Biết đâu đấy?
Nhưng liệu tôi có thể làm được điều đó không? Tôi có dám làm là viết ra điều đó không? Điều đã xảy đến với tôi quá kỳ quặc, quá khó giải thích, quá khó hiểu, và thật điên rồ! Giá tôi có thể chắc vào những gì mà tôi đã nhìn thấy, chắc chắn rằng đầu óc tôi vẫn hoàn toàn tỉnh táo, bình thường, tôi không bị ảo giác, không bị hoa mắt, hay nhìn nhầm. Sau tất cả những chuyện đã xảy ra, biết đâu đấy?
Giờ đây tôi đang điều trị nội trú trong một bệnh viện tư; nhưng tôi ở đó một cách hoàn toàn tự nguyện chỉ vì cẩn thận, và vì sợ! Chỉ duy nhất một người biết chuyện của tôi. Đó là một bác sĩ ở đây. Tôi sẽ viết câu chuyện đó ra, mong rằng làm thế sẽ rũ bỏ được nó, vì tôi luôn cảm nhận thấy nó, nó ám ảnh tôi như một cơn ác mộng mà tôi không thể chịu đựng nổi.
Nó thế này đây:
Một ấn sĩ cô đơn, một kẻ mơ mộng, một triết gia cô độc nhưng nhân từ, tương đối hài lòng với cuộc sống, không chua chát, không hiềm thù, không độc địa với con người, không thù không oán trời đất. Tôi sống một mình, không thích sự có mặt của người khác trong nhà mình, trong phòng mình. Giải thích về điều đó thế nào bây giờ nhỉ? Tôi không thể giải thích được. Tôi vẫn tham gia vào các cuộc tụ tập bạn bè để vui chơi, ăn uống, tán phét cùng nhau. Nhưng khi nghĩ đến một mối liên hệ riêng tư hơn, một mối liên hộ thân mật hơn, mang tính gia đình hơn, là tôi lại cảm thấy chán ngán, mệt mỏi, cáu kỉnh.
Thế rồi bỗng một hôm tôi cảm thấy mong muốn có một người bạn đời, cái mong muốn nó cứ lớn dần lên trong tôi, quấy rầy tôi, nó khiến tôi không sao chịu đựng được khi nhìn thấy những đôi trai gái tay trong tay, điều đó làm tôi không chịu được và tôi bỏ đi cùng với nỗi cô đơn của mình.
Mong muốn này còn nhiều khát khao hơn cả một nhu cầu, như một đòi hỏi cấp thiết. Chỉ cần có mặt của người khác, không cần góp chuyện với họ, chỉ cần nghe thấy họ nói, hay họ đùa là tôi cũng cảm thấy yên tâm, tôi cảm thấy nếu có họ, sẽ không có điều gì xảy đến với tôi. Xảy ra điều gì nhỉ? Tôi cũng không chắc, có khi đó chỉ là một cơn choáng váng, hay ngất xỉu đơn thuần chẳng hạn. Tôi yêu thích cuộc sống cô đơn, tôi thậm chí không thể nào chịu nổi cảm giác có một người đang ngủ trong nhà của mình; tôi không thể sống được ở Paris bởi sự ồn ỹ, bởi những đám đông sống quanh tôi ở Paris sẽ làm tôi suy kiệt cả tinh thần lẫn thể xác, kể cả khi Paris đang ngủ. Ôi, tôi không sao chịu đựng được, không sao nghỉ ngơi được khi tôi biết, khi tôi cảm thấy, sau những bức tường là những thực thể đang sống, và nó chỉ tạm ngưng hoạt động theo chu kỳ sinh học mà thôi. Tại sao tôi lại như vậy? Ai biết? Nguyên nhân của nó thật vô cùng đơn giản: Tôi rất chóng mệt vì bị sự chi phối của người khác. Và trên trái đất này, kiểu người như tôi có rất nhiều. Con người chúng ta được chia thành hai loại: Một loại cần đến người khác, cần đến người khác để giải trí, để quan tâm, để chăm sóc. Đối với loại người này, sự cô đơn sẽ khiến họ héo mòn, đau khổ. Và một loại người thứ hai, ngược lại, họ mệt mỏi, buồn chán, khó chịu, đau khắp mình mẩy nếu sự yên tĩnh của họ bị phá vỡ.
Tóm lại, đó chỉ là hiện tượng tâm lý mà thôi. Một số người có thiên hướng sống cuộc sống xã hội, một số người khác lại có thiên hướng sống nội tâm.
Tôi, tôi thường chỉ chịu đựng được sự ồn ã náo nhiệt trong một khoảng thời gian ngắn mà thôi, nếu không, tôi sẽ cảm thấy rất mệt, rất khó chịu.
Kết quả là tôi cảm thấy vô cùng thân thiết gắn bó với các đồ đạc trong nhà, đối với tôi, chúng có một tầm quan trọng đáng kể trong lòng tôi. Và ngôi nhà của tôi trở thành một thế giới, trong đó tôi thư giãn, làm việc và sống một cuộc sống cô đơn, bầu bạn cùng tủ tạng, bàn ghế, đồ trang trí... với tôi chúng thân thuộc như người thân vậy. Tôi đã mua chúng, dùng chúng, lau rửa chúng, sửa chữa chúng. Sống giữa chúng tôi cảm thấy hài lòng, hạnh phúc như thể đang sống trong vòng tay âu yếm, ân cần của người thân.
Tôi có một ngôi nhà nằm gần ngoại ô Paris. Tôi đã cho xây ngôi nhà của mình giữa một khu vườn đẹp tuyệt xa cách với những con phố bên ngoài. Những người làm của tôi ở trong một dãy nhà sâu trong vườn rau, hoàn toàn tách biệt với căn nhà chính tôi ở. Căn nhà chính của tôi nằm núp dưới tán cây rậm rì, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Trong đó tôi cảm thấy yên bình, hạnh phúc, và ở đó mỗi tối tôi lại do dự rất lâu trước khi quyết định lên giường đi ngủ, vì tôi còn muốn hưởng thụ sự bình yên này lâu một chút.
Hôm đó, ở Nhà hát lớn thành phố trình chiếu vở Sigurd. Đó là lần đầu tiên tôi được nghe một vở nhạc kịch hay đến thế. Tan buổi diễn, tôi tung tăng đi bộ về nhà, tai như vẫn còn văng vắng những nốt nhạc, tâm tưởng vẫn còn đang nhớ lại những hình ảnh đẹp của vở ca kịch.
Trời tối, tối đen như mực, tối đến nỗi mấy lần tôi suýt dẫm xuống cống. Từ nhà hát về đến nhà tôi khoảng một cây số, có thể hơn một chút, mất khoảng hai mươi phút đi bộ nếu đi chậm. Lúc đó vào khoảng một giờ sáng, một giờ hay một rưỡi gì đó; nền trời được chiếu sáng mờ mờ bởi một vầng trăng lưỡi liềm vừa lên, một vầng trăng lưỡi liềm buồn bã, trăng lưỡi liềm cuối tháng. Vì trăng lưỡi liềm đầu tháng thường mọc lúc bốn năm giờ chiều, chiếu một thứ ánh sáng, sáng sủa, vui vẻ, bàng bạc, nhưng trăng lưỡi liềm mọc sau nửa đêm thường đo đỏ, ủ ê, lo lắng; đó chính là vầng trăng lưỡi liềm của Sabbat [1]. Tất cả những kẻ hay đi chơi đêm đều phải để ý đến dấu hiệu này. Vầng trăng lưỡi liềm đầu tháng thường nhỏ, mảnh như sợi chỉ, tung ra ánh sáng vui vẻ và đổ xuống mặt đất những bóng rõ ràng. Còn vầng trăng thứ hai tỏa ra một thứ ánh sáng chết chóc, lờ mờ đến nỗi mà gần như mọi vật đều như không có bóng khi đi dưới vầng trăng dó. Tôi nhận thấy từ xa, khoảng vườn tối rộng lớn của nhà tôi, tôi không biết vì sao, nhưng tôi cảm thấy bất an, tôi cảm thấy hơi lo lắng. Tôi chậm bước lại. Đêm yên tĩnh, những tán cây rậm rạp trông như một nhà mồ chôn vùi nhà tôi trong đó. Tôi mở cửa hàng rào và đi vào lối đi rợp bóng hai hàng sung xanh rì, vòm cây cong cong trông như một đường hầm cao đi trên những nấm cỏ, dưới những bóng tối xanh xanh mờ ảo, nhìn từ xa trông như những chấm hình ô van trên nền mây.
Khi lại gần ngôi nhà, một mối lo lắng mơ hồ kỳ lạ cứ luẩn quẩn trong tôi. Tôi đứng lại. không một tiếng động nhỏ. Không một ngọn gió, không một tiếng lá cây xào xạc. “Chuyện vớ vẩn gì thế?” tôi nghĩ. Từ mười năm nay tôi luôn về nhà và không bao giờ sợ bất cứ điều gì. Tôi không bao giờ sợ đêm tối, không sợ bất cứ ai, không sợ bất cứ cái gì. Nếu một tên trộm, một tên cướp xông đến tôi, tôi sẽ nhảy ngay lên không do dự. Vả lại tôi cũng có vũ khí, tôi có một khẩu súng lục. Nhưng tôi chưa chạm vào nó vì tôi muốn thử nghiệm cảm giác sợ hãi.
Gì thế nhỉ? Một linh cảm ư? Cái linh cảm huyền bí thường choán hết mọi giác quan của con người khi anh ta nhìn thấy một điều gì đó khó giải thích? Có thể thế sao? Biết đâu đây?
Tôi càng tiến gần ngôi nhà, tôi càng cảm thấy run, khi tôi đến trước tường nhà, dưới mái che, trước cửa nhà đóng kín. Tôi run đến nỗi phải đứng trấn tĩnh một vài phút trước khi mở cửa vào nhà. Để trấn tĩnh lại, tôi ngồi xuống một cái ghế dài, dưới cửa sổ của phòng khách. Tôi ngồi ở đó, hơi run rẩy, đầu dựa vào tường, mắt chăm chăm nhìn vào quầng tối trong tán cây. Lúc đầu tôi chẳng nhận thấy gì lạ thường cả. Tai tôi u u; nhưng điều này vẫn thường xảy ra với tôi. Thỉnh thoảng tôi vẫn nghe thấy tiếng xình xịch của tàu hỏa, tiếng u u của còi tầu, tiếng ồn ỹ của một đám đông.
Khi tiếng u u trong đầu tôi đã bớt đi. Và tiếng động đã trở nên rõ ràng hơn, dễ nhận biết hơn, thì tôi nhận thấy là tôi đã nhầm, vì đó không phải là tiếng động tôi cảm thấy do chứng ù tai thông thường của tôi, mà đó là một tiếng động rõ ràng, hơi lộn xộn, khó phân biệt phát ra phía trong ngôi nhà.
Tôi lần theo tường tìm xem tiếng động ở đâu phát ra, tiếng động vẫn tiếp tục phát ra, chấn động của nó khiến cho mọi đồ vật trong nhà tôi rung rinh.
Tôi đã nghi ngại rất lâu xem có phải tôi thật sự nghe thấy tiếng động đó không. Tôi cảm thấy rất rõ ràng có một điều gì đó khác thường, khó hiểu đang diễn ra trong nhà tôi. Tôi không sợ, nhưng tôi... biết giải thích thế nào nhỉ... tôi kinh hoảng. Tôi không cầm đến súng vì tôi đoán chắc rằng tôi sẽ chẳng cần dùng đến nó. Tôi đợi. Tôi đợi rất lâu, không thể tự quyết được gì hết. Đầu óc căng ra vì lo lắng, tôi đứng im, nghe ngóng, tiếng động vẫn đều đều phát ra, càng ngày càng to, có lúc nó to đến mức nghe ầm ầm như sấm.
Rồi đột nhiên, tự cảm thấy ngượng vì sự hèn nhát của mình, tôi vớ lấy chùm chìa khóa, chọn chiếc chìa cần thiết, ấn vào ổ, xoay hai vòng và lấy hết sức đẩy mạnh cánh cửa, ấn mạnh vào chuông cửa.
Một tiếng chuông vang lên như tiếng súng nổ. Và tiếng vọng của nó vang rền khắp nhà tôi. Điều này thật quá sức chịu đựng, thật quá tệ hại, quá đinh tai đến nỗi tôi phải lùi lại mấy bước, tuy cảm thấy vô ích nhưng tôi vẫn rút khẩu súng lục của tôi ra.
Tôi lại đợi thêm một lát nữa. Tôi nghe thấy như có tiếng bước chân lạ đang đi xuống cầu thang, đi xuống sàn, đi lên thảm, tiếng bước chân rất lạ, không phải là tiếng bước chân người, nó như tiếng nạng nện xuống sàn, một loại nạng bằng gỗ và bằng sắt, tiếng nạng nện xuống kêu thình thịch, loảng xoảng... Đột nhiên tôi nhận ra trên thềm cửa nhà tôi có một chiếc ghế bành, chiếc ghế bành lớn để ngồi đọc sách của tôi, nó vừa đi ra vừa nhún nhaỵ. Nó chạy ra vườn. Theo sau nó còn có những chiếc ghế trong bộ ghế sa lông của tôi, rồi đến cái bàn thấp đi trên những chiếc chân ngắn ngủn trông như những con cá sấu, tiếp sau là tất cả các ghế dựa với những bước nhảy như ngựa, và rồi đến các ghế gác chân chạy lon ton như thỏ.
Oai! Xúc động làm sao! Tôi lẩn vào một chỗ, ngồi xổm xuống để ngắm cuộc diễu hành của đồ đạc của mình, bởi tất cả bọn chúng đang rùng rùng bỏ đi, cái này sau cái kia, nhanh hay chậm tùy thuộc vào kích cỡ và trọng lượng của chúng.
Cái đàn dương cầm của tôi đi như phi nước đại, vừa đi vừa rền rĩ những nốt nhạc trong sườn đàn. Những đồ vật bé tẹo chạy lăng xăng trên cát như những con kiến, những chiếc bàn chải đánh răng, những đồ pha lê, những chiếc cúp đang lấp lánh sáng dưới ánh trăng bàng bạc. Những tấm vải bò, trườn dập dờn trông như sóng biển. Tôi thấy bàn làm việc của tôi xuất hiện, bàn làm việc của tôi là một trong những kiệt tác mỹ nghệ quý hiếm của thế kỷ trước, và trong đó là tất cả thư từ riêng tư của tôi, tất cả những chuyện phiêu lưu tình cảm của tôi, nhũng chuyện tình cảm vô cùng riêng tư, không thể cho ai biết, còn nữa, trong đó còn có những tấm ảnh nữa.
Đột nhiên tôi không còn thấy sợ nữa, tôi nhảy bổ lên chiếc bàn và ôm chặt lấy nó như thế người ta tóm chặt lấy tên kẻ trộm, như thể người ta ôm chặt lấy một người phụ nữ đang muốn bỏ trốn; nhưng nó vẫn tiếp tục cuộc hành trình của nó không sao cản lại được. Dù tôi đã lấy hết sức bình sinh để trì cản nó lại nhưng tôi không sao cản nó đứng lại được. Vì tôi cản nó, đẩy nó, trì kéo nó với toàn bộ sức lực, với một nỗ lực tuyệt vọng nên nó không đẩy tôi ra được, nó bèn lăn qua tôi, kéo lê tôi trên cát, và thế là những đồ vật khác liền xéo lên tôi, dẫm lên đùi tôi, làm đau tôi; không chịu nổi, tôi đành buông tay khỏi cái bàn, thế là những đồ vật khác dẫm lên tôi, đạp lên tôi như thể một đội kỵ binh đang đi đạp lên một kỵ binh bị ngã ngựa mà không dừng lại được.
Điên lên vì sợ nhưng cuối cùng tôi cũng lăn được ra khỏi lối đi và trốn sau những cái cây để xem cuộc diễu hành của toàn bộ đồ đạc của mình, tôi thấy xuất hiện cả những đồ vật nhỏ nhất, bé nhất, khiêm nhường nhất, mà ngày thường tôi không để mắt đến, những đồ vật đã từng thuộc quyền sở hữu của tôi.
Rồi tôi nghe thấy phía xa xa, trong nhà tôi, có tiếng vang như trong những ngôi nhà trống không, có tiếng kẹt cửa. Những cánh cửa đóng sập lại từ trên xuống dưới thấp, cho tới tận cánh cửa phòng tiền sảnh mà chính tay lúc nãy đã mở ra và nhìn thấy cảnh ra đi kỳ cục đó. Giờ đây, nó là cánh cửa cuối cùng, tự đóng sầm lại.
Tôi cũng thế, tôi bỏ chạy về phía thành phố, và tôi chỉ lấy lại được bình tĩnh khi tôi vào được trong phố, nhìn thấy người đi lại. Tôi đến nhấn chuông một khách sạn mà tôi là khách quen. Trông tôi như vừa từ một cuộc hỗn chiến với đôi tay, quần áo lấm lem bùn đất, tôi kể lại là tôi đã đánh mất chùm chìa khóa. Tôi không vào khu nhà chính được, và tôi cũng chẳng gọi được bọn người làm vì bọn họ sống trong khu nhà phụ trong vườn rau. Mà vườn rau cũng đã được xây tường bao quanh nhằm tránh con mắt nhòm ngó của bọn trộm rau quả.
Họ dẫn tôi lên phòng, tôi trùm chăn kín người, nhưng tôi không ngủ được, tôi vừa nằm đợi trời sáng vừa nghe tiếng tim tôi đập thình thịch. Tôi đã dặn họ báo cho người nhà tôi ngay khi trời sáng.
Thế nên lúc bảy giờ sáng, có tiếng gõ cửa phòng tôi, tên hầu phòng của tôi ló mặt vào, trông hắn đầy vẻ bối rối:
- Thưa ông, con có tin xấu báo ông. - Anh ta nói.
- Gì thế?
- Kẻ trộm đã trộm hết mọi đồ đạc trong nhà rồi thưa ông, chúng lấy hết, lấy hết, kể cả những đồ vật nhỏ nhất.
Tin này làm tôi hài lòng. Tại sao? Ai biết? Tôi vẫn tự chủ được, tôi chắc chắn sẽ giữ kín những gì tôi đã nhìn thấy, tôi sẽ chẳng kể cho ai nghe những gì tôi đã chứng kiến, tôi sẽ giữ, sẽ giấu nó cho tới khi xuống mồ như giữ như giấu một bí mật khủng khiếp. Tôi trả lời:
- Vậy chắc đó cũng chính là những kẻ đã ăn trộm chìa khóa của ta. Hãy báo ngay cho cảnh sát. Ta dậy đây và lát nữa ta sẽ gặp lại cậu ở nhà.
Cuộc điều tra kéo dài năm tháng, cảnh sát chẳng phát hiện ra điều gì cả, cảnh sát không tìm thấy gì hết, họ chẳng hề tìm thấy một đồ vật nhỏ nào của tôi cả, họ cũng chẳng tìm ra một dấu vết nào của bọn trộm nhà tôi.
Đương nhiên rồi! Nếu tôi nói ra những điều tôi đã biết... nếu tôi nói với họ về điều đó... họ sẽ nhốt tôi lại ngay, tôi đã không nhìn thấy kẻ trộm, tôi không thể nhìn thấy những điều như thế.
Ôi! Tôi im đi thì hơn. Nhưng tôi cũng không mua lại đồ đạc trong nhà. Vì vô ích thôi. Điều đó rồi sẽ lại xảy ra. Tôi không muốn về đó nữa. Tôi không về đó nữa. Tôi không muốn nhìn lại ngôi nhà đó một chút nào.
Tôi quay về khách sạn, và tôi đi khám bác sĩ tâm lý vì sau cái đêm tồi tệ đó tôi cảm thấy lo cho tình trạng thần kinh của mình.
Các bác sĩ khuyên tôi đi du lịch cho thư giãn đầu óc. Tôi nghe theo lời khuyên của họ.
Tôi quyết định đi du lịch ở Ý. Thời tiết ở đó rất tốt khiến tôi cảm thấy khỏe lên. Trong suốt sáu tháng, tôi lang thang từ Gênes tới Venise, từ Venise tới Florence, từ Florence tới Rome, từ Rome tới Nappies. Rồi tôi đi ra đảo Sicile, vùng đất thiên đường với thời tiết ôn hòa dễ chịu, với các thắng cảnh nổi tiếng, những thánh tích còn sót lại của người Hy Lạp và người Normands. Tôi đi qua châu Mỹ, tôi băng qua sa mạc rộng lớn một cách yên bình. Sa mạc, nơi toàn cát vàng mênh mông, yên tĩnh, nơi những con lạc đà, những con linh dương, những kẻ du mục người Ả Rập đi lang thang, nơi không khí nhẹ và trong suốt, không nổi trôi một chút ám ảnh nào, không có cơn ác mộng nào ám ảnh tôi.
Tôi về Pháp, nơi tôi đặt chân về đầu tiên là Marseille, cho dù tôi đang rất vui, cho dù khung cảnh vùng Provence rất vui nhộn, tôi vẫn thấy buồn. Tôi cảm thấy một cảm tưởng rất lạ khi quay trở về nơi này, tôi cảm thấy như trong tôi có một căn bệnh gì đó mà tôi tưởng đã khỏi nhưng mầm bệnh vẫn âm ỉ sống và đang trỗi dậy.
Tôi trở về Paris. Lúc đó đang vào thu, ngay từ lúc mới về tôi đã cảm thấy buồn chán, và tôi lại muốn làm một chuyến đi, trước khi đông sang, tới vùng Normandie tuy rằng tôi chưa hề biết vùng này.
Từ Rouen, tôi bắt đầu cuộc hành trình, và trong suốt tám ngày, tôi lang thang không mục đích, vui vẻ, phấn chấn trong thành phố của thời Trung đại này, tôi lang thang trong các bảo tàng đẹp tuyệt với kiểu kiến trúc gôtích.
Rồi một tối, khoảng bốn giờ, khi tôi đang thả bộ trong một con phố kỳ quặc vì nó nằm trên một dòng sông đen ngòm như mực có tên “Nước của Robec” chảy dọc theo con phố, khi đó tôi đang chú mục vào những kiểu cấu trúc nhà rất lạ theo kiểu cổ thì tôi để ý thấy một loạt các cửa hàng bán đồ cổ liền san sát, nhà nọ nối tiếp nhà kia thành một dãy.
A! Họ chọn được một nơi đắc địa làm sao, những kẻ buôn gian bán lận bẩn thỉu, bán các loại đồ cũ trong một đường phố kỳ dị, trên một dòng chảy buồn thảm, dưới những mái ngói nhọn và lại còn có tiếng kêu kèn kẹt của các cái chong chóng từ thời xưa!
Sâu trong các gian hàng, người ta nhìn thấy chất hàng đống những hòm xiểng bằng gỗ khắc, hàng đống những đồ sành sứ của vùng Rouen, Nevers, Moustiers, những bức tượng vẽ được làm bằng gỗ sồi hình Chúa, hình Thánh, hình Đức Mẹ đồng trinh, hình hoa văn của các nhà thờ, hàng đống các áo choàng lễ, áo lễ, thậm chí còn có cả bình nước thánh và một tủ bánh thánh cổ bằng gỗ thiếp vàng.
Ôi! Thật như kho hàng của cướp biển, đầy đồ đạc đủ các chủng loại, đủ các màu sắc, đủ các thời kỳ, đủ các mẫu mã đang được bày bán cho người mua tò mò.
Sự ham thích những đồ mỹ nghệ cổ lại trỗi dậy trong tôi, tôi đi từ cửa hàng này tới cửa hàng khác.
Trời ơi! Tôi thực sự choáng váng khi nhìn thấy một trong những cái tủ đẹp nhất của tôi nằm ngay ngoài một gian nhà đầy ứ đồ đạc. Một đống đồ đạc quen thuộc nhưng sao trông có vẻ như đồ đạc được lấy ra từ một hầm mộ vậy. Tôi run run tiến lại gần những đồ đạc của tôi, run đến nỗi tôi không dám chạm vào cái tủ thân thuộc của mình. Tôi đưa tay ra một cách do dự.
Chính nó rồi: Cái tủ đứng chỉ có ở thời vua Louis VIII, bất cứ ai đã một lần nhìn thấy nó sẽ nhận ra nó ngay, đưa mắt nhìn sâu vào bên trong, tôi nhận ra ba cái ghế bành bọc thảm chấm của mình, sâu hơn một chút vào bên trong là hai cái bàn của thời vua Henri II của tôi. Hai cái bàn này là loại rất hiếm, người ta chỉ có thể nhìn thấy chúng ở Paris mà thôi.
Bạn thử tưởng tượng xem, tưởng tượng xem lúc đó tôi cảm thấy thế nào!
Tôi tiến vào, ngạt thở vì xúc động, nhưng tôi vẫn tiến vào bởi tôi là một người dũng cảm, tôi tiến vào như một hiệp sĩ thời xưa dấn thân vào một cuộc phiêu lưu chống lại ma quý.
Mỗi bước chân tôi lại phát hiện thêm những đồ vật vốn thuộc sở hữu của tôi: những bộ đèn chùm, sách vở, tranh, đồ vải, vũ khí... tất cả, chỉ trừ có chiếc bàn làm việc đầy thư từ của tôi là tôi không nhìn thấy.
Tôi mò mẫm đi xuống phòng bày bán tối tăm rồi tôi lại trèo lên những tầng trên cao. Tôi gọi, nhưng không ai trả lời tôi. Tôi chỉ có mỗi một mình trong căn nhà rộng lớn và ngoắt ngoéo như một mê cung.
Đêm xuống, tôi đành ngồi trong cảnh tăm tối, trên một trong những chiếc ghế dựa của mình vì tôi không muốn bỏ đi.
Thỉnh thoảng tôi lại hét lên: “Có ai ở đây không? Có ai không?” Tôi ngồi một mình ở đó khoảng hơn một tiếng đồng hồ rồi tôi nghe có tiếng chân bước rất nhẹ, rất khẽ, rất chậm. Tôi không biết tiếng chân đó từ đâu phát ra. Tôi suýt bỏ chạy, những rồi tôi cố lấy lại can đảm, tôi gọi lại một lần nữa và tôi nhìn thấy có ánh sáng ở phòng kế bên.
Một giọng hỏi lại:
- Ai ở bên ấy thế?
Tôi trả lời:
- Một người mua hàng.
Giọng đó đáp lại:
- Muộn rồi, cửa hàng không tiếp khách nữa.
- Tôi đã đợi ông từ hơn một giờ rồi. - Tôi đáp.
- Ông có thể quay lại vào ngày mai.
- Ngày mai tôi phải rời Rouen rồi.
Tôi không dám tiến thêm lên một bước nào nữa, người bên kia cũng không sang. Tôi vẫn nhìn thấy ánh sáng ở phòng bên hắt sáng chiếu lên bức thảm treo tường hình hai thiên thần bay lượn trên cánh đồng người chết. Tấm thảm đó cũng là tấm thảm của tôi trước kia. Tôi hỏi:
- Ông sang đây chứ?
Ông ta trả lời:
- Tôi đang đợi ông đây.
Tôi đứng lên và đi sang phòng bên.
Giữa căn phòng lớn là một người đàn ông nhỏ thó, một người rất nhỏ bé trong một căn phòng rất rộng lớn, khung cảnh đó khiến người ta có cảm giác rất khó tả. Ông ta có một chòm râu mảnh, hung vàng và không hề có một sợi tóc nào trên đầu! Không một sợi tóc nào?
Vì ông ta đang giơ cao cây nến để soi tôi nên cái sọ đầu của ông ta trông như một vầng trăng nhỏ trong căn phòng rộng lớn chất đầy đồ cũ này. Mặt ông ta béo phị, đầy nếp nhăn, đôi mắt bé tí rất khó nhìn thấy.
Tôi mua lại ba chiếc ghế cũ của chính mình và tôi đã phải trả một khoản tiền lớn ngay lúc đó. Sau đó tôi đưa địa chỉ khách sạn của mình cho ông ta, chúng sẽ được giao đến cho tôi trước chín giờ sáng mai. Rồi tôi ra về. Ông ta tiễn tôi ra tới tận cửa đầy vẻ lịch sự.
Tiếp đó tôi đến nhà ông cảnh sát trưởng để khai báo về vụ mất trộm toàn bộ đồ đạc trong nhà tôi và những gì mà tôi vừa nhìn thấy.
Ngay tức khắc ông ta đánh điện hỏi Viện Kiểm sát tất cả những thông tin về vụ trộm ở nhà tôi và đề nghị tôi cùng ngồi đợi câu trả lời. Một giờ sau, ông ta thông tin lại cho tôi:
- Tôi sắp bắt người đàn ông đó và tôi sẽ tham vấn ông ta ngay, bởi ông ta bị nghi là có dính líu tới vụ trộm tại nhà ông. Ông có muốn đi ăn tối không? Hãy quay lại đây sau hai tiếng nữa, tôi sẽ bắt giữ ông ta và tôi sẽ hỏi cung trước mặt ông.
- Vâng, rất cảm ơn ông, thưa ông.
Tôi về khách sạn dùng bữa tối, không như tôi tưởng, tôi đã ăn rất ngon miệng. Dù sao tôi cũng khá hài lòng, người ta đã bắt giữ được ông ta.
Hai giờ sau, tôi quay lại nhà ông cảnh sát. Ông đang chờ tôi.
- A tốt! Ông đây rồi. Người ta không tìm thấy người ông tả. Người của tôi đã tra xét khắp nơi nhưng không hề thấy ông ta.
A! Tôi cảm thấy sắp xỉu.
- Nhưng... các ông có lục xoát kỹ ngôi nhà đó không? - Tôi hỏi.
- Lục soát rất kỹ, nó đã được rà soát đi rà soát lại. Nhưng riêng về người đàn ông, ông ta đã biến mất.
- Biến mất?
- Biến mất. Tối tối ông ta thường lui tới chơi nhà hàng xóm, cũng là một nhà buôn đồ cũ, một bà phù thủy khá kỳ lạ, bà ta là vợ góa của ông Bidom. Tối nay, bà ta không gặp ông ta và bà ta không biết ông ta ở đâu. Phải đợi đến mai thôi.
Tôi bỏ về. A! Những con phố ở Rouen mới buồn thảm, tăm tối, rối ren làm sao.
Tôi ngủ rất tệ và mơ thấy ác mộng.
Không muốn tỏ ra quá nôn nóng, ngày hôm sau tôi đợi đến tận mười giờ mới đến sở cảnh sát.
Người bán hàng vẫn chưa xuất hiện, cửa hiệu của anh ta vẫn đóng cửa.
Ông cảnh sát trưởng bảo tôi:
- Điều gì cần làm tôi cũng đã làm hết rồi. Viện Kiểm sát đã biết hết mọi chuyện; chúng ta hãy cùng tới cửa hàng đó và mở nó ra, ông hãy chỉ hết những đồ vật thuộc quyền sở hữu của ông cho tôi.
Và chúng tôi, gồm cảnh sát, một ông thợ khóa và tôi, cùng đến đó trên một chiếc xe ngựa kéo. Đến đó, ông thợ khóa mở khóa cửa trong vòng vài phút. Khi cửa được mở ra, tôi đi vào trong và chẳng còn nhìn thấy tủ của tôi, ghế của tôi, bàn của tôi ở đâu nữa, chẳng còn bất cứ đồ đạc nào của tôi, trong cửa hiệu đó trong khi tối qua mỗi bước chân đi tôi lại nhìn thấy một đồ vật nào đó của mình.
Ông cảnh sát trưởng ngạc nhiên, nhìn tôi với ánh mắt nghi ngờ.
- Ôi Chúa ơi! - Tôi nói với ông ta - Sự biến mất của những đồ vật đó trùng hợp một cách đáng ngạc nhiên với sự biến mất của ông chủ cửa hàng.
Ông cảnh sát trưỡng mỉm cười:
- Vâng, đúng thế đấy! Ông đã sai lầm vì hôm qua đã mua và đã trả tiền những đồ vốn của ông. Hẳn điều đó khiến hắn cảnh giác.
- Điều khiến tôi khó hiểu, đó là tất cả những chỗ mà hôm qua còn chất đầy đồ đạc của tôi giờ đây đã được thay thế bằng đồ vật khác.
- Ồ! - Ông cảnh sát trưởng trả lời - Hắn ta có cả một đêm cơ mà, và đương nhiên còn có cả những kẻ tòng phạm nữa, ngôi nhà này có liên hệ với các nhà hàng xóm. Đừng lo sợ gì hết, thưa ông, tôi sẽ để ý giám sát vụ án này. Kẻ bất lương không thoát được lâu đâu vì chúng ta sẽ giám sát kỹ hang ổ của hắn.
A! Con tim tôi, con tim tôi, con tim khốn khổ của tôi, nó đập mới mạnh làm sao!
Tôi ở lại mười lăm ngày nữa ở Rouen. Người đàn ông đó vẫn không hề xuất hiện. Chúa ơi! Chúa ơi!
Thế nhưng, vào sáng ngày thứ mười sáu, tôi nhận được thư của người làm vườn nhà tôi ở ngôi nhà hoàn toàn không có đồ đạc của tôi, bức thư kỳ lạ đó như sau:
“Thưa ông,
Tôi vô cùng vui mừng được thông báo với ông rằng đêm qua, một sự việc vô cùng lạ lùng đã xảy ra, không một ai, kể cả cảnh sát lẫn tất cả bọn người làm chúng tôi có thể hiểu và giải thích được. Đó là tất cả mọi đồ đạc của ông đã được để vào đúng vị trí cũ, tất cả, không sót một đồ vật nào dù nhỏ nhất. Ngôi nhà giờ đây lại đúng như trước hôm xảy ra vụ trộm.
Chuyện đó diễn ra đêm thứ sáu rạng ngày thứ bảy. Lối đi bị sụt hỏng như thể người ta đã lôi kéo vật gì rất nặng suốt từ hàng rào đến tận cửa. Dấu vết đó giống hệt như dấu vết hôm sau ngày mà tất cả đồ vật biến mất.
Chúng tôi đang ngóng đợi ông về. Xin kính cẩn chào ông.
Raudin Philippe”.
Không! Không! Tôi sẽ không về đó đâu!
Tôi mang bức thư đó đến chỗ ông cảnh sát trưởng ở Rouen.
- Một sự hoàn trả khôn khéo - Ông ta nói - Chúng ta hãy án binh bất động. Một ngày nào đó chúng ta sẽ tóm được hắn.
Nhưng người ta đã không tóm được hắn. Không. Họ đã không tóm được hắn, giờ đây, tôi sợ hắn, như thể đó là một con thú hung ác bị sổng đang đuổi theo tôi.
Không thể tìm thấy! Hắn là không thể tìm thấy, tên quái vật có cái sọ hình mặt trăng! Người ta không bao giờ bắt được hắn. Hắn sẽ không quay về hang ổ của hắn nữa. Duy chỉ có tôi có thể gặp hắn; tôi không muốn.
Tôi không muốn! Tôi không muốn! Tôi không muốn!
Nếu hắn quay lại, nếu hắn quay về gian hàng của hắn, ai sẽ có thể chúng minh rằng những đồ đạc của tôi đã từng ở đó? Chẳng có chứng cứ nào chống lại hắn cả; và hắn mãi mãi chỉ là kẻ bị tình nghi mà thôi.
Nhưng không! Con người đó là không thể có thật. Tôi không thể giữ được bí mật về điều mà tôi đã nhìn thấy. Tôi không thể sống với nỗi sợ điều đó sẽ lại xảy ra một lần nữa.
Tôi đến tìm bác sĩ trưởng của bệnh viện tư này và kể cho ông nghe mọi chuyện.
Sau khi đã hỏi han tôi rất lâu, ông nói với tôi:
- Ông có bằng lòng ở lại đây một thời gian không thưa ông?
- Tôi bằng lòng.
- Ông có tiền chứ?
- Có.
- Ông có muốn ở riêng không?
- Có.
- Ông có muốn gặp gỡ bạn bè không?
- Không, tôi không muốn gặp bất cứ ai hết. Vì người đàn ông ở Rouen có thể sẽ đến tận đây để trả thù tôi.
Và tôi ở lại đó một mình, hoàn toàn có một mình từ ba tháng nay. Tôi dần lấy lại được thăng bằng. Tôi chỉ sợ có một điều... Nếu kẻ bán đồ cổ đó phát điên... nếu người ta đưa hắn đến đây, đến nhà thương điên này... Thì chính nhà tù mà tôi đã chọn để nương náu này cũng không còn an toàn, chắc chắn nữa.
Chú thích:
[1] Hội nghị đêm của các phù thủy mà Satăng làm chủ tọa.