← Quay lại trang sách

Vô hình “Le horla” Bản viết năm 1887

Ngày 8 tháng 5

Một ngày thật tuyệt! Suốt cả buổi sáng tôi nằm dài trên cỏ, dưới bóng cây rợp mát trước cửa nhà. Tôi yêu miền đất này, tôi muốn sống ở đây, nơi tổ tiên tôi đã đến, ở lại và sinh sôi nảy nở. Chẳng có gì gắn bó quyến luyến với một người hơn miền đất mà cha ông họ đã sinh ra và đã chết đi ở đó. Miến đất ấy ảnh hưởng tới cách người ta nghĩ, cách người ta ăn, sở thích người ta uống, và ảnh hương cả đến giọng nói, mùi hơi của người dân. Tôi yêu ngôi nhà mà tôi đã được sinh ra ở đó, lớn lên ở đó.

Từ cửa sổ phòng, tôi nhìn thấy dòng sông Seine lững lờ trôi, dọc theo vườn nhà tôi, phía sau con đường, ngay sát nhà tôi, dòng sông Seine rộng lớn dẫn đến Rouen, đến Havre, tàu bè qua lại nườm nượp. Thấp phía xa, bên trái thành phố rộng lớn là những gác chuông nhọn, màu xanh da trời theo kiêu gôtích. Những gác chuông kiểu này nhiêu không đếm xuể, cái rộng cái hẹp. Sáng sáng, từ rất sớm, tiếng ngân nga của các loại chuông đã vang lên, và vọng tới tận nhà tôi. Tiếng binh boong khi gần khi xa của các loại chuông. Sáng hôm nay mới tuyệt làm sao!

Khoảng mười một giờ, một đoàn tàu thuyền đi qua, dẫn đầu là một con tàu to, nó trông như một con ruồi đen xì, xình xịch vừa đi vừa nhả ra cột khói dày đặc bay tới tận song cửa nhà tôi. Tiếp sau là hai chiếc thuyền buồm kiểu Anh với cờ hiệu màu đỏ tung bay trên trời, cuối cùng là một chiếc thuyền ba cột buồm kiểu Brazin, trắng toát, vỏ tàu sạch bóng lấp lánh sáng dưới ánh mặt trời. Bỗng nhiên tôi giơ tay chào con thuyền không hiểu tại sao nhưng tôi rất vui khi nhìn thấy chiếc thuyền đó.

Ngày 12 tháng 5

Tôi hơi sốt từ một vài ngày nay, tôi cảm thấy mệt và buồn chán. Sao tôi lại thấy buồn và cô đơn đến thế? Từ đâu những ảnh hưởng bí ẩn đã khiến lòng yêu đời vui sống của tôi lại thành ra mệt mỏi buồn chán thế này? Người ta bảo rằng nó đến từ trong không khí, cái thứ không khí không thể nhìn thấy được, đầy những sức mạnh mà con người chưa biết đến, và chúng ta phải chấp nhận việc chung sống với người hàng xóm bí ẩn này.

Tôi thức dậy đầy sảng khoái, vui vẻ, ngân nga vài câu hát. Tại sao? Tôi đi dọc bờ sông, sau một cuộc dạo ngắn, tôi trở về nhà và bỗng nhiên lòng đầy buồn rầu như thể thần bất hạnh đã đợi sẵn ở nhà tôi. Tại sao? Tôi thấy rùng mình dường như có một cái gì đó đã sượt qua da tôi, kéo căng dây thần kinh của tôi và phủ bóng u buồn lên tâm hồn tôi? Phải chăng là hình dạng của mây, màu của thời gian, hay màu của mọi đồ vật vô cùng đa dạng đã lướt qua mắt tôi làm tôi đảo lộn suy nghĩ? Có ai đó biết tại sao không?

Mọi thứ bao quanh ta, mọi thứ đập vào mắt ta, mọi thứ vô tình chạm phải ta, mọi thứ ta vô tình chạm phải, mọi thứ chúng ta gặp mà không nhận ra. Tất cả những thứ đó chạm vào da ta, thâm nhập vào tim ta, rất nhanh, rất đáng ngạc nhiên và không thể giải thích được.

Nó mới sâu kín làm sao, điều huyền bí về Người vô hình! Chúng ta không thể hiểu được nó vì khốn khổ làm sao, giác quan của chúng ta chưa đủ để nhận biết được nó. Mắt chúng ta không thể nhận biết được những vật quá bé, cũng như những vật quá lớn, không thể nhìn thấy những vật ở quá xa hay quá gần, và cũng không thể nhìn thấy những sinh vật sống trên các hành tinh khác cũng như không thể nhìn thấy những sinh vật đang sống trong một giọt nước...

Tai của chúng ta làm cho chính chúng ta nhầm lẫn bởi nó thường chuyển đến óc người những tiếng vang. Tai chúng ta là những bà tiên chuyên vẽ ra những điều bí ẩn bằng cách làm thay đổi tiếng động và chính những thay đổi này đã sinh ra âm nhạc, chuyển tải tiếng động trong thiên nhiên và chuyển tải cả những rung động không phát ra âm thanh trong thiên nhiên... Mũi chúng ta, không nhạy bằng mũi chó... vị giác thì chỉ phân biệt được tuổi của rượu. Ôi! Giá mà chúng ta có được những giác quan thính và nhậy hơn, để chúng ta có thể khám phá được hết những gì đang ở quanh chúng ta!

Ngày 16 tháng 5

Tôi ốm! Từ tháng trước tôi đã không được khỏe! Tôi sốt đùng đùng, tôi phát sốt vì luôn cảm thấy có một mối đe dọa khủng khiếp đang treo lơ lửng trên đầu tôi. Lúc nào tôi cũng cảm thấy có một tai họa khủng khiếp đang đến và thần chết đang lảng vảng đâu đó quanh tôi. Những dự cảm khủng khiếp đó cứ ám ảnh và gậm nhấm tinh thần tôi, mài mòn xương thịt tôi.

Ngày 18 tháng 5

Tôi vừa đi khám bệnh về, tôi bị mất ngủ. Bác sĩ thấy mạch tôi chạy nhanh, mắt tôi giãn rộng, thần kinh tôi căng thẳng, nhưng chưa có triệu chứng đáng lo ngại nào. Bác sĩ kê cho tôi uống thuốc an thần và tự chữa trị bằng liệu pháp tắm vòi sen.

Ngày 25 tháng 5

Chẳng cải thiện được gì hơn! Tình trạng của tôi vẫn thế. Mỗi khi màn đêm buông xuống, một nỗi lo lắng bồn chồn khó tả lại bám riết lấy tâm hồn tôi, màn đêm như ẩn chứa một hiểm họa khủng khiếp.

Tôi ăn tối rất nhanh, rồi cố đọc một chút nhưng tôi chẳng thể tập trung được. Tôi đi dọc ngang trong phòng khách, sợ hãi khi nghĩ đến việc phải về giường ngủ. Khoảng mười giờ, tôi trở về phòng, vừa vào phòng, tôi lập tức khóa cửa lại bằng hai lần khóa, cài then cẩn thận; tôi sợ... tôi sợ gì nhỉ?... ở đây chẳng có gì đáng sợ cả... tôi mở các tủ của mình ra xem, tôi nhìn xuống gầm giường... tôi nghe ngóng... liệu có tiếng động lạ nào không? Chỉ có tiếng xe, tiếng quăng lưới, tiếng chim chóc và tiếng đập của tim tôi... Rồi tôi lên giường đi ngủ, chờ đợi giấc ngủ đến với mình như kẻ tử tù chờ đợi tên đao phủ. Tôi đợi giấc ngủ đến với mình với một nỗi sợ hãi vô cùng. Tim tôi đập thình thịch, chân tôi run lẩy bẩy; toàn cơ thể tôi run bần bật trên giường cho tới khi tôi chìm vào giấc ngủ như thể người ngã xuống vực nước xoáy. Tôi không cảm thấy nó đến, cũng như trước đây, giấc ngủ đầy phản trắc, trốn sau tôi, rình mò tôi, chộp lấy đầu tôi, khiến mắt tôi nhắm lại, tiêu diệt tôi.

Tôi ngủ khoảng hai hay ba tiếng gì đó rồi chìm vào một giấc mơ, không, đúng hơn là một cơn ác mộng phủ chụp lấy tôi khiến tôi ngạt thở. Tôi cảm thấy rõ ràng rằng tôi đã đi nằm và tôi đã ngủ... tôi cảm thấy rõ điều đó và nhận biết được điều đó... và tôi cũng cảm thấy rất rõ ràng có ai đó lại gần tôi, nhìn tôi, sờ vào tôi, trèo lên giường tôi, đè chân lên ngực tôi, bóp cổ tôi, siết mãi siết mãi khiến tôi ngạt thở. Giãy giụa, nhưng bất lực; tôi muốn kêu lên nhưng không kêu lên được, tôi muốn giãy ra nhưng không thể cử động được, tôi cố sức bằng một nỗ lực tuyệt vọng để lật người lại, để hất cái vật đang đè nặng lên tôi, khiến tôi ngạt thở mà không sao làm được!

Bừng tỉnh, hoảng hốt, mồ hôi đầm đìa, tôi đốt đèn lên. Tôi có mỗi mình trong phòng. Cơn ác mộng đó đến với tôi hàng đêm và sau cơn ác mộng đó tôi ngủ lại chìm vào một giấc ngủ mê mệt không mộng mị tới tận sáng hôm sau.

Ngày 2 tháng 6

Bệnh của tôi có vẻ nặng thêm. Tôi bị bệnh gì nhỉ? Thuốc an thần và liệu pháp tắm vòi sen đều tỏ ra vô hiệu. Buổi chiều, tôi đi dạo quanh rừng Roumare như một hình thức tập thể dục nhằm làm cho cơ thể thật mỏi mệt để có được một giấc ngủ say không mộng mị. Vả lại tôi tin không khí trong lành tràn ngập mùi cỏ cây sẽ truyền vào máu tôi một luồng khí mới, truyền vào tim tôi một năng lượng mới. Tôi đi vòng quanh khu săn bắn, rẽ về phía vùng Bouille trên một lối đi hẹp nằm giữa hai hàng cây rợp bóng mát, hai hàng cây rậm rạp đến nỗi nó như một mái che bằng lá, dày bóng phủ xuống làm tôi cả đường đi.

Đột nhiên tôi rùng mình, không phải là một cái rùng mình bình thường vì lạnh mà là một cái rùng mình rất lạ, một cái rùng mình vì sợ.

Rảo bước, lo lắng khi thấy chỉ có mỗi một mình trong rừng, hoảng sợ vô lý khi thấy mình đơn độc trong rừng. Đột nhiên, tôi cảm thấy như có ai đang đi theo mình, đi sát gót mình, rất gần, gần như có thể chạm được vào mình. Tôi bất thình lình quay ngoắt lại phía sau? Vẫn chỉ có mình tôi, đằng sau tôi chẳng có ai, chẳng có gì ngoài lối mòn tối rợp bóng cây tôi vừa đi qua. Bỗng nhiên lúc này lối mòn lại có một vẻ gì đó rất đáng sợ. Tôi nhắm mắt lại, sao lại thế nhỉ, và tôi như quay tròn trên một gót chân, rất nhanh, như một con quay. Suýt ngã, tôi mở bừng mắt ra; cây cối quay tròn, bầu trời xoay tít; tôi phải ngồi thụp xuống. Ôi! Tôi không còn biết tôi đang đi đâu nữa. Ý nghĩ kỳ quặc! Kỳ quặc! Kỳ quặc thật! Tôi chẳng còn hiểu thế nào nữa.

Tôi đi theo lối mòn ở bên phải tôi và tôi quay về phía đương lớn dẫn vào giữa rừng.

Ngày 3 tháng 6

Đêm nay thật đáng sợ, tôi chắc chắn sẽ đi nghỉ một vài tuần để bình tĩnh lại.

Ngày 2 tháng 7

Tôi quay về với một tinh thần hoàn toàn bình phục. Tôi đã có một cuộc dã ngoại rất thú vị. Tôi đã đi thăm vùng núi Saint - Michel. Cảnh đẹp thật tuyệt vời, thời tiết ở nơi đó cũng rất tốt. Tôi đến nơi vào cuối buổi chiều, thành phố tọa lạc trên sườn đồi.

Chúng tôi đi thăm công viên, nó nằm ngay lối vào thành phố. Tôi trầm trồ và đầy ngạc nhiên, một vịnh nước biển mênh mông trải dài trước mắt tôi, xa hút tầm nhìn, hai đường bờ biển hẻo lánh mất hút trong làn sương mù; giữa vịnh nước mênh mông và bầu trời như dát vàng sáng chói là một ngọn núi đứng cao chót vót, sừng sững. Mặt trời vừa lặn vào giữa bãi cát vàng.

Đường chân trời như một vệt chỉ lửa huyền ảo bao phủ lên đỉnh núi tạo nên một bức tranh phong cảnh đẹp tuyệt vời.

Khi trời vừa bình minh, tôi đã đi ra biển. Biển vẫn như tối qua, hiền hòa, sóng gợn lăn tăn. Và tôi ngắm nhìn một tu viện kỳ dị, đứng ngay trước mặt tôi, ngay khi tôi vừa ra đến biển. Tôi đã đến công trình to lớn bằng đá đó sau nhiều giờ dạo bộ, nơi Chúa ngự trị.

Đi theo con đường nhỏ, tôi vào một trong những nơi đáng tự hào nhất của kiến trúc gôtích, một trong những công trình được xây dựng dành cho Chúa trời trên trái đất, nó rộng lớn như một thành phố, đầy những phòng thấp lè tè bị đè bẹp dưới những mái vòm thấp và những phòng tranh cao chỉ được chống đỡ bằng những cột mỏng manh. Công trình kiến trúc bằng đá được đẽo tạc tinh xảo bay bổng. Tu viện có rất nhiều tháp canh, rất nhiều gác chuông mà đường lên đó là cầu thang vặn xoắn. Đỉnh của các cầu thang đó là những cái đầu xù xì hình quái vật mình người đầu sư tử, hình các con vật kỳ dị, hình những bông hoa quý tung lên trời cao xanh vào ban ngày, tối thui vào ban đêm. Những gác chuông được nối với nhau bằng những mái vòm được đắp tỉa công phu.

Khi tôi leo lên được đến tháp canh cao nhất, tôi nói với ông linh mục, người đã đưa tôi lên: “Thưa cha, hẳn cha cảm thấy rất thoải mái khi ở đây”. Ông trả lời tôi: “Có quá nhiều gió, thưa ngài”. Rồi chúng tôi cùng im lặng nhìn ra xa, xa kia biển đang vỗ về bờ cát trắng.

Ông linh mục kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện, rất nhiều chuyện xa xưa ở vùng đất này, về những truyền thuyết. Một trong những truyền thuyết ấy đã có tác động mạnh đến tôi. Người dân ở đây, những người sống ở vùng núi, khẳng định là họ từng nghe thấy tiếng người nói chuyện trong đêm trên bờ cát, rồi họ còn nghe thấy tiếng hí của hai con ngựa, một con hí vang rên, còn con kia tiếng hí nghe nhỏ hơn. Những người không tin thì cho ràng đó là tiếng chim biển kêu, một loài chim hay bắt chước, lúc thì bắt chước tiếng kêu của súc vật, lúc lại bắt chước tiếng than van của con người; những người đánh cá về muộn thề sống thề chết là đã gặp một người chăn cừu già, đang rình mò trên các đụn cát giữa hai vịnh nước quanh làng, khá xa nơi mọi người đang sống. Nhưng người ta không bao giờ nhìn thấy đầu của lão mục đồng này vì nó luôn được giấu kín trong áo choàng của ông ta, và ông ta thường dắt ngay trước mắt họ một con vật đầu đàn ông mình dê, và một con khác đầu phụ nữ mình ngựa, cả hai đều râu tóc bạc phơ, nói không ngừng, chúng cãi nhau bằng một ngôn ngữ lạ lùng, thỉnh thoảng dồn hết sức bình sinh hí ầm lên.

Tôi hỏi ông linh mục: “Cha có tin chuyện đó không?” Ông buồn rầu nói: “Ta không biết”. Tôi lại nói: “Nếu tồn tại trên trái đất một loài sinh vật khác, ngoài chúng ta, làm sao mà chúng ta lại không hề nhận biết đến họ, làm sao chúng ta không hề nhìn thấy họ. Sao tôi lại không trông thấy họ?”

Ông trả lời tôi: “Liệu chúng ta có nhìn thấy hàng triệu vi sinh vật đang sống quanh ta không? Xem này, gió đấy, một sức mạnh vô cùng to lớn trong thiên nhiên, gió hất ngã con người, đẩy đổ một tòa nhà, trốc rễ cây cổ thụ, hất nhào thuyền lớn, dâng nước ở biển lên, quật nát vách đá hoa cương. Gió tàn phá, gào hét. Thế mà ngài có nhìn thấy gió không, ngài có thể nhìn thấy gió không? Ấy thế nhưng nó vẫn tồn tại đấy thôi”. Tôi im lặng trước những lý lẽ vô cùng giản dị nhưng đầy thuyết phục đó. Vị linh mục này hoặc là một nhà thông thái hoặc là một kẻ điên. Tôi không thể khẳng định được thế nào là đúng nhưng tôi vẫn phải nín thinh. Điều ông nói đã khiến tôi trăn trở rất nhiều.

Ngày 3 tháng 7

Tôi lại khó ngủ, hắn đó là một thứ bệnh lây, vì người đánh xe ngựa của tôi cũng chịu chung căn bệnh như tôi. Hôm qua, khi về đến nhà, tôi để ý đến sắc mặt xanh xao của anh ta, tôi hỏi thăm: “Jean, cậu sao thế?” Anh ta trả lời tôi: “Tôi không sao tĩnh tâm được, thưa ông, kể từ khi ông đi chơi tôi gặp ác mộng hàng đêm, ác mộng luôn bám riết tôi”.

Ngày 4 tháng 7

Những cơn ác mộng lại quay về với tôi. Đêm nay tôi lại cảm thấy có ai đó ngồi lên người tôi, miệng người đó áp lên miệng tôi, hút lấy tinh lực tôi. Vâng, nó hút tinh lực trong người tôi, dai dẵng như đỉa. Rồi nó đứng lên, đầy vẻ thỏa mãn.

Tôi bừng tỉnh, mệt mỏi kiệt quệ đến nỗi tôi không động đậy được nữa. Nếu tình trạng này tiếp diễn chắc chắn tôi lại phải đi nghỉ nữa.

Ngày 5 tháng 7

A! Tôi mất trí rồi chăng? Điều gì đang xảy ra thế này, điều tôi đã thấy đêm qua thật lạ lùng, đầu tôi mông lung khi nghĩ đến chuyện đó. Như mọi tối, vào phòng, tôi đóng cửa lại, khóa cửa, cài then. Khát nước, tôi uống hết nửa cốc rồi đặt nó lên bàn ngủ, vô tình tôi để ý thấy bình nước của tôi đầy đến tận nắp. Tôi lên giường đi ngủ và tôi rơi vào một giấc ngủ say mê mệt. Khoảng hai giờ sáng tôi giật mình thức giấc, và bỗng cảm thấy hoảng sợ vô cùng.

Hãy tưởng tượng một người đàn ông bị ám sát khi đang ngủ, và khi tỉnh dậy anh ta thấy một con dao cắm vào tim, thân thể anh ta đầy máu, anh ta không còn có thể thở được nữa, anh ta sắp chết mà không hiểu tại sao. Thế đấy.

Đến khi tôi tỉnh táo lại, tôi lại cảm thấy khát, tôi đốt đèn lên và đi lại bàn để lấy bình nước. Tôi cầm nó lên rót vào cốc; nước hết sạch, cái bình rỗng không. Tôi không hiểu thế là thế nào. Rồi một nỗi sợ khủng khiếp bóp nghẹt tim tôi khiến tôi phải ngồi thụp xuống, không, nói đúng hơn là khiến tôi ngã ngồi xuống ghế. Tôi lại nhảy dựng dậy nháo nhác nhìn quanh. Rồi tôi lại ngồi xuống trước cái bình bằng thủy tinh của tôi, điên lên vì sợ, vì lạ. Tôi nhìn nó chằm chằm và cố đoán xem điều gì đã xảy ra. Hai tay run run. Nước đã được uống hết sạch? Ai uống? Hắn nhiên là tôi rồi vì làm gì còn ai khác ngoài tôi trong phòng? Vậy ra tôi bị mộng du, tôi làm những việc mà tôi không nhận thức được trong khi đang ngủ hay còn có một thực thể sống bí ẩn nào khác cùng đang ở đây, cùng với tôi, hay là một sinh vật lạ, chưa được biết đến và vô hình đang khiến tim ta tê cóng, thân thể ta bị cầm tù, một sinh vật như chính chúng ta và thông minh, nhiều khả năng hơn chúng ta.

Ôi, ai có thể hiểu được sự tức tối tồi tệ của tôi? Ai có thể hiểu được cảm giác của một người hoàn toàn minh mẫn tỉnh táo đã thấy sự tồn tại của rnột sinh vật lạ nhờ cái bình bằng thủy tinh trong suốt đây, chỉ nhờ một chút nước mất đi khi anh ta đang ngủ! Và tôi cứ ngồi như thế cho tới tận sáng, không dám nghĩ đến chuyện đi nằm nữa.

Ngày 6 tháng 7

Tôi điên rồi. Ai đó đêm nay lại uống hết cả nước của tôi, ai? Hay chính tôi đã uống? Phải tôi đã uống không? Nếu không thì là ai? Ôi Chúa ơi, con điên mất rồi. Ai cứu tôi với.

Ngày 10 tháng 7

Tôi vừa làm một thử nghiệm nhỏ để xem tôi có thật sự phát điên rồi hay không. Trước khi đi ngủ, ngày mùng 6 tháng 7, tôi đã đặt lên bàn rượu vang, sữa, nước, bánh mì và nho. Ai đó đã uống - tôi đã uống - hết cả nước và một chút sữa mà không hề đụng đến rượu vang, bánh mì và nho. Ngày mùng 7, tôi làm lại thử nghiệm này. có cùng một kết quả. Ngày mùng 8, tôi bỏ nước và sữa đi. Không có gì bị đụng tới. Và cuối cùng là ngày mùng 9, tôi chỉ để lên bàn nước và sữa, bọc kỹ bình nước lại bằng khăn ăn và buộc lại bằng dây. Rồi tôi lấy nhọ nồi bôi lem luốc tay, miệng, râu mình rồi lên giường đi ngủ. Tôi rơi ngay vào một giấc ngủ mê mệt, rồi như mọi hôm tôi lại bừng tỉnh giấc. Tôi chưa hề rời khỏi giường, khăn trải giường của tôi trắng tinh không có một vết nhọ nào. Tôi nhảy bổ đến cái bàn. Cái khăn ăn bao bọc bình nước của tôi vẫn còn nguyên. Dây buộc vẫn còn nguyên. Ai đó đã uống hết sữa, uống hết nước của tôi! Ôi Chúa ơi! Ngay ngày mai tôi sẽ đi Paris.

Ngày 12 tháng 7

Paris, ngay những ngày mới đến tôi đã thấy bồn chồn khó tả! Tôi hẳn đã bị những tưởng tượng của mình hù dọa, hay là thật sự tôi bị mộng du, hay tôi bị một ảnh hương bệnh lý nào đó ở đây mà người ta hay gọi là ám thị. Dù sao đi nữa sự điên rồ của tôi cũng đã khiến cho trí lực của tôi giảm sút, và hai tư tiếng ở Paris đủ để tôi tĩnh tâm trở lại.

Hôm qua, sau khi đi chợ và đi dạo phố, tôi cảm thấy đầu óc thư thái, tôi cảm thấy như một luồng gió mát lành đã thổi vào tim tôi một luồng sinh khí mới. Và tôi đã dừng lại ở Rạp hát lớn, hôm nay người ta diễn một vở kịch của Alexandre Dumas con, nói về vị thần báo tin và đầy quyền lực.

Sự cô đơn rất nguy hiểm với trí thông minh của chúng ta. Chúng ta luôn cần có nhiều người quanh chúng ta đang nói hoặc đang làm gì đó. Nếu chúng ta cô đơn quá lâu, chính chúng ta sẽ tự tưởng tượng thấy những điều kỳ quặc.

Tôi quay về khách sạn với một tâm trạng vui vẻ, khi sát cánh cùng mọi người trên quảng trường tôi đã nghĩ không hề có chút hàm ý mỉa mai nào đến nỗi sợ của mình, đến sự tự ám thị mình tuần trước, bởi tôi tin, vâng, thật sự tin có một sinh vật sống đang cư ngụ dưới mái nhà của mình.

Bởi thần kinh của chúng ta rất yếu, dễ bị kích động và dễ thất thần ngay khi một sự kiện không hiểu nổi xảy ra.

Thay vì nói một cách giản dị: “Tôi không hiểu tại sao lại thế”, thì chúng ta lại thường nghĩ ngay đến một cái gì đó siêu thực, một cái gì đó bí ẩn và vô cùng đáng sợ.

Ngày 14 tháng 7

Quốc khánh, tôi ra đường đi dạo, không khí náo nhiệt của một buổi lễ tết khiến tôi náo nức như trẻ con. Tôi tự thấy mình thật ngớ ngẩn, sao không là ngớ ngẩn khi mọi người đều vui chơi, cảm thấy sung sướng vào một ngày đã được ấn định trước bằng một nghị quyết của chính phủ. Dân chúng chỉ như một đàn súc vật ngu xuẩn, khi thì kiên nhẫn một cách ngu đần, khi lại vùng lên tranh đấu một cách dữ dội. Người ta bảo họ: “Hãy vui chơi nào”. Họ liền vui chơi một cách vui vẻ. Người ta lại báo họ: “Hãy đi đánh nhau với nước láng giêng thôi”. Họ liền vội đi đánh nhau ngay. Người ta báo tiếp: “Bỏ phiếu cho hoàng đế đi”. Họ liền bỏ phiếu cho hoàng đế. Rồi người ta lại bảo: “Bỏ phiếu cho đảng Dân chủ thôi”. Họ vội vàng đổ xô đi bỏ phiếu cho đảng Dân chủ. Và những người lãnh đạo dân chúng cũng là những kẻ ngốc nốt; Thay vì vâng lệnh con người thì họ vâng theo những quy tắc, những lề luật, những thứ có thể nói là hết sức xuẩn ngốc, ngớ ngẩn, vô bổ và sai lầm kể cả khi chúng là các quy tắc. Nghĩa là những ý kiến nổi tiếng, chắc chắn và bất di bất dịch. Ở một thế giới mà người ta không dám chắc vào bất cứ điều gì, bởi ánh sáng là một ảo ảnh và tiếng động cũng là một ảo ảnh.

Ngày 16 tháng 7

Hôm qua tôi đã nhìn thấy những điều khiến tôi vô cùng bối rối.

Tôi dùng bữa tối ở nhà cô em họ, bà Sablé, chồng của cô em họ tôi chỉ huy một trung đoàn biệt kích ở Limoges. Tôi ở đó cùng hai người phụ nữ trẻ, một là vợ của bác sĩ Parent, ông này từng điều trị cho rất nhiều bệnh nhân tâm thần và biết rất nhiều biểu hiện lạ của dạng bệnh tâm thần. Và ông thường điều trị cho họ bằng liệu pháp thôi miên cùng với thuốc an thần.

Ông kể cho chúng tôi nghe rất nhiều về tác dụng kỳ diệu của liệu pháp, đã được kiểm nghiệm và công nhận bởi các nhà bác học người Anh và các bác sĩ của trường Nancy. Những sự kiện này có vẻ lạ lùng đến nỗi tôi tỏ ý nghi ngờ.

“Chúng tôi sắp khám phá ra một trong những bí mật quan trọng nhất của thiên nhiên, ông ta khẳng định, tôi muốn nói một trong những bí mật quan trọng nhất của thiên nhiên trên trái đất; bởi nếu bí mật nằm ở một hành tinh nào đó, thì đương nhiên nó sẽ có tầm quan trọng khác đối với chúng ta. Kể từ khi con người biết nghĩ, biết nói và biết viết ra suy nghĩ của mình. Người ta luôn cảm thấy có một điều huyền bí không thể hiểu được, đang tồn tại sát mình, nhưng vì tự phụ rằng mình là hoàn hảo và vĩ đại nhất trong vũ trụ nên con người thường lờ cảm giác đó đi. Và con người, nhờ vào trí thông minh của mình, ra sức bổ sung thêm cho hoàn hảo những giác quan còn khiếm khuyết. Khi trí thông minh vẫn còn ở dạng sơ đẳng, nỗi sợ hãi những hiện tượng không nhìn thấy được biểu hiện dưới dạng kinh sợ bình thường. Từ đó, rất nhiều người tin có tồn tại những sinh vật siêu nhiên, niềm tin đó đã hiển hiện ở việc luôn có những truyền thuyết về ma quỷ, thần tiên, về những quái thú và thậm chí cả những truyền thuyết về Đức Chúa. Bởi những khái niêm về Đấng tối cao, về tôn giáo của chúng ta được hình thành từ những tưởng tượng bịa đặt xoàng xĩnh nhất, ngu ngốc nhất, khó chấp nhận nhất của những kẻ hoảng sợ những vật được Chúa sáng tạo. Chẳng có gì đúng đắn hơn câu nói của Voltaire: ‘Chúa tạo ra con người bằng trí tưởng tượng nhưng chính con người đã tự hoàn thiện mình vượt qua cả sự tưởng tượng của Chúa’.

Nhưng từ hơn một thế kỷ nay, có vẻ như con người đã dự cảm thấy một điều gì đó mới lạ. Mesmer [1] và một vài người khác đã dẫn chúng ta theo một con đường không được trông đợi và chúng ta thì thật sự đã có từ bốn năm năm nay. một kết quả thật đáng ngạc nhiên”.

Cô em họ tôi, cũng như tôi tủm tỉm cười đầy vẻ không tin. Ông bác sĩ lại nói: “Bà có muốn tôi thử làm cho bà thiếp ngủ một lát không, thưa bà?”

“Vâng, tôi cũng muốn thử”.

Em họ tôi ngồi vào một chiếc ghế bành, và ông bác sĩ bắt đầu nhìn chằm chằm vào cô, thôi miên cô. Còn tôi lúc đó bỗng thấy hơi lo lo, tim tôi đập thình thịch, cổ họng se lại. Tôi nhìn đôi mắt đang nặng trịch dần của em họ tôi, nhìn miệng cô đang mím lại, ngực phập phồng. Chỉ khoảng mười phút sau, cô đã ngủ ngon lành.

- Hãy đứng ra sau cô ấy! - Ông bác sĩ bảo tôi. Tôi ra đứng đằng sau cô. Ông ta đặt vào tay cô một tấm danh thiếp rồi bảo cô: “Đây là một tấm gương, bà nhìn thấy gì trong đó?”

Cô trả lời:

- Tôi nhìn thấy anh họ tôi.

- Anh ta đang làm gì?

- Anh ta đang vặn vẹo bộ râu của mình.

- Thế còn bây giờ?

- Anh ta đang rút từ trong túi quần ra một bức ảnh.

- Bức ảnh nào?

- Ảnh anh ta.

- Đúng thế đấy! Và bức ảnh này tôi vừa chụp một lát trước đây ở khách sạn.

- Trông anh ta thế nào trong bức ảnh?

- Anh ta đứng, mũ cầm tay.

Cô ta chỉ nhìn một tấm danh thiếp mà nói như thế tấm thiếp ghi danh đó là một chiếc giường vậy. Hai phụ nữ trẻ, kinh sợ, cùng kêu lên: “Đủ rồi! Đủ rồi!” Nhưng ông bác sĩ lại ra lệnh: “Sáng mai, bà hãy thức dậy vào lúc tám giờ, đến khách sạn gặp ông anh họ của bà và năn nỉ ông ta cho bà mượn năm nghìn frăng mà chồng bà đã yêu cầu bà phải đưa cho chồng trước chuyến du hành sắp tới”.

Rồi ông “đánh thức” em họ tôi dậy.

Vừa về khách sạn tôi vừa mông lung suy nghĩ đến những gì đã chứng kiến. Hoài nghi những gì mình trông thấy. Tôi không hề hoài nghi về thiện chí không thể nghi ngờ của em họ tôi, người tôi đã biết từ thuở nhỏ, người thân thiết với tôi như em gái của tôi, nhưng tôi hoài nghi ông bác sĩ đã gian trá. Hẳn ông ta đã cho em tôi nhìn vào một tấm gương trong khi giơ ra cho chúng tôi xem một tấm danh thiếp. Trò ảo thuật đó thì quá đơn gián đối với một người lành nghề như ông ta.

Tôi về đến khách sạn và đi ngủ.

Sáng hôm sau, khoảng tám rưỡi, tôi bị người hầu phòng đánh thức, anh ta giải thích: “Có bà Sablé đề nghị được gặp ông ngay”.

Tôi vội vàng mặc quần áo rồi ra đón cô. Cô ngồi xuống với một vẻ ngượng nghịu, hai mắt cụp xuống, rồi không hề lên giọng, cô nói: “Em có một việc muốn nhờ anh giúp, anh họ thân mến của em”.

- Việc gì thế em?

- Thật ngại quá nhưng em đang rất cần năm nghìn frăng.

- Sao kia, em cần ư?

- Vâng, em, hay nói đúng hơn là chồng em đề nghị em phải kiếm được số tiền đó cho anh ấy.

Tôi hoàn toàn sửng sốt đến nỗi ấp úng không thành lời. Tôi tự hỏi phải chăng cô ấy và ông bác sĩ đang cùng nhau bày trò để trêu tôi, phải chăng đây là một trò đùa nhả đã chuẩn bị trước và đã được diễn rất khéo. Nhưng khi tôi để ý nhìn cô em họ tôi thật cẩn thận thì mọi nghi ngờ của tôi đều tan biến. Cô ấy đang run rẩy vì lo sợ, cô đầy vẻ đau khổ với những tiếng nức nở đang kìm nén trong họng. Tôi biết rõ rằng cô rất giàu nên tôi hỏi lại:

- Sao cơ, chồng em không có đến năm nghìn frăng trong tài khoản ư. Xem nào, em nghĩ lại đi, em có chắc rằng anh ấy đề nghị em đi hỏi vay anh không?

Cô do dự vài giây như thể cô đang cô nhớ lại, rồi cô trả lời:

- Vâng... vâng... em chắc mà.

- Anh ấy có viết cho em à?

Cô lại do dự, suy nghĩ. Tôi cho là những suy nghĩ đang khiến cô khổ sở. Cô không biết. Cô chỉ biết đến mỗi một điều là cô phải vay tôi năm nghìn frăng cho chồng cô. Thế nên cô nói dối.

- Vâng, anh ấy đã viết cho em như thế.

- Anh ta viết cho em khi nào? Em đã chẳng hề nói gì với anh tối qua cả.

- Em mới nhận được thư sáng nay.

- Cho anh xem lá thư đó một chút được không?

- Không... không... không, anh ấy viết cho em một số điều tế nhị, rất riêng tư... em đã... em đã đốt nó đi rồi.

- A thế ra chồng em đã mang công mắc nợ phải không?

Cô lại do dự nữa, rồi rên rỉ:

- Em không biết.

Tôi đột nhiên nói:

- Thế nhưng anh không thể có ngay năm nghìn frăng cho em bây giờ.

Cô bật lên một tiếng kêu đau khổ:

- Ôi, em xin anh, em xin anh đấy...

Rồi cô cuống lên, chấp hai tay vào nhau như thể để cầu khẩn. Giọng của cô lạc cả đi; cô khóc nức nở, vừa nấc vừa khẩn cầu:

- Ôi anh, em van anh đấy, giá mà anh biết được em đau khổ đến thế nào... em cần có số tiền đó ngay ngày hôm nay.

Tôi lấy làm thương cho em mình.

- Em sẽ có khoản tiền đó ngay thôi, anh hứa đây.

- Ôi, cám ơn anh, ngàn lần cám ơn anh. Anh thật vô cùng tốt bụng.

Tôi lại hỏi cô:

- Em có nhớ diều gì đã xảy ra ở nhà em hôm qua không?

- Có ạ.

- Em có nhớ là bác sĩ Parent đã thôi miên cho em ngủ không?

- Có ạ.

- Ông ấy đã ra lệnh cho em sáng nay phải đến vay anh năm nghìn frăng, giờ đây em đang bị ám thị và vâng theo lệnh của ông ta đấy.

Em tôi suy nghĩ vài giây rồi trả lời:

- Em vay anh vì chồng em đề nghị thế.

Trong suốt một giờ đồng hồ, tôi cố gắng thuyết phục em tôi nhưng tôi không sao thuyết phục được cô tin.

Khi cô giã biệt tôi ra về, tôi liền chạy ngay đến nhà bác sĩ Parent. Ông đang định ra ngoài; vừa nghe tôi kể ông vừa cười. Rồi ông hỏi:

- Bây giờ ông tin chưa?

- Vâng, bắt buộc phải tin rồi.

- Chúng ta hãy đến nhà người em họ anh đi.

Cô vẫn đang thiu thiu nửa thức nửa ngủ trên một chiếc ghế dài, đầy vẻ mệt mỏi. Bác sĩ Parent xem mạch cho cô, nhìn cô một lát rồi để một tay lên phía trên đôi mắt của cô, dần dần mắt cô nhắm nghiền lại như chịu một sức mạnh huyễn hoặc không thể kháng cự được. Khi cô đã hoàn toàn say ngủ, ông ta nói:

- Chồng bà không còn cần năm nghìn frăng nữa. Vì thế bà sẽ quên bà đã khẩn cầu anh họ mình cho vay số tiền đó và nếu anh ta có nói về điều đó với bà, bà cũng không hiểu gì hết.

Rồi ông ta đánh thức em họ tôi dậy. Tôi rút ví ra và bảo em họ tôi.

- Em thân mến, đây là số tiền mà em đã hỏi anh sáng nay.

Cô ngạc nhiên đến nỗi tôi không dám nhắc lại nữa, tuy nhiên tôi vẫn cô thử gợi lại trí nhớ của cô bằng cách nhắc lại một vài chi tiết, nhưng cô khăng khăng từ chối, tin chắc rằng tôi đang trêu cô, và cuối cùng suýt nữa cô phát khùng lên với tôi.

Thế là tôi quay về, không sao ăn được, vì quá bối rối trước những gì vừa diễn ra.

Ngày 19 tháng 7

Tất cả những người được tôi kể cho nghe chuyện đó đều châm chọc tôi. Tôi không còn biết nghĩ thế nào nữa. Sự khôn ngoan trong tôi tự nhủ: Có thể thế chăng?

Ngày 21 tháng 7

Tôi dùng bữa tối ở Bougival, một vùng sông nước nằm giữa Paris và Saint Germain, rồi tôi đến một hộp đêm chuyên dành cho dân thuyền chài. Rõ ràng là mọi việc đều tùy nơi và tùy môi trường. Tin vào những gì siêu nhiên ở đảo Grenouillère là điều cực kỳ điên... nhưng ở đỉnh núi Saint Michel thì sao?... Ở vùng những người Ấn Độ thì sao?

Chúng ta đang phải chịu đựng những ảnh hưởng ghê sợ của những sinh vật, những hiện tượng đang sống, đang diễn ra quanh chúng ta. Tuần sau, tôi sẽ về nhà.

Ngày 30 tháng 7

Tôi đã về nhà từ hôm qua. Mọi việc đều tốt.

Ngày 2 tháng 8

Chẳng có gì mới; thời tiết rất đẹp. Tôi dành hàng ngày trời ngồi ngắm sông Seine.

Ngày 4 tháng 8

Một vụ cãi lộn giữa những người làm. Họ đổ cho nhau tội làm vỡ cốc trong tủ. Họ khẳng định là ai đó đã làm vỡ cốc vào ban đêm. Anh hầu phòng thì đổ tội cho bà bếp, bà bếp đổ tội cho chị lau dọn, chị lau dọn lại đổ tội cho một ai đó tôi không biết nữa. Nhưng kết luận ai làm vỡ, chẳng ai biết được.

Ngày 6 tháng 8

Lần này, tôi không hề điên. Tôi đã nhìn thấy... tôi đã nhìn thấy... Tôi không thể nghi ngờ gì nữa... tôi đã nhìn thấy. Tôi vẫn còn lạnh buốt đến tận đầu ngón tay... Tôi đã sợ tới tận xương tận tủy... Tôi đã nhìn thấy... Vào hai giờ chiều, tôi đi dạo dưới ánh nắng chói chang của mặt trời, trong vườn hồng nhà tôi... giữa hai hàng hồng đang bắt đầu nở hoa vụ thu. Tôi đứng lại chiêm ngưỡng một nhành hồng tuyệt đẹp có ba bông chúm chím, thế rồi tôi nhìn thấy, tôi nhìn thấy một cách rất rõ ràng ngay sát trước mặt tôi, cành hoa bỗng cong xuống như thể có một bàn tay vô hình đang vít nó xuống, rồi nó gãy rời ra như thể bị ai đó hái! Rồi bông hoa bay lơ lửng, rồi nó nghiêng đi trông như thể có ai đó, cầm nó cho lên mũi ngửi. Thế rồi bông hoa cứ treo lơ lửng trong không khí, trông rất kỳ quặc và đáng sợ ngay trước mũi tôi, cách chừng ba bước chân.

Lạ lùng, tôi vươn tay ra chụp lấy nó! Tôi chẳng thấy gì cả; nó đã biến mất. Bực cả mình, không thể nào một người hoàn toàn khỏe mạnh, tỉnh táo lại có thể có ảo giác như thế được. Nhưng đó phải chăng là ảo ảnh? Tôi quay lại để tìm thân cây hoa, tôi tìm thấy nó ngay lập tức. Cành hoa vẫn còn nguyên vết bẻ còn tươi, nhành hoa đó nằm giữa hai bông khác trên một cành ba bông. Tôi quay về phòng với tâm trạng bối rối; bởi tôi chắc chắn, chắc chắn như hai cộng hai là bốn rằng tồn tại ngay cạnh tôi một sinh vật sống vô hình, sinh vật đó sống bằng sữa và nước, sinh vật đó có thể sờ vào mọi vật, có thể chuyển dịch mọi vật, nó cũng sống trong nhà chúng ta, nhưng chúng ta không nhận biết được nó có thể do các giác quan của chúng ta chưa đủ tinh nhạy.

Ngày 7 tháng 8

Tôi đã có một giấc ngủ yên bình. Nó đã uống nước trong bình, nhưng nó không hề quấy rầy giấc ngủ của tôi. Tôi tự hỏi mình có điên không. Trong khi đi dạo, lúc trong vườn hồng, lúc dọc bờ sông, lúc giữa trưa nắng, lúc chiều tà, tôi luôn tự hỏi phải chăng mình đã phát điên. Tôi đã biết đến nhiều người điên, hoàn toàn bình thường, sáng suốt, thậm chí là uyên bác và thông thái trong nhiều lĩnh vực chỉ trừ một điểm. Họ nói về mọi lĩnh vực với đầy vẻ uyên thâm, thế rồi đột nhiên, họ như rơi vào vùng xoáy giữa cơn bão của đại dương, bao quanh họ là sóng gầm, là mây mù dày đặc, lưới cá bao bọc... và người ta gọi là “điên”.

Chắc chắn là, tôi đã tin rằng tôi điên, hoàn toàn điên, nếu tôi không hề ý thức được tình trạng của mình, nếu tôi không suy nghĩ đến tình trạng của mình và phân tích nó một cách hoàn toàn tỉnh táo. Vậy thì tóm lại, tôi là một kẻ hay lý luận bị ảo giác.

Óc tôi đang chịu một rối loạn nào đó, một trong những rối loạn mà cho tới tận ngày nay các nhà vật lý học vẫn đang nghiên cứu, thí nghiệm. Rối loạn này đã ăn sâu trong đầu tôi, trong óc tôi. Những hiện tượng chỉ có thể xảy ra trong mơ lại diễn ra ngay giữa ban ngày như là một trò ảo thuật vô lý nhất, nhưng lại không làm cho chúng ta ngạc nhiên được vì lúc này mọi giác quan đang trong tình trạng ngủ, trong khi đó khả năng tưởng tượng vẫn còn đang thức và làm việc. Phải chăng, cũng như một số người khác, sau một tai nạn nào đó, quên hết những gì vốn thân thuộc với mình hoặc chỉ quên một số chi tiết nào đó thôi, ví như chỉ quên hết tên của người thân, nhầm lẫn đồ vật này với đồ vật khác, mất khả năng đếm...

Tôi miên man nghĩ đến tất cả những điều đó khi đi dạo bên bờ sông. Mặt trời chiếu sáng rực rỡ xuống làn nước lăn tăn sóng, mọi vật được bao phủ bởi ánh sáng có một vẻ đẹp thật đáng yêu. Tôi nhìn trời, nhìn sông, nhìn mây bay, nhìn đàn chim nhạn đang bay ngang qua, tôi thấy thư thái yêu đời, mắt tôi ngời sáng đầy vui vẻ, tai tôi như đang nghe thấy những nốt nhạc ngân nga, tim tôi rộn rã...

Thế mà một sự bất ổn bồn chồn khó giải thích bỗng dần xâm chiếm tôi. Một dự cảm lạ lùng nào đó luồn vào tim tôi, khiến tôi lạnh cóng, khiến tôi buồn bực, chặn tôi lại, không cho tôi đi xa thêm nữa, gọi tôi từ phía sau. Tôi cảm thấy khao khát được quay về nhà, một mong muốn cồn cào, không thể cưỡng lại được. Như thể ta để lại người yêu đang ốm ở nhà một mình và ta dự cảm thấy cô ấy đang yếu dần đi, cô ấy cần có ta ở bên.

Thế là; dù không muốn nhưng tôi vẫn quay về, tin chắc rằng khi về đến nhà sẽ nhận được một tin xấu, một bức thư hoặc một bức điện. Chẳng có gì đợi tôi ở nhà cả; Tôi ngạc nhiên và lo lắng hơn cả là khi tôi có những ảo giác lạ thường.

Ngày 8 tháng 8

Hôm qua tôi đã có một đêm kinh hoàng. Nó không hề biểu lộ chút nào sự có mặt của nó, nhưng tôi cảm thấy nó đang ở rất gần tôi, nhìn tôi, rình tôi, luồn vào trong tôi, chế ngự tôi và đáng sợ hơn cả là điều đó báo hiệu có sự có mặt vô hình và sự chắc chắn của nó trong tự nhiên. Thế nhưng, tôi vẫn ngủ được.

Ngày 9 tháng 8

Chẳng có gì hết nhưng tôi vẫn sợ.

Ngày 10 tháng 8

Chẳng có gì, nhưng ngày mai điều gì sẽ đến?

Ngày 11 tháng 8

Vẫn chẳng có gì xảy ra; tôi không thể cứ ở nhà với nỗi sợ và những suy nghĩ quẩn quanh như thế. Tôi phải đi thôi.

Ngày 12 tháng 8

10 giờ tối. - Ngày nào tôi cũng muốn bỏ đi nhưng tôi không thể. Tôi đã muốn lấy lại sự tự do của mình một cách đơn giản nhất, dễ dàng nhất, bỏ đi - lên xe, phóng đến Rouen. Tôi đã không thể làm thế. Sao thế nhỉ?

Ngày 13 tháng 8

Khi người ta mắc một số chứng bệnh nào đó, cơ thể người ấy sẽ mệt nhừ, bải hoải như không còn chút sức lực nào nữa, chân tay mềm nhũn như bún, thịt da nhẽo nhèo. Tôi cũng cảm thấy cùng cảm giác như thế, một cảm giác rất lạ và khó chịu. Tôi không còn chút sức lực nào, không còn chút nghị lực nào, chẳng còn muốn gì nữa thậm chí cũng chả buồn động đậy. Tôi chẳng thể mong muốn gì nữa cả, nhưng như có ai đó có những mong muốn hộ tôi và tôi vâng lời người đó.

Ngày 14 tháng 8

Tôi là một kẻ mất hồn! Ai đó đã lấy mất hồn tôi và điều khiển nó! Ai đó đã định đoạt mọi cử chỉ của tôi, mọi suy nghĩ của tôi, mọi việc tôi làm. Tôi không còn là tôi nữa, tôi chỉ còn là một tên nô lệ, khiếp sợ mọi việc tôi phải hoàn thành. Tôi mong muốn được ra đi nhưng không sao đi được. Nó không muốn tôi đi; và tôi ở lại, cuống cuồng lo sợ, run rẩy ngồi trong cái ghế bành mà nó đặt tôi ngồi vào đó. Tôi chỉ muốn đứng lên, nhổm lên để tin rằng tôi vẫn còn đang làm chủ bản thân mình. Tôi không thể! Tôi bị gắn chặt vào ghế, cái ghế bị dính chặt vào mặt đất, không một sức mạnh nào có thể nhấc được chúng tôi lên.

Rồi đột nhiên, tôi phải, tôi phải ra cuối vườn hái dâu tây và ăn chúng. Và tôi đi ra đó. Tôi hái dâu và ăn chúng! Ôi, Chúa tôi! Chúa tôi! Chúa tôi! Nó là Chúa trời sao? Nếu quả thật nó là một dạng như Chúa?! Ôi trời ơi, cứu tôi với, cứu tôi với! Hãy thương xót lấy tôi! Cứu tôi! Giúp tôi! Ôi, khốn khổ thân tôi! Khiếp đảm quá! Ghê sợ quá!

Ngày 15 tháng 8

Hắn em tôi cũng đã phải chịu nỗi thống khổ đó khi đến vay tôi năm nghìn frăng. Cô ấy cũng phải chịu đựng một mong muốn lạ thường vò xé tâm can, một linh hồn khác, như thể một linh hồn ký sinh, một linh hồn thống trị. Phải chăng thế giới đã đến ngày tận thế?

Nhưng cái sinh vật vô hình đang điều khiển tôi, nó là cái gì vậy? Cái sinh vật chưa được biết đến, kẻ rình mò này phải chăng là một giống loài siêu nhiên? Vậy ra những Người vô hình là có thật? Tôi chưa bao giờ đọc được một điều gì tương tự như điều đang xảy ra ở nhà tôi. Ôi, giá mà tôi có thể bỏ đi được, giá mà tôi có thể trốn đi và không bao giờ quay lại nữa. Tôi sẽ được cứu, nhưng tôi không thể.

Ngày 16 tháng 8

Hôm nay tôi đã có thể thoát thân trong vòng hai tiếng đồng hồ, như thể một tù nhân tìm được lối ra, một cách ngẫu nhiên cổng nhà tù mở. Bỗng nhiên tôi cảm thấy tôi được tự do và rằng nó đang ở xa. Tôi lập tức ra lệnh chuẩn bị xe và đi thẳng đến Rouen. Ôi, sung sướng biết bao khi ta có thể nói với một người mà người đó lập tức vâng lời ta: “Hãy đi đến Rouen!”

Tôi dừng lại trước cửa thư viện và yêu cầu người ta cho tôi mượn quyển chuyên luận của tiến sĩ Hermann Herestaurs về những sinh vật lạ, đã từng xuất hiện ở thời cổ đại cũng như ở thời hiện đại. Rồi vừa leo lên xe tôi vừa muốn nói: “Ra ga!” và tôi đã kêu lên - tôi đã không nói gì hết, tôi đã hét lên bằng một giọng to đến nỗi tất cả những người qua đường đều ngoái lại nhìn: “Về nhà!”, và tôi ngã bịch xuống ghế ngồi, điên lên vì giận dữ. Nó đã tìm được tôi và bắt được tôi.

Ngày 17 tháng 8

A! Đêm mới tệ hại làm sao! Đêm mới tệ hại làm sao! Tuy nhiên, lẽ ra tôi phải lấy làm vui mới phải. Tôi đã đọc sách tới tận một giờ sáng. Hermann Herestauss, tiến sĩ về triết học và về thần học đã viết những chuyện về tất cả các dạng sinh vật vô hình đang rình mò quanh con người hoặc có mặt trong các giấc mơ của con người. Ông ta miêu tả nguồn gốc của chúng, sức mạnh của chúng, thói quen của chúng. Nhưng chẳng có gì giống với sinh vật đang ám ảnh tôi. Người ta nói rằng con người, kể từ khi biết nghĩ, đã biết dự cảm và hãi sợ những vật thể lạ, mạnh hơn con người, biết hãi sợ một ngày nào đó, những sinh vật lạ đó sẽ chiếm cứ hành tinh Trái đất, từ nỗi sợ đó, đã sản sinh ra những câu chuyện ma quái, những chuyện về những sinh vật lạ ám ảnh con người...

Đến một giờ sáng, để thư giãn đầu óc một chút, tôi ra mở toang cửa sổ và ngồi xuống đó đón cơn gió đêm mát lành. Trời đẹp, ấm áp. Xưa kia, tôi đã yêu biết bao cái không khí ban đêm dịu mát này!

Trời không trăng, những vì sao lấp lánh sáng trên nền trời đêm. Ai đang sống trên các hành tinh đó? Hình dạng thế nào? Sống ra sao? Sinh vật nào? Loài động vật nào? Loài cây nào sống ở trên đó? Những sinh vật trên các hành tinh xa xôi đó có biết nghĩ không? Họ có biết nhiều hơn chúng ta, những con người không? Họ có thể làm được những gì hơn con người? Họ có thể nhìn thấy những gì mà con người không nhìn thấy? Liệu một ngày nào đó họ có vượt qua không gian, xuất hiện trên Trái đất của chúng ta và chiếm cứ nó như những người Anh đã vượt biển đến chiếm đóng các nước yếu hơn?

Chúng ta quá yếu đuối, không được trang bị vũ khí, quá dốt nát, quá bé nhỏ, chúng ta chỉ như một hạt bụi và sẽ tan loãng vào một giọt nước.

Gió mát hiu hiu làm tôi thiu thiu ngủ. Khoảng bốn lăm phút sau tôi choàng tỉnh, cảm thấy rất bồn chồn. Đầu tiên tôi chẳng thấy gì lạ cả, rồi bỗng nhiên một trang sách trên bàn bỗng dở lên. Chẳng hề có một ngọn gió nào bay qua để có thể làm lật trang sách. Tôi thấy lạ và tôi ngồi im đợi. Khoảng bốn phút sau, tôi lại thấy, vâng, chính mắt tôi lại nhìn thấy một trang sách dở lên và nằm ép xuống trang sách trước, như thể có một ngón tay dở nó lên để đọc. Ghế bành của tôi rỗng không, có vẻ như rỗng không, nhưng tôi hiểu nó đang ở đó, nó, ngồi ở ghế của tôi, ngồi ở chỗ của tôi và nó đang đọc sách. Bằng một bước nhảy dữ dội, bước nhảy của một con thú nổi loạn muốn xé nát người thuần hóa, tôi lao qua căn phòng để tóm lấy nó, để ôm lấy nó, để giết nó!... Nhưng cái ghế của tôi đổ nghiêng ra trước khi tôi kịp chạm đến như thể nó đứng bật dậy bỏ chạy, bàn lắc lư, đèn đổ xuống, tắt ngấm và cửa sổ đóng sập lại như thể một tên du đãng vừa nhảy qua rồi lấy tay đóng sập nó lại, để người ta không thể đuổi theo nó được.

A ra nó bỏ chạy, nó sợ, nó sợ tôi. Nó! Thế thì... thế thì... ngày mai... hay ngày kia.... hay một ngày nào đó tôi có thể giữ được nó trong tay mình; và nghiền nát nó trên đất. Phải chăng không có những con chó thỉnh thoảng cắn và chẹt cổ chủ mình?

Ngày 18 tháng 8

Tôi đã suy nghĩ suốt cả ngày. Ồ! Vâng, tôi sẽ vâng lệnh nó, làm theo những gì nó ra lệnh, hoàn thành mọi mong muốn của nó, làm cho tôi tầm thường, đớn hèn, dễ bảo đi. Nó mạnh nhất. Nhưng một giờ sẽ đến...

Ngày 19 tháng 8

Tôi biết... tôi biết... tôi biết hết rồi! Tôi vừa đọc điều này trên tạp chí Thế giới khoa học: “Một căn bệnh thần kinh lạ mới được phát hiện ở Rio de Janeiro. Thời Trung cổ căn bệnh này đã phát triển như một bệnh dịch và hoành hành ở Châu Âu. Hiện nay nó lại xuất hiện ở tỉnh San Paulo. Những cư dân ở đây, dứt khoát bỏ quê hương xứ sở của mình ra đi vì theo họ vùng này đang có bọn ma cà rồng hoành hành. Họ nói nếu họ không sớm ra đi, họ sẽ thành nô lệ của bọn ma này, bọn ma này là những sinh vật vô hình, sống bằng sữa, nước và máu người, ngoài ra chúng không hề động đến bất cứ một thực phẩm nào khác.

Giáo sư Don Pedro, cùng với rất nhiều các nhà bác học, các bác sĩ đã đến vùng San Paulo để nghiên cứu tại chỗ nguồn gốc và những biến thể của căn bệnh điên lạ lùng này và để có thể đưa ra những kiến nghị nhằm làm yên dân”.

A! A! Tôi chợt nhớ ra, tôi chợt nhớ ra vào ngày mùng 8 tháng 5 trước, tôi đã nhìn thấy một chiếc tàu ba cột buồm của Braxin đi ngang qua nhà tôi, khi tôi đang ngồi chơi ngắm sông từ cửa sổ phòng mình. Tôi nhìn thấy rằng con tàu đó rất đẹp, rất trắng, rất vui vẻ! Sinh vật vô hình có thể đã ở trên đó, đến từ đó, từ đó sinh sôi ra. Và nó đã nhìn thấy tôi! Nó đã nhìn thấy ngôi nhà cũng trắng toát của tôi! Và nó đã bay qua dòng sông vào nhà tôi. Ôi! Chúa ơi! Giờ thì tôi biết rồi, tôi đoán ra được rồi. Thời thống trị của con người đã kết thúc.

Nó đã đến, nó chính là cái mà tổ tiên con người từ thời hoang sơ đã sợ, cái mà những tu sĩ chuyên trừ tà ma lo lắng, nó chính là những gì mà con người đã dự cảm được và miêu tả như những mụ phù thủy bay ngang qua màn đêm, rồi biến mất, được miêu tả như những tà ma, quái thú... mà con người chỉ dự cảm thấy, chứ chưa bao giờ nhìn thấy một cách rõ ràng. Mermes đã đoán trước được điều đó và các bác sĩ đã từ mười năm nay khám phá ra một cách vô cùng rõ ràng rằng thiên nhiên có những sức mạnh siêu nhiên khác, mà một ngày nào đó nó sẽ có những vũ khí mới, nó sẽ thống trị linh hồn con người và biến con người thành nô lệ cho nó, bằng cách điều khiển mong muốn trong linh hồn con người. Và người ta gọi điều đó là thôi miên...

Tôi còn biết gì nữa nhỉ? Tôi đã thấy chúng chơi đùa với sức mạnh của mình như những đứa trẻ và rất khinh suất với sức mạnh khủng khiếp này! Bất hạnh thay cho chúng ta! Bất hạnh thay cho loài người! Nó đã đến, nó... biết gọi nó bằng cái tên gì bây giờ? Có vẻ như nó hét tên nó lên với tôi, tôi không nghe thấy... gì cơ.... gì.... nó hét tên nó lên... tôi chăm chú lắng tai nghe... tôi không thể nghe thấy... nhắc lại đi... Le... Horla... tôi đã nghe thấy... Le Horla... đúng nó rồi... Le Horla... nó đã tới!...

A! Con kền kền đã xơi con bồ câu; con sói đã ngoạm con cừu; con sư tử đã làm thịt con trâu vài bộ sừng sắc nhọn; con người đã giết chết con sư tử bằng tên, bằng kiếm, bằng súng; nhưng Le Horla sẽ khiến con người thành cái mà chúng ta đã làm với bò, ngựa; biến chúng ta thành vật sở hữu của nó, thành đầy tớ của nó, thành thức ăn của nó chỉ bằng sức mạnh làm biến đổi ý nguyện của chúng ta. Bất hạnh thay cho chúng ta!

Tuy nhiên, súc vật đôi khi cũng nổi loạn và giết chết chủ chúng... tôi cũng thế, tôi muốn... tôi sẽ có thể... nhưng cần phải nhận biết được nó, phải chạm được vào nó, phải nhìn thấy nó! Các nhà bác học đã nói rằng mắt của súc vật khác với mắt của con người, chúng không phân biệt được như mắt con người... và mắt tôi không thể phân biệt được kẻ mới đến đang đè nén tôi, đang giày vò tôi.

Tại sao? Bây giờ tôi nhớ đến những lời của vị linh mục trên núi Saint Michel: “Liệu chúng ta có nhìn thấy hàng triệu vi sinh vật đang sống quanh ta không? Xem này, gió đấy, một sức mạnh vô cùng to lớn trong thiên nhiên, gió hất ngã con người, đẩy đổ một tòa nhà, trốc rễ cây cổ thụ, hất nhào thuyền lớn, dâng nước ở biển lên, quật nát cả vách đá hoa cương. Gió tàn phá, gió gào, gió hét, gió gầm. Thế mà ngài có nhìn thấy gió không, ngài có thể nhìn thấy gió không? Ấy thế nhưng nó vẫn tồn tại đấy thôi”. Và tôi lại nghĩ: mắt tôi yếu, kém đến nỗi không nhận ra nổi những thân thể rắn chỉ vì nó trong suốt như thủy tinh!... và rằng nếu một tấm kính trong suốt không tì vết cản đường chúng ta, chúng ta sẽ va đầu vào nó như những con chim vẫn lao vào cửa kính nhà chúng ta khi chúng muốn vào nhà. Ngoài ra còn có hàng nghìn điều khác thường, đánh lừa mắt ta, làm chúng ta nhầm lẫn. Vậy thì có gì phải ngạc nhiên, vậy phải chúng có một dạng cơ thể mới mà ánh sáng có thể đi qua được.

Một dạng sinh vật mới! Tại sao không? Chắc chắn là nó phải đến! Sao chúng ta có thể trở thành sinh vật cuối cùng được! Chúng ta không nhận biết được nó, cũng như những sinh vật được tạo ra trước chúng ta không nhận biết được ra chúng ta? Phải chăng đó là vì tư chất của nó hoàn hảo hơn, cơ thể nó uyển chuyển hơn, khéo léo hơn, nhanh hơn, mạnh hơn, bền vững hơn cơ thể vô cùng yếu đuối, vô cùng vụng về, cái cơ thể rất dễ bị tổn thương, đau yếu của chúng ta. Chúng ta sống như một cái cây, như một con thú tự nuôi sống mình một cách khó khăn bằng không khí, bằng cỏ cây và bằng thịt, cơ thể sống của chúng ta hay bị giày vò bởi bệnh tật, bởi sự biến dạng, bởi sự thối rữa. Thế nhưng chúng ta lại tự huyễn hoặc rằng chúng ta là sinh vật thông minh nhất, hoàn hảo nhất.

Trái đất đã qua biết bao sự chuyển hóa từ sinh vật thân nhũn đến con người. Tại sao không một lần nữa, một lần thực hiện một kỳ chuyển đổi, đưa những sinh vật hoàn hảo hơn thay thế những sinh vật kém cỏi hơn? Tại sao không một lần nữa? Tại sao không một lần nữa sản sinh ra những loài hoa có bông to hơn, rực rỡ hơn, thơm hơn những loài hoa hiện có trên Trái đất? Tại sao không xuất hiện những phần tử khác thay thế cho lửa, không khí, nước và đất? Bốn phần tử chủ yếu nuôi dưỡng, sản sinh ra sự sống, chỉ bốn phần tử, chẳng có gì khác ngoài bốn phần tử đó! Đáng thương hại làm sao! Tại sao không phải là bốn mươi, bốn trăm, bốn nghìn! Khốn khổ làm sao, ti tiện làm sao, hạ lưu làm sao!

Nhưng bạn nói đi, bạn bướm! Một bông hoa biết bay! Tôi đã mơ thấy một bông hoa lớn bằng cả trăm vũ trụ, với những cánh hoa mà tôi không thể tả hết được hình dạng to lớn đẹp đẽ lung linh sắc màu của chúng. Nhưng tôi nhìn nó... nó đi từ ngôi sao này đến ngôi sao khác, làm mát những ngôi sao và ướp hương cho chúng khi đi ngang qua. Và những cư dân trên các vũ trụ khác từ trên cao nhìn chúng đi ngang qua đầy thích thú.

Vậy tôi có gì nào? Chính nó, nó, Le Horla, nó ám ánh tôi, nó khiến tôi nghĩ đến những điều điên rồ! Nó ở trong tôi, nó trở thành linh hồn của tôi; Tôi sẽ giết nó!

Ngày 19 tháng 8

Tôi sẽ giết nó. Tôi đã cảm nhận được nó! Tối qua khi tôi ngồi ở bàn và làm ra vẻ đang viết một cách rất chăm chú. Tôi biết rõ nó đang rình mò quanh tôi, rất gần tôi, gần đến nỗi mà tôi gần như có thể chạm được vào nó, bắt được nó. Tôi, tôi có sức mạnh của sự tuyệt vọng, tôi có đôi tay, đôi chân, có răng, có óc để bóp được cổ nó, đè nó xuống đất, cắn nó, xé nó. Và tôi rình mò nó với tất cả các giáo quan căng ra.

Tôi đã đốt tất cả các đèn, nến mà tôi có trong nhà với hy vọng với ánh sáng chan hòa như thế tôi có thể tìm ra nó, trông thấy nó. Bên phải tôi là lò sưởi. Bên trái tôi là cửa ra vào mà tôi đã đóng lại rất cẩn thận sau khi để ngỏ khá lâu để gây chú ý cho nó. Đằng sau tôi là chiếc tủ gương lớn mà hằng ngày tôi vẫn đứng trước nó để cạo râu, mặc quần áo, và tôi thường có thói quen liếc nhìn mình từ đầu đến chân mỗi khi đi qua nó. Thế là tôi làm ra vẻ như đang đọc sách để lừa nó; đột nhiên tôi cảm thấy, một cảm giác, rất rõ ràng nó đang đọc qua vai tôi, rõ ràng nó đang đứng đó, sượt cả vào tai tôi. Tôi đứng phắt dậy, giơ hai tay ra và quay ngoắt lại phía sau nhanh đến nỗi suýt ngã. Và thế là... tôi đứng đối diện với cái gương nhưng tôi không nhìn thấy mình trong gương! Chiếc gương hoàn toàn trong suốt, sáng loáng nhưng không hề có hình tôi trong đó mặc dù tôi đang đứng đối diện với gương... Tôi nhìn chiếc gương lớn, trong suốt từ đầu đến chân. Tôi trừng trừng nhìn gương, hoảng hốt đến mức không dám nghĩ đến chuyện tiến gần lại nó, cảm thấy rõ ràng giữa tôi và chiếc gương là nó và rằng nó vẫn trốn thoát khỏi sự tìm kiếm của tôi, nhưng cơ thể không thể nhìn thấy được của nó lại che được hình ảnh phản chiếu của tôi. Tôi sợ biết bao! Thế rồi tôi nhìn thấy hình ảnh của tôi, dần dần hiện lên trong gương, hình bóng của tôi dần hiện như đi đến từ trong sương mù, như đến từ làn nước. Và cũng giống như sóng nước, hình bóng của tôi hiện dần lên trong gương từ trái sang phải, dần dần, từ từ, từng giây từng giây rõ nét dần lên. Cuối cùng hình tôi đã in rõ trong gương như mọi ngày tôi vẫn soi. Tôi đã nhìn thấy nó! Tôi vẫn phải chịu đựng nó, vẫn bị nó cầm tù.

Ngày 20 tháng 8

Giết nó, nhưng giết bằng cách nào? Bởi tôi không thể chạm được vào nó? Bằng thuốc độc chăng? Nhưng nó sẽ nhìn thấy tôi hòa thuốc độc vào nước, vả lại liệu thuốc độc có tác dụng đối với một cơ thể không thể nhận thấy được không? Kh