← Quay lại trang sách

Vệt Ký Ức Trên Đồi

Đó đã là điếu Pall Mall cuối cùng. Ngọc Sương dốc ngược bao thuốc đỏ rực. Không gì rơi ra cả ngoài những vụn sợi thuốc còng queo, cụt ngủn. Mặt gỗ quầy bar vàng. Sợi thuốc vàng. Sóng sánh chai Johnnie Walker vơi phân nửa cũng vàng. Sóng sánh rớt tràn trên cả miệng ly, mặt gỗ vàng loang nước. Lại thứ mùi chao chát cay nồng. Mùi khói.

Mình say rồi. Ngọc Sương lắc mạnh đầu. Dòng rượu cố rót vào đúng đáy ly đập lên thành thủy tinh trong suốt một đợt sóng vàng. Mùi khói dù vậy không bị khóa giữa những vòng tường thủy tinh trong suốt. Quyện quấn, thốc ngược. Mùi khói úp chụp vào Ngọc Sương. Choáng váng, run run, Ngọc Sương cố bật cái nắp bóng loáng của chiếc hộp quẹt Zippo.

Lửa bùng lên. Mùi ấm từ lửa, mùi thơm hăng hắc từ đầu điếu Pall Mall cuối cùng đánh loang dần mùi khói. Bên ngoài hầm rượu này, dưới ngọn đồi Đại Tá này, những con người đang đổ đống trên phi đạo, trên các cổng phi trường mùi khói quây quanh họ có đáng sợ như thứ mùi Ngọc Sương đang cố chống chọi hay không?

Điếu Pall Mall đã cháy gần quá nửa. Sẽ như thế nào nếu kẹp trên ngón tay Ngọc Sương là cái đầu lọc vàng vô dụng. Chụp ly rượu trước mặt, Ngọc Sương ực một hơi dài. Chỉ có thể nuốt mùi khói vào trong bụng. Cổ họng xé lên, ruột thắt. Mùi khói là dòng lửa đổ xuống, xuống mãi. Và dội lên là những mảng kí ức có vón cục, có lều bều rã nát.

Những mảng kí ức cũng mang mùi khói. Toàn khói là khói. Khói bốc lên cao, cao như những cây cột chống khổng lồ nối giữa đất và trời. Những cây cột không dựng thẳng, lúc uốn éo, lúc đâm xiên, lúc nhảy tưng lên theo từng cú xóc của xe lam. Ngọc Sương (mà lúc đó chưa là Ngọc Sương) nhoài người hẳn ra khỏi băng ghế đang ngồi để nhìn những cột khói.

“Má… Coi chị Mận nè! Té bây giờ.” Em trai ngồi kế bên cạnh càu nhàu. Má không nói gì, chỉ giơ một cánh tay túm áo Mận kéo xuống. Xe giằng giằng chạy qua cái xóm bên đường chắc vừa bị dội bom hay trúng pháo.

Những mái lá cong queo bốc khói chạy qua. Từ cái xóm rẫy bữa nọ cũng bùng bùng phựt lửa, bốc khói lên như thế, cuốc bộ, quá giang xe đò, rồi lại cuốc bộ, tới chừng nhảy chồm chồm cùng chiếc xe lam cọc cạch này trên mặt đường thì má con Mận đã đi qua bao nhiêu đám khói không nhớ nữa. Tưởng như có bàn tay nào đó đánh dấu con đường ba má con đi bằng khói. Mà khói thì thời buổi này chỗ nào lại không giống chỗ nào. Nên sau này, dù cố lục lọi trong trí nhớ cô Ngọc Sương trưởng thành cũng không cách nào đi ngược lại đúng con đường lúc nhỏ để trở về nhà.

Từ cổng số Một của phi trường, cùng lắm cô chỉ có thể ra được tới cái ngã ba bên phải, nơi có ba ngọn tháp Chăm chĩa lên trời cao vút. Ngã ba đứng từ trên đỉnh đồi Đại Tá là có thể thấy ngay ba ngọn tháp màu gạch không dễ gì lẫn giữa màu cây.

Ngã ba chỗ má kêu con nhỏ Mận đứng đó, má dắt em trai vô cái chợ chồm hổm bên kia đường mua nước. Mặt trời đứng trên đỉnh tháp, chợ dọn sạch trơn mà Mận vẫn khát cháy cổ bên góc ngã ba ấy. Một mình. Một bà già vác bao bố lượm rác dẫn Mận đi xuống đi lên hết mấy lượt trong cái chợ dần dần không còn một bóng người. Mận khóc khàn cả tiếng. Bà già không biết làm sao hơn đành để một đứa nhỏ lạ hoắc lạ huơ níu tay mình về cái xóm bên trên chợ.

Đó là lần đầu tiên cô bé Mận biết đến một nơi có tên gọi phi trường. Phi trường có hàng rào kẽm gai bao vòng như cái xóm rẫy một bữa bùng bùng bốc cháy của má con Mận. Phi trường có đống rác ngày nào cũng vun cao trên mảnh ruộng khô cháy. Nào đồ hộp còn chưa khui nắp, túi gạo còn lưng lửng, lon bia, ca i-nốc… đôi khi còn trúng mánh được cái đồng hồ, cặp mắt kính còn mới nguyên. Chỉ cần kheo khéo né cái mấu thò ra nhọn hoắt của hàng rào dây thép gai.

Thằng Hòa nhà theo meo cuối xóm hay vạch giùm Mận mấy cái lỗ dây thép, tay nó có bữa chảy đỏ loẹt thứ thấy đến quen mắt trên đống bông gòn, gạc y tế tanh rình và cả mấy cái xác thỏ bị bắn lòi ruột bốc mùi vẫn nằm lẫn lộn giữa đám rác thức ăn.

Sống bằng bãi rác phi trường, mũi để lọc mùi hơn để thở. Tụi nhỏ trong xóm như thằng Hòa, rồi cả Mận xuống tuốt luốt dưới ngã ba còn nghe được đâu là mùi rác mới đổ, đâu là rác để lâu năm mới chớm ngay mũi đã nhức bưng đầu.

Thính mũi vậy thế mà Mận chưa bao giờ nghe được mùi dẫn đường để trở về nhà. Những lúc thay bà Năm già theo thằng Hòa xuống ngã ba bán những thứ lượm được từ bãi rác, Mận hay đứng lại lâu lắc trước cái chợ chồm hổm. Mận đứng đó từ hồi lẻo khẻo như cái cây con thiếu nước tới lúc má căng mọng, eo cong thắt, mắt ướt rượt.

Từ hồi thằng Hòa cứ lần chần chờ Mận trên đầu dốc tới lúc nó bỏ xóm đi đâu mất biệt. Mà má vẫn chưa thấy dẫn đứa em quay lại. Không tính bên mặt núi, nguyên cái bãi đất rộng rinh này chỉ có cái ngọn đồi Đại Tá trong phi trường là dòm thấy rõ ràng nơi ba ngã đường chập vào nhau làm thành một góc chữ T, chỗ má kêu Mận đứng chờ.

“Trên trển biết đâu có bữa ngó xuống mình thấy má…”. Mận nghĩ vậy lúc đám con gái trong xóm rủ lên đồi làm sở Mỹ. Mắt ướt, eo thắt, má căng. Chỉ một con nhỏ dọn phòng thôi mà đám phi công Mỹ say Mận đứ đừ hơn cả thuốc xì gà. Đứa nào cũng muốn chộp ngay, xô ngay con nhỏ nhỏng nhảnh ngực tràn muốn xổ tung nút áo lên mặt nệm mà nó vừa trải ngay ngắn để thúc dội, vần vò.

Chỉ là ý muốn. Người Mỹ tôn trọng thứ gọi là lady first. Nên rốt cuộc người tuột được xuống đất cái áo hầu phòng xanh nhàu nhò của Mận lại là Tín. Lúc ấy Tín còn chưa tốt nghiệp xong khóa huấn luyện bay ở Nha Trang, ghé phi trường là để thăm ông anh làm ở tổ An phi. Tín người dong dỏng, môi mỏng, khóe miệng lún hột gạo, chưa thấy người đã nghe tiếng. Cái tết phi trường báo động ầm ĩ đến ông anh cũng bị điều động lên tăng cường cho các ụ súng cối, Tín kè sát theo Mận dưới một miệng hầm.

Hầm không đến nỗi nào quá chật. Nhưng một tiếng nổ dội lào xào đất cát trên đầu là Tín sát thêm vào Mận một chút, rồi một chút nữa. Mận nhớ đứa con trai từng giở giùm mình mấy lỗ dây thép, trước bữa mất hút khỏi xóm có thình lình giật tay Mận nắm thật chặt. Bàn tay bị nắm đó Mận đã cố giơ ra đẩy Tín, nhưng hổn hển thì thào bên tai Mận lại là: “Ra trường…bay tới chỗ nào anh cũng sẽ tìm má cho em…”.

Cánh tay đẩy của Mận vì những thì thào không còn sức lực. Những mân mê, bỏng rẫy bên vành tai cuốn Mận đi. Mùi đàn ông mụ mị cuốn Mận đi. Tiếng máy bay rít, tiếng súng giã, tiếng la ó, rượt đuổi. Cách một miệng hầm mà tất cả bỗng nhạt nhòa như một nơi nào rất xa, xa lắm.

Ra khỏi hầm sau đêm báo động giả, Mận không dám bu tới cái hangar ngay bên cạnh để xem mấy chiếc FE bị phá hư cả hai cánh. Nghe nói cả bắt, cả bắn được tới năm sáu cộng sản. Lỡ như mà Mận đụng phải một ánh mắt, hay là bàn tay đã từng dỡ thép gai, thõng thượt bên một xác người. Ùng. Một tiếng nổ lớn lại rền lên từ dưới chân đồi. Điện tắt phụt.

Vọng khắp bóng tối thình lình chụp xuống Ngọc Sương là tiếng những hàng chai, hàng li thủy tinh khua xổn xảng trên hai dãy kệ dài. Hầm rượu đào không sâu lắm. Tiếng nổ nghe chừng đã bò lên cao hơn vị trí nó vừa đục khoét vài ba phút trước.

Còn bao lâu nữa nó sẽ chụp xuống từ đỉnh ngọn đồi giờ chắc không còn một bóng người? Còn bao lâu nữa những chùm pháo còn sáng hơn cả những chùm hỏa châu, thành một trận mưa ánh sáng tưới đẫm nóc hầm? Quầy bar, giường gỗ, kệ rượu, toàn những thứ bỗng khiến nhớ về Henry. Henry đã bước vào trí nhớ Ngọc Sương từ lúc nào? Lúc tình cờ đi ngang thấy cô Mận dọn phòng vác bụng bầu lặc lè đứng giậm rầm rầm trên một miệng hầm gần hangar chứa FE. Lúc ẵm cu Vọng nhảy lên xe jeep, phóng ào ào xuống bệnh viện dưới chân đồi. Hay lúc hất văng một khuôn mặt đỏ kè cứ dúi vào ngực áo căng tức sữa của cô vũ nữ mới toe trong bar rượu có cái tên Ngọc Sương.

Sau bữa ở bar rượu ấy thì Ngọc Sương được kéo tay vào Ánh Sao, cái Câu lạc bộ chỉ có vài bàn bi a, bàn cà phê nhưng tiếng nhạc êm êm dễ chịu. “Nó là của em!” Henry nói câu bằng câu tiếng Việt thật rõ. Ánh mắt xanh cười cùng Ngọc Sương. Ánh mắt si mê không thay đổi từ ngày Ngọc Sương tuổi lên đồi Đại Tá.

Đám bạn gái cùng lên đồi một lượt mỗi khi đi ngang thấy Ngọc Sương loay hoay quét dọn trước Câu lạc bộ lại tíu tít: “Con này số sướng!”. Các bà vợ sĩ quan trong khu gia binh thì mắt xéo thành những cái liếc muốn tét đuôi, bứt mí. Những cái liếc chẳng là gì với những buổi chiều nhẹ nhàng nắng ngồi bên khung cửa nhìn xuống cái ngã ba được đánh dấu bằng ba ngọn tháp.

Những buổi chiều ấy, nếu Henry thình lình đẩy cửa bước vào, nón bay mệt mỏi trên tay, thì Ngọc Sương biết luôn sẽ phải có mặt bên chiếc bàn trong góc, nơi anh sẽ ngồi rũ xuống, trước mặt là một chai Johnnie Walker màu đỏ chói.

Henry không nghiện rượu. Anh cần rượu. Ngọc Sương cũng vậy. Rượu nối mùi khói của mái lá buông bốc cháy, của bãi rác phi trường với thơm nức khói từ những xâu thịt đầy xếp hàng dài trên vỉ nướng của bữa tiệc ngoài trời. Hai con trai của Henry rất mê những bữa tiệc nướng. Dù không phải dọn phòng cho anh nữa nhưng Ngọc Sương vẫn hay cầm tấm khung hình để trên đầu giường lên ngắm nghía.

Miếng giẻ lau miết trên mặt kính tự nhiên cũng lướt đi thật nhẹ, thật nhẹ. Hai đứa bé tóc vàng ươm tay vẫn còn cầm xâu thịt đang ăn dở, người phụ nữ đang ngẩng lên bên một vỉ nướng tỏa khói đó…

Họ đang mỉm cười. Henry mang ba nụ cười vương mùi khói này đi nửa vòng trái đất. Ba nụ cười cùng mùi khói cay nồng, dai dẳng từ những chai Johnnie Walker giúp kéo băng băng đi giúp anh giấc ngủ bị ám bởi một mùi khác: Mùi cuộn lên từ những cái hố sâu hoắm mỗi lần máy bay buộc phải nghiêng cánh qua, mở bụng. Mùi của xương, thịt, của tóc nát vụn ra, cháy khét.

Không có rượu, thứ mùi đáng sợ từ mảnh đất này thậm chí có đêm còn vấy cả lên ba nụ cười của khung hình anh để đầu giường. Đêm đầu tiên nằm với cánh tay cồm cộm lông của Henry vắt qua ngực, đã mệt nhoài trằn trọc cố tìm giấc ngủ, Ngọc Sương còn phải nhức bưng đầu mở mắt khi mùi rượu tràn ngập cứng phòng.

“Uống chứ, babie?” Ánh mắt xanh của Henry trong đêm ấy thật lạ. Nó đờ đẫn, buồn thảm.

Ngọc Sương không thể không cầm ly rượu sóng sánh vàng đưa lên ngang mũi. Không phải Ngọc Sương chưa từng uống rượu nhưng vẫn ngạc nhiên quá chừng khi nhận ra mùi khói. Một nhấp môi, mùi khói tan trên lưỡi. Thêm một hơi dài, mùi khói thấm từ trong ruột ra những khoảng thịt da phơi vàng ệch dưới ánh đèn.

Một cơn buồn không biết từ đâu bỗng đột ngột đổ thốc tới, ào ạt, ướt mèm hết mọi kháng cự. Ngọc Sương sững sờ khi nước mắt mình rớt xuống. Henry cũng sững sờ. Vòng tay kéo Ngọc Sương vào lòng và rồi anh cũng khóc. Tiếng khóc đàn ông cố kiềm nên đùng đục, gãy khúc. Trần truồng, lạnh lẽo, hai thân xác bị dìm trong nỗi buồn có giống, có khác nhau khóc cùng nhau. Càng khóc càng thêm lạnh. Bóng tối trùm lên Ngọc Sương giờ cũng lạnh.

Chấm đỏ từ đầu điếu Pall Mall chẳng là gì so với khoảng mênh mông đen kịt. Bàn tay giữ chiếc hộp quẹt Zippo lại bật. Ánh sáng soi mái tóc uốn xù của Ngọc Sương lên vách hầm thành một khối đen méo mó, kỳ dị. Cu Đen luôn sợ những cái bóng in trên vách.

Buổi tối khi con ngủ, Ngọc Sương thường phải kể câu chuyện về người khổng lồ sẽ nuốt trọn những cái bóng con mới chịu nhắm mắt. Câu chuyện không biết sao lại có sẵn trong trí nhớ. Chắc nó là của má. Bà Năm già không biết câu chuyện.

Mỗi lần Henry về, dắt con qua gởi bà, cằn nhằn duy nhất Ngọc Sương được nghe là: “Kêu để nó bên này không nghe, dắt chi qua bển, ồn ào nó không ngủ được chứ sợ bóng biếc cái gì!”. Không nghe bà nhắc về những hứ hó, những xì xào trong xóm.

Cả những sa sả chửi con của mấy bà già có con gái đang tuổi lớn: “Thứ tụi bây… nuôi cho trắng da dài tóc rồi cũng đi lấy Mỹ chớ gì!” Ít gặp Henry, vậy mà cu Vọng vẫn quấn quýt lắm ông Mỹ nó thích nắm râu kêu “Xi líp, Xi líp”.

Chắc nó nhớ cái lần ba tháng sốt khóc ngằn ngặt, ông đã giật nó khỏi tay mẹ, nhảy lên xe jeep. Lúc ông sắp sửa lên máy bay nó còn chạy theo ôm cứng lấy chân, hu hu khóc. Ngọc Sương hối hận vô cùng vì đã nói với con rằng Henry sẽ không về nữa.

Cũng chiếc UH- anh từng lái, nhưng lần này nó sẽ không bao giờ đưa anh trở lại phi trường. Với ba nụ cười trong khung ảnh dưới đáy ba lô anh đó lại là một sự trở về.

Ngọc Sương đã mỉm cười khi choàng tay qua cổ Henry lần cuối bên dãy trực thăng xoành xoạch giục giã. Những hàng dài ba lô, tóc vàng nối đuôi nhau cúi lom khom chui vào bụng những con chim sắt một thời cày nát bầu trời. Sập cửa. Chậm chạp, mệt mỏi, những con chim bốc khỏi mặt đất mang theo đoàn người cũng mỏi mệt, rã rời.

Tay thiếu tá đứng gần chỗ Ngọc Sương cười khẩy rằng đã thấy một đám quân vô trách nhiệm nhát chết đang chạy trốn. “Có thằng còn khóc như đàn bà.” Đám lính quây quanh chiếc Pickup của tay thiếu tá cười hô hố. Ngọc Sương cũng đã nhìn thấy những giọt nước mắt. Nhưng không nghĩ là chúng nhỏ xuống vì tiếc nuối cho cuộc chiến. Chúng là những giọt nước mắt mừng rỡ của những người sắp được về nhà.

Còn nhà của Ngọc Sương? Nó ở đâu? Khi ngậm trong miệng miếng bánh căn cháy đít được quăng phịch vào chén, không nghĩ tới gương mặt hầm hầm không muốn bán của bà già đầu xóm, Ngọc Sương bỗng sực nhớ thêm ra một gánh bánh căn khác, trước mái nhà lợp lá buông. Hình như bên gánh bánh căn ấy còn có một cây gòn. Hình như có lần bị phạt ăn bánh cháy vì tội tung hết mấy bông gòn rụng vô xoong bột trắng.

Bà già đầu xóm tưởng Ngọc Sương muốn chọc tức khi đòi đổ thêm bánh cháy. Đùng đùng, bà bỏ vô nhà không ra cạy bánh nữa. “Ở với Mỹ riết nên cái mặt cũng dày. Lì lợm ác ôn.” Vọng ra là tiếng bà nói với chồng.

Không có bà, Ngọc Sương ngồi tự đổ cho mình ổ bánh khét. Chắc vì tiếng chửi vọng ra, kí ức không về nữa từ ổ bánh. Kí ức dù lóe lên thôi cũng ấm, cũng đẹp như ngọn lửa đang chao trên tay Ngọc Sương lúc này. Phụt. Chiếc quẹt Zippo thình lình tắt ngúm.

Cuộc đời Ngọc Sương đã bao lần thấy he hé ánh sáng trước mặt, rồi lại trôi vào bóng tối. Henry về nước. Vợ tay thiếu tá lúc nào cũng có cả đám lính rầm rập theo sau chiếc Pickup bít hết các ô cửa sổ của Ánh Sao. Kệ lệnh cấm, đêm đêm trực thăng vẫn đổ trước cái hộp đen bít bùng những tiếng cười rinh rích như chuột rúc.

Những tiếng cười vọng xuống hầm rượu lúc nửa đêm lại thành những tiếng rên, tiếng những thân người đổ lên nhau, rung lắc dữ dội cả trên mặt gỗ đậy nắp hầm. Đến cả trong mơ, Ngọc Sương cũng thấy cảnh cái nắp hầm gãy tét, những thân người như những thân rắn trắng rợn, uốn éo nhau rớt xuống.

Chiến sự căng thẳng, không bar rượu nào trên đồi được mở cửa, đám gái thị xã đổ về cái hộp của bà thiếu tá phải vắt kiệt sức cho hỗn tạp bao nhiêu sắc lính đổ về phi trường nhàu nhò, rục rưỡi. Những tiếng cười chuột rúc mờ mờ sáng lên trực thăng rời khỏi cái hộp thành mệt nhoài, lê lết, cả trong tiếng bước chân lẫn tiếng thở.

Bà thiếu tá không dám giữ gái lúc ban ngày nhưng ngồi canh cửa cho lẩn lút hết gương mặt đàn ông này sang gương mặt đàn ông khác chui xuống hầm rượu Ngọc Sương nằm thì dám. Bà cũng là một ánh mắt xéo qua khi Ngọc Sương loay hoay quét dọn trước cửa Ánh Sao. Còn Ngọc Sương đã không thể rời khỏi ngọn đồi nhìn rõ ràng được một ngã ba.

Đã không thể dứt được ngôi nhà nhìn đâu cũng thấy những kỷ niệm về Henry. Ngọc Sương có thể làm gì? Một con đàn bà dễ dàng để người khác cởi áo mình chỉ vì một lời hứa thì có gì để nuôi con, ngoài trợt lại vào con đường dù biết thừa nhầy nhụa, nhục nhằn.

Những người đàn ông trèo lên người Ngọc Sương, họ mang khuôn mặt của Tín, của người cha đã mất hút của cu Vọng. Nhưng khi vòng tay ôm họ, Ngọc Sương đều nghĩ về Henry. Gò ngực của Ngọc Sương vì vậy đã hứng bao nhiêu nước mắt đàn ông, bao nước mắt lính, bao nước mắt của một cuộc chiến đến hồi tàn cuộc.

Tay thiếu tá lén vợ luồn xuống hầm rượu ngụp giữa gò ngực thì chỉ cuống quýt hứa, hứa và hứa. Những lời hứa đến đứa đàn bà như Ngọc Sương còn thấy ngán ngẩm thì nói gì đến những kẻ thuộc cấp vẫn rầm rộ theo sau chiếc Pickup mỗi lúc lên đồi.

Những ngày tiếng máy bay rền rít, lên xuống không ngừng nghỉ trên bầu trời phi trường là những ngày tay thiếu tá chỉ quanh quẩn trong chiếc hộp không cửa sổ. Hết lăng xăng chạy tới chạy lui hối vợ gom đồ, đóng mở rương cồm cộp, lại tuồn vào hầm rượu: “Chuẩn bị đi em. Trời ơi. Chuẩn bị đi! lỡ bị đánh vô là chết ráo hết bây giờ. Chờ bả đi trước, em lên chung chuyến với anh. Mình em thôi nhen! Con anh có cả đống rồi…”

Ngọc Sương nhìn khuôn mặt rối rít trước mình mà muốn phì cười. Nó tương phản khủng khiếp với cái cười khẩy với vênh vênh bên cạnh những chiếc UH- chở đầy bóng Mỹ. Những chiếc không vận ấy giờ đã đậu kín trên phi đạo để chờ đón một cuộc rút chạy khác, như một sự nối gót. “Tinh Long gọi Phượng hoàng. Tinh Long gọi Phượng hoàng. Cổng số cần thêm chi viện. Nhiều dân và lính ta bên ngoài đã tràn vào các phi đạo. Anh em Dù không ngăn được…”

Tay thiếu tá chạy theo Ngọc Sương ra tới cửa, đá chiếc bộ đàm lẫn tiếng gọi mình vào một góc nhà tan nát. “Về lẹ lẹ nhen em! Ra thẳng chỗ C- luôn. Anh chờ...” Lạ là Ngọc Sương không hề cảm động, không bịn rịn với những dặn dò, những hứa hẹn đang đuổi theo mình. Người đàn ông này tin rằng Ngọc Sương cũng sẽ như anh ta, bỏ chạy vì mình trước, kệ mọi thứ, kệ nghĩa vụ, kệ trách nhiệm, kệ cả khi mình có một đứa con.

Anh ta không biết, đó là đứa con mỗi lần nắm tay Ngọc Sương luôn cầm thật chặt. Đứa con Ngọc Sương dù có chết cũng sẽ giữ lấy, không bao giờ buông bỏ, không bao giờ để lặp lại cuộc đời làm một kẻ chờ đợi như má nó. Và đứa con khiến Ngọc Sương sụm chân, vừa chạy vừa té, vừa lết vừa té. Té lăn lóc từ mô đất gần kho bom xuống cánh đồng khô, từ cánh đồng khô xuống hàng thép gai nhìn qua thấy một ngôi nhà trong cái xóm kế phi trường đang ngùn ngụt cả lửa, cả khói.

Khói không là những cây cột đâm xiên, uốn éo nhìn qua khoảng trống xóc nảy của xe lam. Khói không chỉ là những kí ức đậm mùi. Khói rành rành ngay trước mặt. Tủa ra, đen đặc, từng bó sợi đen đặc trào lên cùng lưỡi lửa.

Những bó sợi sặc sụa trong cổ họng Ngọc Sương cùng những tiếng gào, những bó sợi bỏng rát đầu ngón tay tuyệt vọng cố móc, moi, đào… Chỗ cái hầm ngay giữa nhà đã là một đống bầy nhầy, vụn nát. Lúc ba bốn người trong nhóm ghì được Ngọc Sương ra khỏi ngôi nhà sụp xuống trong cú chồm lên cuối cùng của lửa, trong bàn tay cháy sém Ngọc Sương đã nắm được một miếng vải.

Trời tối quá, Ngọc Sương không biết nó là của cu Vọng hay bà Năm già. Miếng vải trong lòng bàn tay, loạng choạng, xiêu vẹo, xô vẹt những kiềm giữ, Ngọc Sương cứ đi. “Nó đi đâu vậy, trời ơi! Ai chạy theo coi chừng con Mận…” Vọng theo là cả tiếng la của bà già đầu xóm. “Mận. Nghe không? Xuống dưới chợ. Xuống dưới chợ với tụi tao. Dưới đó an toàn hơn…” - Con bạn cùng lên đồi Đại Tá một ngày tay ẵm con nhỏ, tay lôi tay Ngọc Sương.

Ngọc Sương gạt tay nó. Giữa hai làn đạn liệu nơi nào được an toàn. Giữa hai làn đạn chỉ như cọng rơm bay giữa hai ngọn lửa. Lao về một phía hay cố giữ mình trôi giữa lưng chừng. Phận người trong chiến cuộc nào khác gì cọng rơm.

Ngọc Sương cứ đi. Miếng vải trong lòng bàn tay là bằng chứng duy nhất cho việc Ngọc Sương đã từng có một gia đình. Qua những hàng thép gai bị dỡ trống hoắc không cần phải cúi đầu. Qua những ụ súng cối câm lặng đáng sợ. Qua những đoạn phi đạo lỗ chỗ hố pháo.

Qua đám người đang đập cửa, la hét bên một chiếc C phành phạch cánh quạt, nặng nề bốc bay lên. Khi đôi chân không còn sức nhích, khi thân người là một khối nặng trịch chỉ chực đổ nhào sụp xuống, Ngọc Sương thấy mình đang đứng trước cái hộp không cửa sổ trên đỉnh đồi Đại Tá. Miếng vải không còn trong tay Ngọc Sương nữa. Thay chỗ nó là một khẩu ru lô. Khẩu súng đó giờ đang trước mặt Ngọc Sương.

Trong cái phi trường tán loạn, nháo nhác như một tổ ong bục vỡ này chẳng khó gì để tìm một khẩu súng. Súng quăng đầy trước các chốt gác, súng rớt cả trên mấy bộ áo sĩ quan bị cởi liệng dọc đường lên đồi Đại Tá. Điếu Pall Mall đã hết. Chiếc Zippo chỉ có mùi xăng bốc lên thay ánh lửa. Khói nghẹt ứ cả rồi. Khói trào lên từ trong ruột. Khói trào ra từ kí ức. Nghẹt ứ hầm rượu. Nghẹt ứ hơi thở. Phải giải phóng mùi khói thôi. Không thể chờ những chùm pháo lật tung ngọn đồi để kết thúc giùm một cuộc đời chỉ toàn mùi khói.

Nòng ru lô lạnh toát bên màng tang hình như cũng nghe mùi khói. Sẽ là mùi khói cuối cùng. Ngón tay Ngọc Sương đặt lên cò súng. Ầm. Nắp hầm gỗ văng xuống đất, khẩu ru lô văng khỏi tay. Ngọc Sương té trên những loảng xoảng rơi vỡ.

- Có người! Trong này có người…

- Không phải tụi ngụy… Là con gái!...Cô ơi! Cô gì ơi…

Loáng thoáng trên mặt Ngọc Sương là những ánh đèn pin chói lói.

- Cô… Trời ơi! Mận! Mận đây mà… Mận! Mận ơi…

Loáng thoáng bên tai Ngọc Sương là một tiếng gọi vừa lạ vừa quen. Loáng thoáng trào lên giữa tối tăm mịt mờ một thứ gì đó như là xa xót, là tha thiết, là êm đềm, trong vắt.

Ngọc Sương lịm đi giữa loáng thoáng một cảm giác đã quên mất rồi, lâu lắm. Khi tỉnh dậy trong cái lán cứu thương dã chiến dựng ngay trên đỉnh đồi Đại Tá, nhìn xuống Ngọc Sương rợp mắt vì một dòng lá là những bóng áo xanh đang cuồn cuộn đổ xuống chân đồi.

Tách ra từ cuối dòng lá, người đã gọi Ngọc Sương dưới hầm rượu chỉ kịp chạy lại, nắm bàn tay ngày tuổi mình đã từng nắm, lắc lắc. - Mận đỡ chưa? Ráng nghen! Hòa đi nhé. Chiến dịch gấp quá. Sắp giải phóng rồi. Sắp hết chiến tranh rồi Mận à. Hẹn xóm mình, hẹn Mận ngày đó, Mận nghen…

Bàn tay rời bàn tay Ngọc Sương giờ đã là một bàn tay khác. Nó có cả sôi nổi, cả chắc nịch, rắn rỏi. Ngọc Sương đứng thẳng dậy nhìn theo cái chấm tròn xanh lá nhập vào khoảng màu rực rỡ đã lan dần đến cổng phi trường. Một đợt gió tràn lên. Đến cả gió cũng mang màu tươi mới.

Ngước mắt, Ngọc Sương nhìn thẳng lên những tia nắng của ngày mới vừa dội xuống. Và trên nền trời xanh vọi, những đám mây là những chùm khói đang vỡ vụn, tan ra…