăn bánh với những tiếng rên rỉ và kêu vang bình thường và từ từ rời xa mái nhà ga.

Cô đã từng yêu Paris thế nào. Không phải là Paris của Thị Xã, nơi cô đã theo những mệnh lệnh phấn khích và đôi khi không thể hiểu nổi của Aniuta, mà là Paris cô đã thăm viếng về sau, trong cuộc đời trưởng thành trọn vẹn của cô, với sự giới thiệu đến các nhà toán học và tư tưởng chính trị. Ở Paris, cô đã tuyên bố, không có những điều như sự nhàm chán hay trưởng giả hay thất vọng.

Sau đó, họ đã trao cho cô giải thưởng Bordin, họ đã hôn tay cô và tặng cô những bài phát biểu và bó hoa trong những căn phòng hào phóng sáng chói thanh lịch nhất. Nhưng họ đã đóng cửa lại khi đến lúc cho cô một công việc. Họ sẽ không nghĩ gì hơn về điều đó mà như sử dụng một con khỉ có học. Những người vợ của các nhà khoa học lớn chọn không gặp cô, hoặc mời cô đến nhà của họ.

Những bà vợ quan sát hàng rào chắn ngang, một quân đội không khoan nhượng vô hình. Người chồng nhún vai buồn bã trước sự cấm đoán của họ, nhưng cho họ những gì họ muốn. Người đàn ông mà não bộ thổi tan những khái niệm cũ vẫn còn nô lệ người phụ nữ với cái đầu trống rỗng ngoài sự cần thiết của chiếc áo nịt ngực chặt chẽ, thẻ gọi điện thoại, và buổi nói chuyện làm cổ họng người nghe đầy mùi nước hoa mịt mù.

Cô phải ngưng bài kinh đầy oán giận nầy. Những người vợ ở Stockholm mời cô đến nhà của họ, đến những buổi tiệc quan trọng nhất và những bữa ăn tối thân mật. Họ ca ngợi cô và giới thiệu cô. Họ chào đón đứa con của cô. Cô có thể là một người kỳ quặc nơi đó, nhưng cô là một kỳ quặc mà họ chấp nhận. Một cái gì đó giống như con vẹt nói được nhiều thứ tiếng hoặc như một thần đồng có thể cho bạn biết không do dự hoặc suy nghĩ về một ngày nào đó trong thế kỷ thứ mười bốn rơi vào ngày thứ ba.

Không, thật là không công bằng. Họ đã tôn trọng những gì cô đã làm, và đa số tin rằng nhiều phụ nữ hơn nửa phải noi theo và một ngày nào đó họ cũng vậy. Và, tại sao cô hơi cảm thấy một chút nhàm chán bởi họ, khao khát những đêm khuya và nói chuyện ngông cuồng. Tại sao cô thấy phiền là họ ăn mặc như vợ những người truyền giáo hoặc như người Gypsies sống nay đây mai đó?

Cô đang ở trong một tâm trạng bị sốc, và đó là tại Jaclard và Urey và người phụ nữ đáng kính mà họ không thể giới thiệu cô. Và với cơn đau cổ họng và những cái khẽ rùng mình, chắc chắn là cô sẽ bị cảm nặng.

Dù thế nào cô cũng sắp sửa là một người vợ, và là vợ của một người đàn ông giàu có và thông mình và thành công chắc chắn như vậy.

Xe nước trà đến. Nó sẽ giúp cổ họng của cô, mặc dù cô ước muốn phải chi đó là trà của Nga. Mưa bắt đầu rơi ngay sau khi họ ra khỏi Paris, và bây giờ mưa đã chuyển sang thành tuyết. Cô thích tuyết hơn mưa, cánh đồng màu trắng hơn vùng đất tối và ẩm ướt, như mọi người Nga. Và nơi nào có tuyết hầu hết mọi người nhận ra thực tế của mùa đông và dành nhiều biện pháp cẩn thận hơn để giữ cho ngôi nhà ấm áp. Cô nghĩ đến nhà Weierstrass, mà cô sẽ ngủ đêm nay. Giáo sư và hai bà em của ông không muốn cô ra khách sạn.

Nhà của họ luôn luôn thoải mái, với những chiếc thảm tối sậm và màn cửa có tua nhiều và ghế bành sâu. Cuộc sống ở đó theo một nghi thức - nó dành riêng cho việc học, đặc biệt là toán học. Rụt rè, các sinh viên nam thường ăn mặc xấu, đi qua phòng khách để đến phòng học, từng người một. Hai chị em chưa lập gia đình của giáo sư vui vẻ chào khi họ đi qua, nhưng hầu như họ không mong đợi một câu trả lời. Họ bận rộn với việc đan hoặc vá hoặc móc thảm. Họ biết rằng anh trai của họ có một bộ não tuyệt vời, rằng ông là một người đàn ông vĩ đại, nhưng họ cũng biết ông cần phải ăn mận mỗi ngày, tại vì công việc ít vận động của ông, rằng ngay cả ông không thể mang một chất len đẹp nhất trên người, bởi vì nó làm cho ông dị ứng, rằng cảm xúc của ông bị tổn thương khi một đồng nghiệp quên không đề cập đến công của ông trong một bài báo xuất bản (mặc dù ông giả vờ không để ý, vừa trong câu chuyện vừa trong văn bản của ông, ca ngợi tỉ mỉ chính người đã coi thường ông).

Hai bà em đó - Clara và Elisa - đã ngạc nhiên ngày đầu tiên Sophia bước vào phòng khách của họ để đến phòng học. Người làm đưa cô vào đã không được đào tạo để biết nhận diện, bởi vì những người trong nhà sống một cuộc sống thật ẩn dật, cũng bởi vì những sinh viên đến đó thường nghèo nàn và không biết phép lịch sự, do đó các tiêu chuẩn của hầu hết các nhà đứng đắn nhất không được áp dụng. Mặc dù vậy, trong giọng nói của người làm có một chút do dự trước khi cô đưa người phụ nữ bé nhỏ nầy với khuôn mặt gần như bị che khuất bởi một cái nón sậm tối và người di chuyển một cách sợ sệt, giống như một người ăn xin xấu hổ. Hai chị em không thể có một ý tưởng nào về tuổi thật của người nhưng kết luận - sau khi cô được đưa vào phòng học - có thể đó là mẹ của một sinh viên, đến để mặc cả hoặc xin tiền học phí.

"Ôi trời ơi," Clara kêu lên, bà suy đoán một cách slnh động hơn, "Trời ơi, chúng tôi nghĩ rằng, chúng tôi vừa tiếp đón ở đây, có phải là một Charlotte Corday không vậy?"

Tất cả chuyện nầy đã được kể lại cho Sophia về sau, khi cô đã trở thành bạn của họ. Và Elisa thêm vào một cách khô khan, "May là anh của chúng tôi không có ở trong phòng tắm. Và chúng tôi không thể đứng lên được để bảo vệ anh bởi vì chúng tôi bị cuộn trong những chiếc khăn choàng cổ dài vô tận."

Họ đan những cái khăn choàng cổ cho những người lính ở mặt trận. Đó là năm 1870, trước khi Sophia và Vladimir đáp chuyến đi dự định là chuyến học tập của họ đến Paris. Thời buổi đó, họ sống chìm sâu trong những không gian khác, của thế kỷ đã qua, họ rất ít chú ý đến thế giới mà họ đang sống, nên hầu như họ không nghe nói gì về một cuộc chiến tranh hiện đại.

Weierstrass cũng không có một ý tưởng nào hơn hai bà em về tuổi tác hay nhiệm vụ của Sophia. Về sau ông nói với cô rằng ông nghĩ cô là một cô giáo đã sai lầm muốn sử dụng tên của ông, để thêm vào môn toán học trong các chứng chỉ của cô. Ông suy nghĩ ông phải mắng người giúp việc, và các em, đã để cô đột nhập vào làm phiền ông. Nhưng ông là một người đàn ông lịch sự và tử tế, cho nên thay vì mời cô ra ngay lập tức, ông giải thích rằng ông chỉ nhận sinh viên cấp tiến thôi, với những chứng chỉ được công nhận, và hiện giờ ông đã đủ số người mà ông có thể điều hành. Sau đó, khi cô vẫn đứng yên - run rẩy - trước mặt ông, với chiếc mũ vô duyên che mặt cô và hai bàn tay nắm chặt chiếc khăn choàng, ông nhớ lại phương pháp, hoặc mưu kế, ông đã sử dụng một hoặc hai lần trước, để làm thất vọng một sinh viên không đủ khả năng.

"Trong trường hợp của cô tôi có thể làm một điều," ông nói, "là đặt cho cô một loạt bài, và yêu cầu cô giải quyết và mang trở lại cho tôi đúng một tuần lễ sau. Nếu tôi hài lòng với kết quả, chúng ta sẽ nói chuyện lại."

Một tuần sau đó ông đã hoàn toàn quên cô. Tất nhiên là ông đã dự kiến không bao giờ gặp lại cô. Khi cô đi vào phòng học của ông, ông đã không nhận ra cô, có lẽ vì cô đã cởi ra chiếc áo choàng che dấu hình dáng mảnh mai của cô. Cô có thể cảm thấy bạo dạng hơn, hoặc có lẽ thời tiết đã thay đổi. Ông không nhớ cái nón - các bà em thì có - vì ông không để ý nhiều đến các vật dụng của phụ nữ. Nhưng khi cô lấy ra các giấy tờ khỏi túi xách và đặt chúng xuống bàn làm việc của ông, ông nhớ lại, và thở dài mang cặp kính vào.

Sự ngạc nhiên của ông thật tuyệt vời - ông cũng nhắc lại điều nầy với cô một thời gian sau - khi thấy rằng mỗi một vấn đề đã được giải đáp, và đôi khi một cách hoàn toàn nguyên thủy. Nhưng ông vẫn còn nghi ngờ cô, suy nghĩ bây giờ có thể cô đã trình bày việc làm của người khác, có lẽ của một người anh hay người yêu đang lẩn trốn vì lý do chính trị.

"Cô ngồi xuống," ông nói. "Và bây giờ cô giải thích cho tôi từng giải đáp, từng bước được thực hiện."

Cô bắt đầu nói chuyện, nghiêng về phía trước, và chiếc mũ mềm rơi xuống đôi mắt của cô, nên cô kéo nó ra và cho nó nằm trên sàn nhà. Những lọn tóc của cô được tiết lộ, đôi mắt cô trong sáng, tuổi trẻ của cô, và sự hứng thú run rẩy của cô.

"Được," ông nói. "Được. Được. Được." Ông nói với một sự cân nhắc kỹ càng, cố gắng che đậy sự ngạc nhiên của ông, đặc biệt là đối với các giải pháp mà phương cách xuất sắc nhất hơn cả chính ông.

Cô là một cú sốc đến với ông bằng nhiều cách. Cô rất nhẹ nhàng và trẻ trung và háo hức. Ông cảm thấy ông phải làm cô dịu lại, giữ cô một cách cẩn thận, giúp cô hiểu làm thế nào để điều khiển tràng pháo hoa trong não bộ của cô.

Cả đời ông - ông gặp khó khăn để nói ra điều nầy, như ông thừa nhận, là luôn luôn cảnh giác khi quá hăng hái - cả đời ông, ông đã chờ đợi một sinh viên như vậy đi vào phòng nầy. Một sinh viên sẽ thách thức ông hoàn toàn, không những là người có thể đi theo những phấn đấu của tâm trí mình mà có lẽ còn bay xa hơn nửa. Ông phải cẩn thận khi nói về những gì ông thực sự tin tưởng - rằng phải có một cái gì đó giống như trực giác trong tâm trí của một nhà toán học bậc nhất, một tia sét tỏa sáng để khám phá cái gì đó đã có từ lâu. Nghiêm ngặt, tỉ mỉ, người phải như vậy, cũng như một nhà thơ giỏi.

Khi cuối cùng ông đã thố lộ tất cả điều nầy với Sophia, ông cũng nói là có những người sẽ khựng lại ở từ ngữ, "nhà thơ", khi đề cập đến khoa học toán học. Và những người khác, ông cho biết, sẽ nhảy lên chấp nhận khái niệm một cách thật dễ dàng, để bảo vệ sự rối ren và lỏng lẻo trong suy nghĩ của chính mình.

Như cô mong đợi, tuyết càng lúc càng nhiều hơn bên ngoài cửa sổ khi họ di chuyển về hướng đông. Đây là một xe lửa hạng nhì, khá đơn giản, so với chuyến xe cô đã lấy từ Cannes. Không có toa xe ăn, chỉ có bánh mì lạnh - vài ổ nhét đầy nhiều loại xúc xích cay - có bán ở xe nước trà. Cô mua một ổ với đầy pho mát to bằng một nửa chiếc giày ống và nghĩ cô sẽ không bao giờ ăn hết, nhưng với thời gian cô cũng xong. Sau đó, cô lấy ra cuốn sách nhỏ của Heine, để mang lại tiếng Đức trong tâm trí của cô.

Mỗi khi cô ngước mắt nhìn qua cửa sổ dường như tuyết rơi dày đặc hơn, và đôi khi xe lửa chạy chậm, gần như dừng lại. Họ sẽ may mắn lắm đến được Berlin vào lúc nửa đêm với tốc độ nầy. Cô ước rằng phải chi cô không để mình bị thuyết phục không đến một khách sạn, thay vì đến nhà trên đường Potsdam.

"Tội nghiệp Karl sẽ vui biết bao nếu cô chỉ đến ở một đêm dưới cùng một mái nhà. Anh vẫn nhớ đến cô như cô bé trước ngưỡng cửa nhà của chúng tôi, mặc dù anh rất ngưỡng mộ những thành tựu và tự hào về sự thành công rực rỡ của cô."

Đúng vậy sau nửa đêm cô đến bấm chuông. Clara đi ra, trong chiếc áo choàng, bà đã cho người làm đi ngủ. Anh của bà - bà thì thầm nói - đã thức giấc bởi tiếng ồn của xe taxi và Elisa đã đi giúp anh nằm lại và đảm bảo với anh sẽ gặp Sophia sáng mai.

Từ ngữ "nằm lại" nghe có vẻ đáng lo ngại cho Sophia. Bức thư hai chị em đã không đề cập gì ngoài một sự mệt mỏi nào đó. Và những bức thư của Weierstrass không có một tin tức cá nhân nào, toàn nói về Poincaré và Weierstrass – nhiệm vụ của ông đối với toán học trong việc làm sáng tỏ các vấn đề cho nhà vua Thụy Điển.

Bây giờ Sophia nghe người phụ nữ lớn tuổi nói với một giọng hơi kính cẩn hay lo sợ khi bà đề cập đến anh trai, bây giờ cô ngửi những mùi trước đó quen thuộc và yên tâm nhưng đêm nay lại thoang thoảng cũ kỹ và ảm đạm của căn nhà, cô cảm thấy nói giởn như trước có lẽ không hợp thời nửa, rằng bản thân cô không những mang lại không khí mát lạnh, mà còn sự nhộn nhịp của thành công, một khía cạnh của năng lượng, mà cô gần như đã không biết, và cũng có thể một chút nản lòng và