4.
HOÀNG THÁI HẬU
Gió lạnh ở phương bắc thổi xuống, thủ phủ Bắc Kinh chìm đắm trong tiết mùa đông, tháng giá. Và mùa hè, cây cối trong tỉnh tốt tươi cành lá xum xuê. Sang đông, gió lạnh, sương tuyết, cây cối như bị tróc hết lá, còn trơ những cành khẳng khiu như những bộ xương leo kheo đứng giữa trời. Các ao hồ, ngòi lạch như có một đường viền trắng nước đông đóng giá. Những người đi đường, rét run, co ro, gió lạnh buốt như cào da, xé thịt. Mấy người bán khoai lang lùi là đắt hàng nhất. Người nghèo mất ít tiền được ăn no lòng, mà lưỡng lợi được sưởi hai bàn tay rét cóng. Mở mồm nói như có một làn khói ở trong mồm phun ra, các bà mẹ cấm con không được khóc vì nhiệt độ trong người bốc ra hết. Mùa đông năm đó, trời rét lạ lùng, gió lạnh buốt đến xương tủy như cào da xé thịt, rét từ trong bụng rét ra.
Giờ đây, linh hoàng của cố hoàng thượng đặt ở một ngôi chùa trong hoàng thành, chờ đến ngày làm lễ quy lăng. Việc kế vị đã được ổn định, cả quốc dân như hồi hộp lo sợ trước viễn ảnh những năm kế tiếp đen tối cho vận mạng quốc gia.
Bản thõa ước Cung thân vương ký với quân ngoại xâm đã thừa nhận quân địch hoàn toàn đắc thắng.
Một hôm, trong mùa đông năm đó, hoàng thái hậu ngồi một mình trong cung, nghiên cứu tỉ mỉ những điều khoảng trong bản thỏa ước.
Bà ngồi một mình, tên thái giám Lý Liên Anh đứng hầu gần đó, túc trực để chờ lệnh sai khiến. Nhiệm vụ của tên thái giám phải để mắt nhìn mọi cử chỉ, để tai nghe mọi lời nói của hoàng thái hậu để thi hành mệnh lệnh. Bà thái hậu dùng tên thái giám để sai vặt, còn ngoài ra bà coi như phần tử ngu độn, không đáng để ý.
Sáng hôm đó, bầu trời ảm đạm, tuyết sương lạnh lẽo, bà ngồi một mình, đọc đi đọc lại những điều khoản trong thỏa ước. Với trí giàu tưởng tượng của bà, những điều khoản càng thêm linh động.
Theo bản thỏa ước, từ nay trở đi và tiếp tục mãi mãi về sau này, người Anh, người Pháp và những người ở các nước ngoại quốc đến đây, ở trên đất nước này với tư cách đại biểu cho chính phủ họ. Bọn người này đến, lẽ tất nhiênm họ đem theo vợ con, gia nhân, đầy tớ, gia đình họ, binh lính họ. Bọn người bạch chủng man di đó có dịp kết thân với những thiếu nữ người Hán trẻ đẹp, một nguyên nhân của sự hỗn loạn.
Bản thỏa ước còn cưỡng bách bà hoàng thái hậu kiệm nhiệm nhiếp chính vương phải trả cho bọn người ngoại quốc hàng ngàn lạng vàng. Ôi! Còn đâu là công lý, là lẽ phải. Tự dưng vô cớ lại đem quân đến đánh phá một dân tộc rồi cưỡng bách dân tộc đó phải bồi thường chiến tranh?
Lại còn những điều khoản khác cũng rất phi lý. Trung Quốc phải mở rộng hải cảng, giang cảng cho tàu bè ngoại quốc lui tới, kể cả giang cảng Thiên Tân, chỉ cách xa kinh thành có 150 cây số. Không những người họ mà còn tất cả hàng hóa của họ được thông thương khắp trong nội địa Trung Hoa. Người dân thấy hàng hóa của người ta híp mắt lại. Lại một nguyên nhân sinh ra hỗn loạn.
Theo bản thỏa ước, Trung Quốc phải mở rộng cửa đón nhận những người đi truyền giáo. Bọn người này có quyền đi lại trên khắp lãnh thổ, muốn ở đâu tùy ý, để mê hoặc, dụ dỗ dân chúng tôn thờ những vị thần lai căng. Kinh nghiệm đã thấy, những tôn giáo du nhập chỉ đem lại cho quốc gia nhiều tai họa.
Đó, đại cương những điều khoản của bản thỏa ước, những điều khoản tai hại nặng nề cho xứ sở. Bà ngồi một mình trong một cung vắng vẻ, một ngày ảm đạm, tiết mùa đông. Bọn a hoàn dọn bàn ăn, bưng cơm lên, nhưng bà không đụng đũa. Trời đã xâm xẩm tối, bà không để ý về thời gian, không ai dám nói một lời, mời bà xơi cơm hay đi nghỉ. Tên thái giám rón rén bưng lại để gần bà, ấm nước trà xanh, thứ trà bà ưa dùng, nhưng bà cũng không đụng tới.
Bà ngồi, thức suốt đêm, bản thỏa ước đặt trên mặt bàn trước mặt. Về gần sáng, bà hất bản thỏa ước sang một bên, bà vẫn ngồi không đứng dậy. Những cây nến đỏ gắn trên giá nến bằng vàng cháy hết, thái giám lại thay tiếp. Bà ngồi lặng yên, hai tay ôm cằm, trong một tư thế trầm tư mặc tưởng. Ấu đế, con bà mới được năm tuổi, chỉ được chính thức bước lên ngôi rồng trị vì vào ngày mừng sinh nhật năm thứ mười sáu. Trong thời gian khoảng cách mười năm, bà phải đảm nhiệm chức vụ quốc trưởng, một trọng trách vô cùng nặng nề. Một nước đất đai vô cùng rộng lớn, bà không sao tưởng tượng được, lịch sử dân tộc có thời Bàn Cổ với một dân số khổng lồ không thể ước lượng nổi. Dân tộc đó coi bà như một ngoại nhân. Trong thời bình, cai trị một dân số như thế cũng đã là một gánh nặng khủng khiếp. Hiện nay, nước bị rách nát, giặc giã nổi lên như ong, tên Hùng cầm đầu một bọn giặc chiếm giữ Nam Kinh, nơi xưa kia nhà Minh lập kinh đô. Triều đình phái quân đội đi tiễu trừ, nhưng chưa triệt hạ được tên soán nghịch. Hai bên cam cự, đánh nhau mãi, dân chúng lâm vào tình trạng phá sản, không làm ăn gì được, chết đói. Bà thái hậu cũng thừa hiểu quân đội hoàng triều cũng không hơn gì quân nghịch, vì lương hậu thất thường, một tháng có, mười tháng không, bắt buộc họ phải vào các làng mạc kiếm lấy cái ăn.
Người dân nhìn thấy cửa nhà bị thiêu rụi tan hoàng, thóc lúa, trâu, bò bị cướp phá, đồng ruộng bị bỏ phế, họ căm thù cả hai bên, giặc cũng như quân đội hoàng triều.
Bổn phận bà phải cải thiện, cải tổ lại quân đội, mới mong hùng mạnh, được dân chúng tin tưởng.
Lại một vấn đề nữa cũng nan giải, đè trĩu trên vai bà. Đó là tính một người phụ nữ chấp chính cầm quyền. Người Hán không mấy thiện cảm mấy đối với một phụ nữ lãng đạo quốc gia. Người ta quan niệm, người đàn bà dù sao cũng kém cõi không bằng người đàn ông. Lịch sử Trung Quốc đã chứng minh điều đó. Người dân liệu có tin tưởng một phụ nữ như bà lãng đạo luồng máy quốc gia sẽ đem lại công bằng, cơm no, áo ấm cho dân không?
Bổn phận bà phải chứng minh bà có đủ khả năng để lái con thuyền quốc gia trong cơn sóng gió.
Nhưng tất cả gánh nặng, trọng trách đó, trọng trách lớn nhất chính là bản thân bà, làm sao tự khắc kỷ, tự chế phục được mình. Bà cũng tự biết bà còn rất nhiều khuyết điểm, những cạm bẫy cám dỗ của trái tim non nớt hăng say, cá tính phức tạp bà còn rất nhiều nhược điểm. Lòng bà vẫn ấp ủ một dục vọng chưa được mãn nguyện, bà mơ ước một người đàn ông, người đó cả tinh thần lẫn thể chất hoàn toàn phải hơn bà, nghĩa là bà có thể đặt tin tưởng vào người đó. Người như thế là ai, hiện ở đâu? Nghĩ đến vấn đề đó, mộng tưởng của bà chấm dứt, bà đứng dậy, thấy lạnh tự trong đáy lòng, từ trong tâm hồn lạnh ra. Lý Liên Anh tiến lại gần.
- Tâu thái hậu, mời thái hậu đi nghỉ.
Người thái giám đưa cánh tay bà vịn vào đưa bà về tư phòng. Người nữ tỳ ngồi chờ ở cửa.
Trời đã hửng sáng, bà nằm yên trên giường, kiểm điểm lại những ý nghĩ chiều hôm trước. Bà có nhiều trọng trách, đè trĩu hai vai, nhưng bà nhận thấy có đủ sức, đủ lực để gánh vác. Bà đang ở trong tuổi thanh xuân, khí huyết phương cương, tinh thần minh mẫn, điều kiện cần thiết để đảm nhận những công việc khó khăn, nặng nề. Là một phụ nữ, nhưng bà đã sinh ra đức kim thượng. Bà tránh không theo những vết xe cũ của những người đàn bà có quyền thế trong tay, muốn lúc nào cũng đứng trên tột đỉnh hơn cả mọi người cả người con lên ngôi, trị vì. Đối với con bà lên ngôi thiên tử, bà muốn được mai danh ẩn tích không muốn giẫm chân lên quyền của con. Trong thời gian đảm nhiệm chức vụ nhiếp chính, bà muốn giữ một thái độ ôn hòa, thận trọng đối với tất cả mọi người, xếp đặt mọi công việc nội trị, ngoại giao, ổn định tình thế để cho con lên chấp chính sau này. Bà sẽ giao lại cho con toàn vẹn lãnh thổ, tất cả quy về một mối rồi bà rút lui, an hưởng thanh nhàn, bà không muốn tranh giành quyền với con. Bà sẽ chứng minh cho quốc dân biết triều đại của bà sẽ thái bình, thịnh trị. Bà còn trẻ, có thiện tâm, thiện chí, bà sẽ đạt tới đỉnh. Bà đứng dậy, vững lòng tin tưởng, tâm hồn phấn khởi.
Từ nay, đình thần có một vị tân vương, một người đàn bà tuy cương nghị nhưng rất ôn hòa, không nhìn ai thẳng vào mặt, cả những tên thái giám, nói năng ôn hòa, lịch sự, bất luận phẩm trật, cấp bực, dáng điệu rất uy nghi, đường bệ. Không ai có thể biết được chuyện thầm kín, riêng tư, những tư tưởng, ý nghĩ, mơ vọng của bà. Bà hoàng thái hậu sống cô đơn, nơi thâm cung sau những bức tường thành cao ngất, bất khả xâm phạm.
Để khởi diễn một kỷ nguyên trong đời bà, bà dời tư cung dọn đến ở Ôn cung, trong hoàng thành, nơi đó gọi là Tây Lộ. Ôn cung có tất cả sáu phòng lớn, nhiều hoa viên và một thư viện đồ sộ có tới ba mươi sáu ngàn cuốn cổ thư. Trước Ôn cung có chín con rồng vàng bằng sứ, tô điểm đủ màu sắc như một tấm bình phong. Tấm bình phong có tác dụng vừa để trang trí và trấn áp tà thần. Sau tấm bình phong là một gian phòng rất rộng, gian phòng dùng làm nơi thiết triều, trước mặt là một sân lát đá hoa. Trước mỗi gian phòng có một cái sân lớn. Bà chọn một gian phòng tiếp kiến các vị thân vương và các quan trong triều. Bà ở một gian phòng, từ đó bà có thể đi thẳng vào phòng ngủ. Giường xây bằng gạch sát vào tường. Trên giường có trãi một tấm đệm bọc vóc vàng, xung quang giường có căn tấm màn the màu vàng thêu những bông hoa lựu màu đỏ mà bà ưa thích. Sau gian phòng ngủ có thiết lập một ban thờ Phật, trên có một pho tượng Phật bằng vàng, hai bên có hai vị Bồ tát;Quan âm và Thế Chí. Đằng sau ban thờ có một khuôn cửa vào một gian phòng, bọn thái giám ẩn kín ở đó, sẵn sàng hầu hạ, phục vụ bà.
Cung điện hoa mỹ, tráng lệ.Trong cung bày biện, trang trí những đồ đạt rất quý, trên phủ những tấm thêu bằng vóc đỏ. Bà cũng cho đem lại những đồng hồ của các nước Tây phương sưu tập, những chậu bông, những lồng chim, những chiếc đệm thêu, đàn chó, những sách của bà, chiếc án thư, chiếc tủ kính bày những đồ mỹ thuật trang trí. Cáckhuôn cửa sơn son thiếp vàng, trên mỗi khuôn cửa có mái hiên mạ vàng. Trong tư phòng, những khuôn cửa hình bán nguyệt xung quanh có gắn đá hoa, chạm trổ rất tỉ mỉ công phu, trông ra một hoa viên kín, những bức tường có cẩn đá hoa. Dưới những bức thông cổ thụ, hương bay ngào ngạt, phía xa một thảm cỏ xanh ngắt.
Phía trong cùng hoa viên có một gian phòng, cửa lúc nào cũng đóng kín. Bà thái hậu giữ chìa khóa gian phòng đó.
Giữa khung cảnh lặng lẽ, trang nghiêm đó bà thái hậu trẻ thường tha thẩn đi chơi một mình, nét mặt trầm ngâm, tư lự. Chỉ những người nào mạnh khỏe, cường tráng mới có thể thấu hiểu những trận bão lòng của bà trong một nếp sống bà đã tự vạch ra.
Ngày nào bà cũng dậy rất sớm, trời chưa tỏ sáng. Bà ra gian phòng thiết triều. Với chính sách ôn hòa, lễ độ, bà không ngự triều một mình, bà cho mời bà Đông cung đến cùng chủ tọa. Bà tuyên bố, ngai rồng tạm dể không cho đến khi ấu đế thành niên. Bà khướt từ không ngồi trên ngai, xung quanh có các thể nữ, thái giám đứng thị hầu. Hai bà nghe những sớ, điệp của các thân vương và các quan quì trước bệ rồng đọc lên. Cung thân vương đứng bên tay mặt của chiếc ngai bỏ trống.
Một hôm mùa đông, lưỡng cung cho vào bệ kiến hai thần dân đến khẩn cầu triều đình cho quân tiễu trừ tên phản loạn Hùng ở tỉnh Nam Kinh, một tỉnh ở miền Nam. Đó là hai viên tuần phủ của hai tỉnh miền Nam bị quân giặc đánh đuổi, hai vị quan này đến xin tạ tội vì để hai tỉnh thất thủ.
Bà hoàng thái hậu nghe lời tâu, bừng bừng nổi cơn lôi đình, có lẽ nào để cho một tên giặc tung hoành phá hoại cả một quốc gia trong khi con bà còn ấu trĩ vị thành niên. Bất cứ giá nào cũng phải tổ chức lại quân đội hoàng gia và phong nhiều người lên cấp tướng, cầm quân đánh giặc. Trong những địa hạt khác nhau, bà không thể nào dung tha được, không thể để chúng hoành hành, đe dọa, chiếm đoạt toàn quốc. Nếu để lâu, chúng thêm vây cánh, việc tiểu trừ sẽ trở nên khó khăn.
Cũng ngày hôm đó, theo thường lệ, Cung thân vương đến xin tư yết (audience privée). Thân vương thấy nét mặt bà thay đổi khác, lạnh lùng, kiêu căng, cương quyết. Đó là một sắc thái đa diện của bà. Thường nhật bà rất nhã nhặn, ôn hòa, gần xa ai cũng biết, nên dân chúng đã đặt cho bà mỹ danh là một hiền mẫu, là Quan Âm năng cứu khổ, cứu nạn. Nhưng bà cũng có một sắc thái tương phản, rất độc ác, tàn bạo. Hôm đó, Cung thân vương thấy bà không phải tứơng mạo của vị Phật Quan Âm, thái độ của một hiền mẫu, nhân từ, khoan dung, đại độ. Bà uy nghi, hùng dũng, phẫn nộ vì sự yếu hèn nhu nhược của đình thần. Bà hỏi:
- Viên tướng chỉ huy đạo quân hoàng triều hiện nay ở đâu? Tên Trương Quế Phân đâu? Làm sao hắn dám tự tiện để cả một đạo quân bao nhiêu người ngồi chơi không trong khi quân giặc chiếm hết tỉnh này đến tỉnh khác ở miền Nam. Nếu như thế này mãi, một ngày kia giặc chiếm hết nước, quân đội còn để dùng làm gì?
Cung thân vương tâu:
- Tâu thái hậu, quân đội ta không thể ứng phó khắp các mặt trận cùng một lúc.
- Dù sao cũng phải ứng phó. Bổn phận làm tuớng phải thế, phải biết tiên liệu những gì có thể xảy đến, chỗ nào quân giặc tấn công, nơi nào quân giặc định tấn công, phải đem quân tấn công trước để tiêu diệt chúng.
- Tâu thái hậu, hạ thần mạn phép đệ lên thái hậu một giải pháp. Chúng ta đang đình chiến với quân hồng mao, bọn này yêu cầu chấp nhận một vị tướng của họ để tổ chức cuộc tiểu trừ quân thảo khấu. Trước kia quân bạch chủng tán trợ tên giặc Hùng, vì hắn nói có đạo Thiên Chúa; bây giờ họ đã biết tên Hùng là một thằng điên khùng. Như thế là một thắng lợi lớn cho triều đình.
Bà thái hậu ngồi trên ngai, suy nghĩ. Những ngón tay búp măng của bà đặt trên hai tay ngai, như những chuỗi kim cương, gõ lắc cắt trên gỗ. Các đầu ngón tay bà có đeo tháp bằng vàng. Bà hỏi:
- Trương Quế Phân có biết đề nghị của quân hồng mao không?
- Tâu thái hậu, hắn có biết nhưng hắn không chịu nghe theo. Hạ thần biết vị tướng đó có tính câu nệ, hắn nói chẳng thà cả nước bị giặc tàn phá còn hơn đi đầu cạnh ngoại nhân đến cứu mình.
Hoàng thái hậu nghe mấy lời đó, đột nhiên sinh lòng thiện cảm với tướng Trương Quế Phân. Bà hỏi:
- Vì lẽ gì hắn không muốn?
- Tâu thái hậu theo ý hắn, ngoại nhân đề nghị giúp mình chẳng qua vụ lợi. Họ sẽ yêu sách một cái gì tương xứng với sự giúp đỡ của họ.
Mấy ngón tay đeo đầy nhẫn của bà nắm chặt hai tay ngai. Bà nói lớn:
- Hắn nhận xét rất đúng, rất đúng. Họ sẽ đòi chiếm đoạt những vùng họ giải tỏa. Bây giờ ta mới biết tên Trương Quế Phân biết trông xa. Việc này tối quan trọng, ta muốn dềnh dàng, phải tranh thủ thời gian, phải lập tức tấn công quân giặc, phải giải tỏa Nam Kinh. Nếu giết được tên Hùng, hàng ngũ của chúng sẽ bị tán loạn ngay.
Cung thân vương lạnh lùng trả lời:
- Tâu thái hậu, hạ thần xin mạn phép trình bày một yếu điểm. Hạ thần ngờ những lời khuyến dụ và chiến lược của thái hậu cho tên tướng Trương Quế Phân có được vững vàng, theo đúng binh pháp không?
Bà thái hậu nguýt dài, mắt nhìn sang một bên:
- Ta không hỏi ý kiến thân vương.
Giọng bà nói nhỏ nhẹ, mềm mại, song thân vương thấy mặt bà tái đi, người run lên, cơn phẫn nộ lên đến cực điểm.
Mấy lời tường trình đó đã chạm mạnh vào lòng tự ái của bà. Thân vương nghiêng đầu, cố nén lòng căm phẫn rút lui ngay lập tức. Khi ông hoàng này đi khỏi, bà xuống ngai ra ngồi ở án thư, thảo tờ sắc lệnh cho tên tướng Trương Quế Phân.
- Sắc lệnh:
(Sau mấy lời chào hỏi, xã giaọ..)
"Mặc dù, hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, tướng công đã đến lúc phải nỗ lực, tận dụng tất cả khả năng, uy lực sẵn có với sự tán trợ của quý bào đệ Trương Quốc Chuân, triệu thỉnh y ở Quảng Tây về, đem đại quân tiến về An Huy. Bước đầu tiên khởi để vây hãm Nam Kinh. Quân giặc chiếm cứ Nam Kinh đã chín năm nay, quân đội ta phải lo thu hồi phần lãnh thổ đó, tiêu diệt quân thảo khấu.
Để phụ giúp tướng công trong công việc bình định, phải cấp tốc triệu thỉnh viên tướng Lý Thường Giám chuyên về vấn đề đánh du kích. Hắn là vị tướng gan dạ và tận trung với ngai vàng. Hẳn tướng công cũng chưa quên viên tướng đó đã đánh bại quân giặc ở Tương, Hoài. Tướng công nên kết nạp hắn dưới trướng, đem quân vây hãm Nam Kinh, mỗi ngày nên thắt chặt vòng vây. Nếu quân giặc tấn công Quảng Tây, tướng công phái Lý Thường Giám đem quân tiễu trừ, tướng công có hai nhiệm vụ, giết bằng được tên tướng giặc Hùng, đập tan tất cả những cuộc nổi dậym nếu có. Tướng công không phải tâu trình những sự khó khăn, phải kiên trì để vượt mọi khó khăn nguy hiểm. Tướng công phải nổ lực hy sinh, đoạt công đầu chiếm Nam Kinh, triệt hạ được tên giặc Hùng. Một phần thưởng đích đáng sẽ giành cho tướng công".
Đó là đại cương lời lẽ hoàng thái hậu viết trong sắc lệnh. Bà đọc lại, đóng ngọc tỷ vào bản văn, giao cho tên thái giám đem đến cho Cung thân vương để sao lại, cất giữ trong văn khố quốc gia. Bản chánh gửi theo bưu trạm tống đạt cho tướng Trương Quế Phân.
Viên thái giám trở về nạp bà bản phái lai (chứng tỏ cung thân vương đã nhận được bản sắc lệnh, theo đúng chỉ thị thi hành). Nhìn bản phái lai, bà mỉm cười, đắc ý, hai mắt sáng ngời dưới hàng lông mi đen. Bà hỏi:
- Hắn có nói gì không?
- Tâu thái hậu, thân vương đọc hết bản sắc lệnh, ông có nói: "Một người đàn bà có chí khí như một bậc đại đế".
Bà mỉm cười, lấy ống tay áo che khuất. Bà hỏi:
- Thật thế à?...Hắn nói thế à?...
Tên tổng quản thái giám biết tính bà thích những lời khen ngợi, ca tụng, hắn bịa thêm cho câu chuyện thêm đậm đà:
- Muôn tâu thái hậu, chúng hạ thần vẫn thường nói với nhau, cùng một ý nghĩ với thân vương.
Hắn nói xong cáo lui đi ra, bà thái hậu chưa kịp có một lời nào phê bình hay khiển trách.
Bà ngồi một mình, vẻ mặt tự đắc, mồm chúm chím cười. Bà nghĩ sau này, khi con bà đăng quang, tức vị, không biết nên lựa chọn, đặt niên hiệu thế nào cho hay và thích hợp. Trước kia ba người mưu phản bàn nhau đặt vương hiệu là Chí Hưng, bà không ưng, hai tiếng đó nghe không được, rỗng tuếch, không có ý nghĩa gì hàm súc.
Theo ý bà, vương hiệu phải bao quát được ý nghĩa một nền thanh bình vĩnh cửu, bảo trì toàn vẹn lãnh thổ, dân được an cư, lạc nghiệp, nhà vua có đức lớn, độ lượng khoan hòa, thương dân như con đỏ (như bảo xích tử) thái bình, độ lượng, khoan hồng, bà muốn tìm những chữ nào lột được ý nghĩa đó, rõ ràng, minh bạch. Bà đã học được cách tìm vần, tìm chữ ở các ông thầy dạy bà về làm văn bài, thi phú. Bà suy nghĩ một lúc rồi quyết định dùng ngay tên con: Đồng có nghĩa là khắp tất cả và Trị có nghĩa là thái bình, thịnh trị. Kể sự lựa chọn đó cũng hơi táo bạo, đang lúc nhiễu nhương, giặc giã nổi lên như ong. Tuy vậy bà đã nhất quyết ổn định tình thế, đối với bà muốn là phải được. Để đạt được ý nguyện đó, bà nỗ lực làm việc.
Bà đã gây được tín nhiệm trong dân chúng. Mọi công việc trong nước, việc lớn, việc nhỏ, một mình bà đảm nhiệm, quyết nghị. Hàng ngày công văn xếp hàng đống trên án thư trong gian phòng thiết triều. Bà xem xét, giải quyết những chuyện lặt vặt như thuyên chuyển một viên chánh án ở một vùng nào, vì dân vùng đó ta thán viên quan đó nhũng lạm, hay một tỉnh nào vô cớ tăng giá gạo, hay thảo sắc lệnh cho tổ chức làm lễ cầu đảo ở vùng nào bị tiêu khô, hạn hán. Tuy những việc rất tầm thường bà cũng tự tay giải quyết cũng như những việc tối quan trọng, ở vùng duyên hải, hạm đội, chiến thuyền ngoại quốc đe dọa, hay lập quy chế về việc buôn bán nha phiến, do ngoại dân cầm đầu bảo trợ.
Mặc dù công việc trong nước bề bộn, nội trị, ngoại giao, bà cũng không sao lãng công việc trong nội đình. Bà để tâm ý săn sóc con, ngày nào cũng giữ con ở bên cạnh một khoảng thời gian rất lâu, mặc cho con tung tăng chạy chơi từ phòng thiết triều đến thư viện riêng, trong khi bà cặm cụi làm việc. Thỉnh thoảng bà ngừng lại ngắm con, sờ trán, hai bàn tay con, nhìn hai con mắt con, lòng đen, lòng trắng phân minh, sáng ngời. Bà để ý cả hàm răng con, xem lưỡi con, xem hơi thở con.
Vừa trông con lại vừa giải quyết mọi việc trong nước, bà cũng không sao nhãng những chi tiết lặt vặt trong nội đình. Bà xem xét những hóa đơn, bản kê khai những thực phẩm mua hay nhận được do công tiến, số tồn trữ lụa, vóc, không một tấm nào được xuất kho nếu không có phiếu do tự tay bà ký tên. Bà biết, nếu để quân gian phi xuất phát từ trong nội điện, một ngày kia sẽ lan tràn khắp trong nước. Bà rất uy nghi, đĩnh đạc, từ đầy tớ cho đến quan nhất phẩm triều đình ai cũng cảm nhận làn nhỡn tuyến lạnh nhạt và rất sắc sảo đanh thép của một nữ đế.
Tuy vậy, bà thưởng phạt rất công minh. Đối với những tên thái giám hay tữ tỳ trung thành, chăm chỉ, bà thưởng cho rất nhiều tiền và quần áo.
Còn những món quà thưởng tuy không bằng tiền bạc nhưng rất có giá trị. Trong những bữa cơm hằng ngày, phần nhiều thường những món sơn hào, hải vị, khi bà dùng rồi, bà gọi bọn thể nữ lại ban phát những món ăn còn lại. Bà tỏ tình ưu ái đối với thuộc hạ, mặc nhiên gây cảm tình sâu đậm đối với gia nhân, đầy tớ. Họ hết lòng phục vụ, trung thành với bà, người nào cũng muốn được bà để ý, trìu mến.
Bà cũng nghĩ đến hai món phần thưởng đích đáng giành cho Nhung Lữ (tước Vinh Lộc) và Cung thân vương. Bà chưa biết ban ân điển cho ai trước, việc này bà để sau sẽ quyết định.
Nhung Lữ có công cứu giá, phần thưởng phải thật đích đáng. Cung thân vương có công bảo vệ được kinh thành, không phải bằng binh lực nhưng nhờ tài khôn khéo thương lượng với quân thù, vẫn hay triều đình thiệt hại rất nặng nề. Bản thỏa ước đã cưỡng chế áp đặt rất nặng, bà cũng không quên ngay trong vòng tường thành ở kinh đô có bọn người da trắng đến sinh sống, đem theo cả bầu đoàn thê tử, gia nhân, đầy tớ. Tuy vậy chưa thấy có triệu chứng quân bạch chủng không thi hành lời đe dọa của họ phá hủy, san bằng kinh thành. Bà cố quên cung điện Viên Minh, những hoa viên tráng lệ, những hồ nước, giả sơn, những ngôi chùa xinh xinh như treo trên sườn đồi, những kho tàng có biết bao nhiêu của lạ vật quý tàng trữ qua nhiều thế hệ, gom góp trên bốn biển, năm châu, những thư viện phong phú kinh sách kim cổ, những đồ mỹ nghệ, những đồ đạc cực kỳ quý giá. Nghĩ đến cung viện Viên Minh bà liên tưởng căm giận Cung thân vương sao không kịp thời ngăn chặn bàn tay phá hoại của quân dã man để chúng tung hoành tàn phá. Sự tiêu hủy này không phải thiệt hại riêng cho bà, cho quốc gia, đó còn là một thiệt hại chung cho cả nhân loại. Bà quyết định phải tưởng thưởng xứng đáng công huân Nhung Lữ, ngoài việc cứu giá, hắn còn ngăn chặn được bàn tay ngoại xâm phá hoại.
Mặc dù trong thâm tâm bà rất căm thù Cung thân vương, song bà rất mực khôn ngoan không để phát lộ ra sắc diện. Bà sẽ cho triệu thỉnh thân vương vờ để vấn kế. Bà chờ, hôm nào thuận tiện sẽ cho triệu thỉnh. Hôm bàa cho mời thân vương đến là một ngày sau trận mưa tuyết lớn.
Sau bao tháng hạn hán, không có một giọt nước mưa, việc canh tác phải đình chỉ, ruộng đất nứt nẻ, dân gian đói khổ, ngày đêm làm lễ kỳ đảo. Những lời cầu nguyện như đã thấu đến thiên đình, nên đã giáng xuống những trận mưa tuyết lớn, tuyết tràn ngập ruộng vườn, phố phường. Những thửa đất khô khan, rắn như đá, nhờ có mưa, lúa đã nảy mầm. Vài hôm sau, lúa đã xanh mượt đầy đồng. Ở trong hoàng thành người ta xì xầm với nhau bà thái hậu đã bắt các vị thần phải chấp nhận lời cầu nguyện của dân gian.
Một ngày cuối đông sắp sang xuân, tiết trời mát mẻ, thái hậu cho triệu thỉnh Cung thân vương đến tư cung. Thân vương mặc chiếc áo trào màu lam sẫm, cũng như tất cả đình thần, thân vương phải tang chế trong ba năm. Thân vương điệu bộ có vẻ nghênh ngang, bệ vệ, làm bà phát ghét, nhất là cái lối chào hỏi không theo nghi lễ có vẻ suồng sã. Nhưng cần có sự hợp tác của hắn, bà cố nhịn, không hé một lời nào trách móc, than phiền. Bà nói giọng êm ngọt như mật:
- Thân vương cứ tự nhiên, đối với chúng ta không cần phải lễ nghi, kiểu cách. Thân vương là bào đệ của cố hoàng thượng. Trước khi về chầu thiên đế, hoàng thượng có di ngôn lại cần có sự hợp tác của thân vương.
Được mấy lời khích lệ, thân vương đến ngồi ở bên tay mặt ngai. Bà nhận thấy ông này dễ bị phỉnh gạt, xiêu lòng. Bà vào đề:
- Tôi có ý định tưởng thưởng viên quản ngự lâm quân. Tôi chịu ơn cứu giá của viên quản đó, trong khi họa phản loạn mưu định hãm hại. Viên quản đó tận trung báo quốc, việc đó đáng nên tưởng lệ. Trong lúc phong ba, bão táp, lòng trung kiên của hắn không hề bị lay chuyển. Tuy thân mạng tôi cũng không có gì là quan hệ song nếu giá thử tôi chết, quân phản loạn sẽ soán nghịch ngôi báu, thế tử bị hãm hại. Tôi tưởng thưởng cho viên quản đó không phải vì tôi mà cho con tôi hoàng đế, cho tất cả toàn dân, vì nếu mưu đồ của bọn loạn thần thành công, triều đại này phải cáo chung.
Cung thần vương không nhìn bà, ông rất thính tai, trí óc sáng suốt, suy đoán rất nhanh, ông hiểu ngay ẩn ý trong lời bà trần thuyết đó.
- Tâu thái hậu, thái hậu định ân hưởng gì?
Từ Hy biết chọn đúng lúc để nói lên ý định của bà có đã lâu; Bà nói thẳng không cần phải quanh co, rào trước đón sau.
- Từ khi Tải Thản chết, chức vụ quân cơ mật viện vẫn khuyết tịch, ý tôi muốn bổ nhiệm Nhung Lữ vào chức vụ đó.
Bà nói xong, ngẩng cao đầu, nhìn thẳng vào mặt thân vương để xem sắc diện có phản ứng không? Thân vương vẻ mặt vẫn thản nhiên.
- Không thể được.
- Sao lại không thể được? Ý ta muốn là phải được.
Thân vương và thái hậu cả hai đều có nét mặt lạnh lùng. Đột nhiên thân vương vẻ mặt trở nên cương quyết, ông nói:
- Tâu thái hậu, hiện nay ở trong này có nhiều lời xầm xì, đồn đãi rất bất lợi cho thái hậu. Tôi hết sức đả phá để bảo toàn danh dự cho ngôi báu và tộc đảng. Tôi không sao bịt được mồm thiên hạ.
Từ Hy tảng lờ làm ra vẻ ngây thơ, hỏi lại:
- Người ta đồn gì?
Bà còn trẻ quá, rất có thể chuyện này có thật, nhưng bà làm ra vẻ ngây thơ, vờ như không hiểu, không biết. Thân vương còn ngờ ngợ, ông đã quyết định không nên bới ra. Ông ngập ngừng một lúc lâu, rồi nói:
- Nhiều khi người ta hỏi tôi, ấu vương có phải là chính thống không?
Bà Từ Hy quay mặt nhìn đi chỗ khác, hai mắt chớp chớp, lấy chiếc khăn tay lụa để lên mồm, che hai môi run run. Bà nói như rên rên:
- Mấy người đối nghịch với tôi đã chết, tôi tưởng thế là xong, chuyện đã êm, sao lại còn nảy ra lắm chuyện nữa?
- Tôi mạn phép nói ra vì uy quyền, vì thanh danh của thái hậu. Tôi không có ẩn ý gì khác, tôi không thuộc về địch thù của thái hậu.
Đột nhiên bà nổi cơn lôi đình.
- Đáng lý thân vương phải giết ngay những đứa nào cả gan lăng mạ đến tôi. Bọn đó phải triệt hạ ngay không một chút do dự. Nếu thân vương không dám, thân vương báo cho tôi biết, tôi sẽ xử trị lấy.
Có thật bà bị hàm oan không? Chuyện này không bao giờ ông rõ hư thực. Thân vương không nói gì, ngồi im.
Bà đang ngồi, đứng nhỏm dậy nói:
- Tôi không cần thảo luận với thân vương. Ngay ngày hôm nay, tôi sắc phong Nhung Lữ xung vào chức vị quân cơ mật viện đại thần. Nếu tôi nghe thấy ai dám vu cáo, tôi sẽ...
- Tâu thái hậu, thái hậu sẽ xử trị ra sao, nếu tất cả đình thần, mọi người cùng xì xào một luận điệu đó?
Bà cúi đầu sát mặt thân vương, bất chấp mọi lễ nghi.
- Tôi sẽ bắt chúng phải câm họng, tôi ra lệnh cho thân vương phải im, cấm không được nói.
Lần này là lần thứ nhất suốt trong bao nhiêu năm, một sự xích mích bộc lộ công khai giữa hai người. Tuy nhiên, muốn giữ tình thân thiện không bị đổ vỡ, cung thân vương hịu khuất phục, ông nói:
- Tâu thái hậu, nếu có điều gì xúc phạm đến tôn uy, xin thái hậu tha thứ.
Ông nói xong, đứng dậy, khấu đầu để cáo lui.
Với giọng mềm mỏng để vỗ về, bà nói:
- Tôi không hiểu sao tôi lại nói với tôn thân vương như thế, tôi đã chịu ơn thân vương rất nhiều. Đáng lẽ tôi phải xin lỗi thân vương.
Bà giơ cao một bàn tay, ngăn không để cho thân vương phân trần, bà nói tiếp:
- Thân vương hãy thong thả, đừng đi vội. Tôi có ý định muốn giành cho thân vương một ân điểm đặc biệt nhất. Thân vương sẽ được vinh thăng: Tối cao ngự tiền cố vấn đại thần, với một nguyệt bổng tương xứng với chức vụ. Theo điều khoản trong sắc chỉ của tôi đúng ra của chúng tôi, với sự đồng ý của bà đồng nhiếp chính với tôi, tước quận công cố hoàng thượng ân thưởng cho thân vương sẽ trở thành thế tật.
Thân vương hết đổi ngạc nhiên được đặc thù, vinh thăng một tước hiệu cao tuyệt đỉnh. Ông khấu đầu một lần nữa để cảm tạ hoàng ân, cung kính trình bày:
- Muôn tâu thái hậu, hạ thần không dám xin một ân thưởng nào để làm tròn sứ mạng được giao phó. Hạ thần đã hết lòng phục vụ huynh trưởng va cũng là cố hoàng thượng. Ngày nay hạ thần cũng lại phục vụ thế tử cũng là đương kim ấu chúa và phục vụ lưỡng cung cũng là nhiếp chính vương. Thái hậu xem như vậy hạ thần có bao nhiêu trọng trách, hạ thần không cần phải được ân thưởng mới làm tròn nhiệm vụ.
- Thân vương phải chấp nhận lời đề nghị của tôi.
Một cuộc đấu khẩu, giằng co, rất nhã nhặn, lịch sự giữa hai bên, một bên đề nghị ân thưởng, một bên khước từ, rồi rốt cuộc đi đến một sự thỏa thuận, cung thân vương chấp nhận.
Thân vương nói:
- Xin thái hậu cho phép hạ thần được khước từ chức tước về hai chữ thế tập. Theo tục lệ trong họ hạ thần, không muốn con cái sau này được hưởng thụ chức viï của ông cha. Về quyền vị, chức tước, con cháu hạ thần phải tự tạo lấy không thể ỷ lại vào ông cha chúng.
Bà thái hậu nghe nói cũng thấy hợp lý.
- Được rồi, vấn đề đó để lại sau này sẽ quyết định, bây giờ tôi muốn tôn thân vương chấp nhận cho tôi một đặc ân.
- Xin phụng chỉ.
- Tôi muốn tôn thân vương cho phép tôi kết nạp lệnh nữ Nhung Chuân làm nghĩa nữ và lập làm công chúa hoàng gia. Được như thế tôi rất mãn nguyện và yên chí công huân của thân vương trong việc diệt trừ phản loạn đã được đền đáp phần nào.
Cung thân vương chấp thuận, con gái ông được tuyển trạch vào cung, lập làm công chúa. Cô này khéo chiều chuộng, phục vụ bà thái hậu, tỏ ra rất mực trung thành. Bà cho phép cô được dùng rèm bằng vóc vàng ở cửa xe song loan, một quyền riêng cho các công chúa cùng huyết thống.
Kế hoạch bà khởi thảo dần dần được thực hiện. Bà làm rất thận trọng, đắn đo, suy nghĩ, không hấp tấp, vội vàng. Trong các dự án của bà, có khi xen kẽ một hạt giống rất nhỏ, một sở vọng, bà để cái hạt giống đó nằm yên trong một năm, hai năm, hay có khi cả mười năm, cái hạt giống đó trồi mầm, nảy rễ.
Mùa hạ đến. Gió đông nam thổi tới, đem theo sương mù, mưa bụi và mùi mặn mặn ở ngoài biển đưa vào. Bà hoàng thái hậu thích nước, bà vẫn thường thưởng ngoạn các hồ nước, song ngòi, ao lạch, bà chưa có dịp nhìn thấy biển cả. Về hè thời tiết mỗi ngày một nóng, sau những bức tường thành, không khí có vẽ nặng nề, ngột ngạt, bà nghĩ càng thấy tiếc cung Viên Minh ở Nguyên Minh Nguyên. Hiện nay ở đó chỉ còn lại hoang tàn, đổ nát. Vấn đề tái tạo, bà chưa có thể giải quyết được. Nhưng còn lại một cung nhỏ hơn gần biển gọi là Dương Hải cung. Sao bà không cho sửa sang lại làm một nơi để nghỉ mát vào mùa nóng?
Bà ra chỉ thị cho sửa sang gấp rút.
Bà quyết định đi thừa lương ở Dương Hải cung với các thể nữ, thái giám.
Tuy đường rất ngắn, chưa đầy một cây số ngàn, nhưng sự di chuyển rất ồn ào, rộn rịp, song loan, võng, lọng, cờ xí, một đội lính kỵ mã đi dàn hầu, ngự lâm quân đi trước mở đường đề phòng mọi sự bất trắc. Bà thái hậu biết ở Dương Hải cung có ba tòa lâu đài rất đẹp. Đã có một mùa xuân, bà đến đó dự lễ cúng vị tổ nghề trồng dâu chăn tằm. Bà ngự thuyền rồng, ngao du trên biển hồ, nơi đó được mệnh danh là Tam Hải, bà thưởng ngoạn bọn thái giám và nhân viên ở các phủ bộ trượt tuyết trên lớp tuyết dày ở mặt hồ, nơi đó gọi là Bắc Hải. Biển hồ có đã lâu, do một vị hoàng đế nhà Nguyên ở triều đại trước sáng lập. Ông vua thủy tổ, triều đại nhà Minh là người Hán đã cho tu bổ, sửa sang cung điện thật nguy nga tráng lệ, bắc những chiếc cầu nhỏ đến các cù lao nhỏ giữa hồ, dựng lên những viên đình, chạm trổ, sơn, vẽ rất cầu kỳ. Có những tảng đá lớn, hình thể rất đẹp từ các tỉnh miền Nam và Tây Bắc đem đến để trang trí các hoa viên. Người ta cũng thấy những cây cổ thụ được chăm nom, săn sóc rất kính cẩn như người, những cây đó được phong tước hầu, tước bá. Ở điện Quang Minh có những pho tượng Phật lớn, người ta gọi là Ngọc Phật; tuy pho tượng không bằng ngọc song trạm trổ rất công phu một tảng đá trong suốt ở Tây Tạng. Tiên đế Càn Long rất thích Dương Hải cung nên ông đã đặt tên rất hoa mỹ cho các cung điện ở đó như Thủy Hoa Tinh cung, Phong Lan điện, Tuyết cung...
Dương Hải cung có nhiều chuyện rất thần kỳ, bà thái hậu biết qua các sách bà đọc. Bà thích nhất Mạc Tưởng cung. Theo truyền thuyết, vua Càn Long cho xây dựng cung này cho Hương ái phi. Nàng, nguyên là vợ của hoàng tử Kashgaria ở Thổ Nhĩ Kỳ, vua Càn Long say mê sắc đẹp nàng, muốn đoạt đem về cung. Vua Càn Long phái một đạo quân đánh hoàng tử Kashgaria, ông này bại trận, tự sát. Vua Tàu đắc thắng, bắt nàng công chúa ông hằng mong ước, như chiến lợi phẩm. Nàng công chúa một dạ trung thành với chồng, nhất định không chịu phục vụ ông vua. Mất bao nhiêu công trình, huyết hãn, tốn công, tốn của, ông vua mới chiếm được nàng. Tuy đã có được nàng trong tay, ông vẫn chưa thõa mãn được lòng dục vọng, ông cố chiều chuộng dỗ dành, cho xây cất một cung điện tuyệt đẹp, nàng ra đó nhìn về cố quốc nay xa xăm. Bà hoàng thái hậu hết lời khuyên can vua không nên theo đuổi nàng ta nữa.
Một hôm mùa đông, khi ông vua đang bận cúng lễ, bà hoàng thái hậu cho triệu nàng công chúa Hương đến, bà cho nàng tự chọn một trong hai đường: Một là theo ý vua, hai là chết. Nàng công chúa bằng lòng chết để trọn nghĩa với người chồng trước. Bà hoàng thái hậu cho người đưa nàng đến một gian phòng xa, nàng lấy dây lụa, thắt cổ tự tử, chết. Người thái giám thân tín đến cấp báo cho vua biết, ông vua đang làm lễ, vội vàng chạy đến, nhưng hỡi ơi, nàng đã ra người thiên cổ.
Bà Từ Hy ở một lâu đài lớn nhất, gần biển, đó là Từ Hòa cung. Bà thích hoa viên có núi non bộ, những hồ nước, những dải đất trồng hoa. Không như ở Viên Minh bà cùng các thể nữ ăn mặc hóa trang các tiên nga, nhởn nhơ đi chơi ở hoa viên. Từ ngày đức vua băng hà, ở đây bà cho diễn những vở tuồng có nội dung triết lý nhân sinh.
Trong khung cảnh sơn dã, cỏ cây đó, khi bà thấy những mưu định thầm kín của bà đã chín mùi, cần đem ra thực hiện bà cho gọi Nhung Lữ đến. Không bao giờ cùng một việc bà cho thi hành một lúc hai quyết nghị để không ai có thể đoán những mưu đồ thầm kín của bà. Vì thế bà để bẳng cách hai tháng từ ngày gặp con gái Cung thân vương làm nghĩa nữ. Người ta có thể ngờ bà cho gọi Nhung Lữ đến để thõa mãn một dục vọng thầm kín, nhưng bà quá khôn ngoan, dù có muốn cũng không bao giờ làm như vậy.
Bà xem các kép hát đóng trò toàn là thái giám. Không có một đào hát nào vì cố thái hậu đứt tiên đế Càn Long là một đào hát. Để tỏ lòng cung kính, người ta cấm đàn bà không được làm nghề đào hát. Hôm đó người ta diễn vở tuồng "Đứa trẻ mồ côi, dòng họ Thiệu". Sự tích này bà biết rõ lắm.
Để khỏi mếch lòng bọn kép hát, bà vừa ăn kẹo vừa làm ra vẻ chăm chú coi hát, nhưng sự thật trong óc bà đang theo đuổi những ý nghĩ thầm kín. Làm sao bà không cho gọi Nhung Lữ đến ngay đây trước mặt tất cả mọi người cho hắn biết quyết nghị của bà? Nhưng trước khi công khai phong cho hắn chức Quân cơ mật vụ đại thần, phải biết trước hắn có nhận không? Bà ra hiệu bảo tên thái giám Lý Liên Anh đến gần.
- Ra truyền cho người anh họ ta vào trình diện.
Tên thái giám khấu đầu, lùi ra, mỉm cười, vừa đi vừa bẻ khục tay. Bà làm ra vẻ mê coi hát. Các thể nữ vây quanh bà, tuy đứng coi hát nhưng mắt lúc nào cũng phải để ý đến bà, xem bà có sai bảo gì không? Vì thế người thể nữ Mai thấy bà nhìn mình, liền vội vàng chạy đến, cúi đầu trước mặt bà, Bà truyền:
- Đứng sát gần ta.
Bà thái hậu ghé mồm sát vào tai người thiếu nữ nói rất nhỏ không ai có thể nghe thấy, trong khi các kép đang hát trên sân khấu.
- Ta không quên những lời ta đã hứa với con, hôm nay ta cho thực hiện lời hứa đó.
Mai nghe bà nói, cúi gầm mặt để che giấu khuôn mặt ửng đỏ.
Bà mỉm cười nói:
- Con cũng nhớ được lâu nhỉ?
- Làm sao con có thể quên lời thái hậu đã hứa với con.
- Ta cho thực hiện lời ta đã hứa.
Trong ánh nắng chan hòa, hình bóng một con người cao lớn, đầu ngửng cao, dáng điệu hiên ngang, tiến lại khán đài phía giữa dành riêng cho hoàng gia. Nhung Lữ mặc bộ nhung phục tang chế màu lam sẫm, chiếc kiếm treo bao bằng bạc sáng loáng đeo ở dây lưng lủng lẳng bên hông. Bước chân mạnh bạo, vững vàng, hắn đến dưới chiếc bàn, ngừng lại, khấn đầu. Bà thái hậu nghiêng đầu khẽ đáp lễ, ra hiệu bảo hắn ngồi bên ngai. Nhung Lữ do dự rồi ngồi xuống.
Bà làm như không để ý đến hắn một lúc lâu, anh kép nhất tiền ra sân khấu, hát một bài, hai mắt bà chăm chú nhìn lên sân khấu. Đột nhiên không quay đầu lại bà nói:
- Ta có ý định đã lâu việc tưởng thưởng anh sao cho tương xứng với công lao anh cứu giá ấu chúa và ta.
- Tâu thái hậu, hạ thần chỉ mong làm tròn bổn phận một thần dân.
- Vẫn hay vậy, nhưng anh đã có công lớn cứu tử.
Nhung Lữ lại nhắc lại:
- Đó là bổn phận của hạ thần.
- Có lẽ anh tưởng tôi đã quên, không có gì ta quên hết. Dù anh muốn hay không ta cũng tưởng thưởng, ý tôi muốn anh phải chấp nhận. Anh được bổ sung vào chức vụ của anh loạn thần Tải Thản vẫn để khuyết tịch.
Nhung Lữ nghe nói có vẻ nóng nảy, bực bội:
- Tâu thái hậụ..
Vừa mới nói, bà thái hậu giơ tay cản lại, không cho nói.
- Anh phải chấp nhận. Ta cần đến sự hiện diện thường trực của anh. Bây giờ tôi biết tin cậy vào ai? Vẫn hay Cung thân vương hết dạ trung thành. Tôi chắc anh cùng một quan niệm đó. Tôi cũng tin cẩn hắn song không có tình.
Nhung lữ khẽ lẫm bẫm, nói:
- Xin thái hậu đừng nói thế.
Trên sân khấu, tiếng hát, trống, phách ầm ầm, bọn thể nữ la hét, họ liệng lên sân khấu hoa và kẹo thưởng cho bọn kép hát.
- Lúc nào tôi cũng mến anh.
Nhung Lữ ngồi yên không ngoảnh cổ lại.
- Tôi biết anh cũng thương mến tôi.
Nhung Lữ vẫn ngồi yên không nói gì.
Bà không nhìn lên sân khấu, quay lại nhìn thẳng vào mặt Nhung Lữ, bà hỏi:
- Có phải thế không anh?
Nhung Lữ hai mắt nhìn lên sân khấu, khẽ nói:
- Tôi không muốn vì tôi mà cơ nghiệp sụp đổ; bây giờ bà đã lên tột đỉnh danh vọng.
Anh làm cố vấn, tôi có thể bất cứ lúc nào cho mời anh đến, anh sẽ cùng tôi gánh vác, lo toan công việc trong nước. Bao giờ cũng vậy, nhiếp chính vương cần có sự hợp tác của các thân vương, các vị cố vấn và các quan trong triều.
- Nếu cho gọi tôi mà không có sự hiện diện của các vị cố vấn khác tôi không tuân theo.
- Anh sẽ phải tuân lệnh.
- Nếu như vậy sẽ thương tổn đến thanh danh của bà.
- Ta có cách bảo vệ thanh danh, ta sẽ chọn một người để cưới cho anh làm vợ. Nếu anh có một người vợ trẻ đẹp sẽ bịt mồm tất cả mọi người.
Nhung Lữ hai hàm răng rít lại, nói như người huýt sáo:
- Tôi không lấy vợ.
Trên sân khấu một danh ca chạy ra chào khán giả rồi ngồi xuống ghế. Người ta đem lại cho người ca sĩ một chén trà và một chiếc khăn. Người này bỏ chiếc mũ nặng trịch trên đầu, lấy chiếc khăn lụa úp lên mặt. Trong rạp tuồng nhỏ ở hoàng cung, bọn thái giám thỉnh thoảng bưng lại cho khán giả những chiếc khăn nhúng vào nước nóng có tẩm nước hoa, vắt kiệt. Lý Liên Anh bưng lại bà hoàng thái hậu trên một chiếc khay bằng vàng một chiếc khăn nhúng nước nóng, thơm ngào ngạt. Bà sẽ đặt lên hai bên thái dương, lau hai bàn tay. Khi người thái giám đi khỏi, bà lại tiếp tục nói rất khẽ:
- Ta hạ lệnh cho anh phải lấy thiếu nữ Mai. Anh không có điều gì phải thắc mắc. Một người con gái rất hiền, nhu mì, nết na, người đó lại yêu anh.
- Lệnh bà có thể nào bắt trái tim tôi, tâm hồn tôi tuân theo ý của lệnh bà?
Bà thái hậu nét mặt giận dữ:
- Tôi không bắt anh phải yêu nó.
- Nếu người đó nết na được như lệnh bà nói, tôi rất có lỗi, vì lấy người ta trái với tâm ý tôi.
- Nhưng nếu nó biết anh không yêu nó mà nó vẫn lăn vào lấy anh, như thế anh nghĩ sao?
Nhung Lữ ngồi im suy nghĩ.
Trên sân khấu, một ca sĩ trẻ mới vào nghề, đang gân cổ hát, trong lúc đó các thái giám bưng những khay bánh kẹo đi qua các hàng ghế khán giả. Không ai để tai nghe một anh kép non hát, tất cả mọi người quay lại nhìn bà thái hậu. Bà cảm thấy những con mắt tò mò đang để ý nhìn bà, bà nghĩ nên cho Nhung Lữ rút lui.
Bà nghiến răng ra quyết nghị:
- Anh không được trái lệnh của tôi. Anh phải chấp nhận cuộc hôn phối này và cùng ngày hôm cưới anh nhận chức cố vấn. Bây giờ cho phép anh rút lui.
Nhung Lữ đứng dậy, kính cẩn khấu đầu. Hắn im như thể là hắn đã chấp nhận. Bà sẽ nghiêng đầu đáp lễ rồi quay mặt lên sân khấu làm như có vẻ mê say, thích thú về tích tuồng đang diễn.
Trong đêm khuya tĩnh mịch, bà nhìn lại trong trí nhớ cảnh trên sân khấu. Bà không nhớ khi Nhung Lữ đi rồi, họ diễn những tích gì. Lúc đó bà vẫn ngồi yên tại chỗ, tay cầm chiếc quạt, tuy mắt nhìn lên sân khấu nhưng không thấy gì, trong lòng chỉ thấy đau nhói. Bà chỉ yêu một người, yêu đến trọn đời. Bà muốn người đó là một người tình, không muốn nhận người đó là một người chồng.
Như con chim bị nhốt trong lòng, lăng xăng muốn tìm chỗ thoát ra ngoài nhưng không có một chỗ nào có thể lọt được ra, tâm trạng bà lúc này mông lung suy nghĩ, chợt nhớ một lần Cung thân vương nói chuyện về nữ hoàng Anh Cát Lợi. Ta đã tự tạo, tự chiếm lấy ngôi cửu ngũ.
Nhưng quyền lợi có thích hợp cho người đàn bà không? Bà nằm trằn trọc suốt đêm trên chiếc giường rộng lớn, không sao ngủ được... Tiếng chiêng đánh hai tiếng, đã sang canh hai. Bà thao thức nằm yên, trong lòng buồn bã đau đớn. Đã lỡ sinh ra làm đàn bà, sao bà không giữ hoàn toàn bản năng là một người phụ nữ, từ khước ngai vàng, lấy chồng, lấy người mà bà thương yêu. Làm sao bà lại có tham vọng để tâm hồn ray rứt, xác thịt giày vò? Sự hưng, vong của triều đại có can dự gì đến bà?
Bà đã thấy thực trạng của bà, bà có phụ tính về sở dục những nguyện vọng thầm kín, nam tính với khát vọng quyền lực. Sự hùng vĩ và quyền uy là hai thứ cần thiết nhất cho bà. Tình mẫu tử của bà đối với con không hẳn thuần túy là phụ tính. Bà rất sáng suốt và cương nghị, hiểu ngôi vị của mình, đối với con ngoài tình mẫu tử, máu huyết, bà còn đứng trên cương vị hoàng thái hậu, con trai là hoàng đế. Sự vui thích về tình mẫu tử đối với bà chưa đủ. Nghĩ thật oái oăm, một trái tim biết rung động, đa tình, đa cảm, lại có một khối óc siêu nhân. Bà nằm yên không trở mình, âm thầm khóc. Bà nghĩ ta chưa biết yêu, ái tình đối với ta chưa có đủ mãnh lực để ta phải từ khước hết thảy vì ái tình. Vì sao vậy? Vì ta chưa hiểu rõ thế nào là tình ái. Nếu ta giới hạn về ái tình, tim ta sẽ khô héo, mà nếu ta chịu khuất phục sự cám dỗ của tình ái, ta sẽ căm thù người yêu của ta.
Tiếng chuông lại đổ, tiếng người lính tuần canh kêu to: Canh ba. Tâm trí bà miên man nghĩ về ái tình, trong lòng vô cùng buồn bã. Nếu dự tính của bà thành. Nhung Lữ chịu lấy thiếu nữ Mai, bà có thể chắc chắn sẽ gặp hắn trong một căn buồng bí mật ở trong cung. Người thái giám sẽ lo việc canh phòng, nếu sự trung thành của tên này xét thấy có điểm nào đáng ngờ, ta chỉ truyền một câu là mũi dao đâm thẳng vào giữa tim.
Nếu suốt đời bà chỉ được gặp người bà yêu vài lần, bà đã thật sung sướng, mãn nguyện, như được cả một kho tàng. Bà có thể ngự trị trên trái tim mình không? Có thể được bao nhiêu lâu? Trong khi bà ngự trên ngai vàng, có một người đàn bà nằm bên cạnh Nhung Lữ. Dù sao hắn cũng chỉ là một thằng đàn ông, hắn liệu có nhớ trái tim hắn là của bà hoàng thái hậu, chứ không thuộc người đàn bà trong vòng tay hắn?
Bà nghĩ thế, lòng nổi cơn ghen, nước mắt chảy ràn rụa, bà ngồi nhổm dậy, quẳng chiếc gối thêu ra xa, bà ngồi bó gối, nức nở, âm thầm khóc không ra tiếng.
Chiêng lại đổ, tên lính cầm canh hô to: Canh tư.
Bà đã thấm mệt, lại nằm vật xuống giường. Dù sao tâm hồn vẫn là của một người đàn bà, nữ nhi thường tình. Một người đàn bà tài ba, mưu lược mà cũng mưu cao, vọng lớn, tình duyên bị lỡ làng. Nước mắt lại tuôn rơi rạt rào.
Đột nhiên, bà cảm thấy trong lòng nổi lên một hung khí. Nếu theo tiếng gọi của trái tim, nếu vì sự ghen tuông thường tình, cục diện đời bà sẽ hoàn toàn thay đổi. Nhưng không, tính cương nghị, lòng quả cảm đã gạt bỏ tất cả để phụng sự cho một mục tiêu cao cả.
Bà lẫm bẫm khẽ nói một mình: "Dù sao ta cũng phải chiến thắng lòng dục vọng nhỏ nhen". Tin tưởng vào sức mạnh của tâm hồn, bà phấn khởi. Bà tổng kê những ý nghĩ, tư tưởng, gạt bỏ những cặn bã, những ý nghĩ bậy bạ, điên khùng, lòng tự cao, tự đại, mơ tưởng một gia đình trong hoàng cung một nơi vắng vẻ...không khi nào hắn chịu nghe theo làm một việc ô nhục, mờ ám đó.
Nếu nàng không chịu từ khướt tất cả để yêu chàng thì vì lòng tự ái, chàng không khi nào yêu chàng một cách lén lút, âm thầm.Chàng còn ít tuổi, trong trắng. Bà đã được hưởng trái đầu mùa, lần đầu tiên trong đời chàng, kỷ niệm đó bà giữ vững trong kí ức. Không bao giớ hắn chịu chiều theo ý bà lần thứ hai.
Bà nghĩ mối tình ta đối với chàng in sâu trong tâm khảm, âm thầm mà bền vững và chàng sẽ tuyệt đối trung thành với ta. Nghĩ như thế bà thấy tâm hồn thư thái, trở lại bình tĩnh.
Tiếng chuông lại đổ, người lính cầm canh hô to:
- Trời đã sáng, tứ phương vô sự.
Bà ấn định một ngày rất gần để làm lễ thành hôn cho người thiếu nữ Mai.Việc cưới gả này bà muốn càng sớm càng hay. Có một vấn đề cần phải giải quyết, người thiếu nữ này không có nhà riêng, phải cần một nơi trú định ngoài cung điện trong hoàng thành. Bà cho gọi viên tổng quản thái giám đến. Người thái giám này, lâu nay phè phỡn rượu thịt, ăn uông suốt ngày.
Khi người thái giám đến trình diện, bà đang đọc sách, ngước mắt nhìn hắn, bà nói có vẻ khinh bỉ:
- An Đắc Hải, ta xem ý nhà ngươi độ này bê tha quá, ăn lắm, uống nhiều, mỗi ngày mỗi mập.
Tên thái giám làm ra nét mặt rầu rầu, thưa:
- Tâu thái hậu người ta bảo con là cái bong bóng trâu, nếu người ta chọc thủng, nước ở trong chảy ra, chứ không phải mỡ. Tâu mẫu hậu, con bị phù thũng.
Nét mặt bà nghiêm nghị, nghe tên thái giám biện bạch, bào chữa. Việc lớn, việc nhỏ, không có một việc gì qua mắt được bà. Tuy có biết bao nhiêu việc đế lo nghĩ nhưng bà vẫn để ý mọi việc trong nội đình từng chi tiết nhỏ. Bà nói:
- Ta biết mi ăn uống vô độ, độ này lo làm giàu. Mi coi chừng đừng có tham lam, nhớ rằng ta để ý đến hành vi của mi.
Tên thái giám khúm núm thưa:
- Tâu thái hậu, chúng hạ thần biết không việc gì qua mắt được đức bà.
Hai mắt bà rất nghiêm khắc, như nảy lửa, nhìn An Đắc Hải. Tên thái giám cúi đầu không dám ngửng mặt lên nhìn bà, nhưng hắn biết hiện đang có luồng nhỡn quang chiếu vào hắn. Hắn sợ lắm, toát mồ hôi. Thấy tên thái giám đứng khúm núm trước mặt, sợ sệt, mồ hôi nhễ nhại, bà mỉm cười, nói:
- Mi trước kia còn dễ nom, làm kép hát đóng trò, bây giờ người mỗi ngày một béo sưng, bụng phệ, làm sao còn hát lỏng, đóng trò được nữa?
Thấy bà thái hậu dịu giọng, hắn đã bớt sợ, cười, hắn cũng thích làm kép hát, hắn thưa:
- Xin tuân theo lệnh thái hậu, con sẽ tự hạn chế việc ăn uống. Bà thái hậu đã có vẽ vui vui, nói tiếp:
- Ta cho gọi mi đến đây không phải để nói chuyện về mi. Ta ra lệnh cho mi, lo liệu, xếp đặt lễ cưới cho người thiếu nữ Mai kết hôn với Nhung Lữ viên quản gia ngự lâm quân. Mi cũng biết hắn phải lấy thiếu nữ Mai rheo lệnh của ta.
- Tâu thái hậu, hạ thần xin phụng chỉ.
Hắn biết hết những gì trong cấm thành. Từ Lý Liên Anh cho đến tên thái giám trẻ nhất, các a hoàn, thị tỳ, việc lớn, việc nhỏ, ai biết tí gì cũng đều đến nói cho hắn biết. Bà thái hậu nói tiếp:
- Người thiếu nữ đó không có cha mẹ, họ hàng. Ta phải nhận làm họ nhà gái. Với tư cách nhiếp chính. Ta cũng làm đại diện cho ấu đế, nhưng không thể cho đặc quyền như một vị công chúa, nên ta không thể thân chinh dự lễ. Vậy nhà ngươi đưa thiếu nữ Mai về nhà người cháu ta là quận công Hậu. Nàng được rước đi với tất cả các nghi lễ. Người anh họ ta sẽ đến đó đón dâu.
- Tâu thái hậu. Thái hậu đã ấn định ngày nào chưa?
- Ngày mai, nhà ngươi đưa thiếu nữ Mai về dinh quận công. Ngay hôm nay hãy đến báo cho cháu ta biết để sửa soạn nhà cửa. Có hai bà cô già tượng trưng cho họ nhà gái. Mi cũng đến báo cho viên quản ngự lâm quân nói ta đã ấn định ngày một là ngày cưới, làm lễ đón dâu. Khi mọi việc xong xuôi hoàn hảo, mi đến nói cho ta biết.
- Tâu thái hậu, hạ thần xin tuân chỉ thi hành.
Người thái giám khấu đầu lui ra ngoài. Bà lại cúi xuống đọc sách, có vẻ như mải miết đọc dở một đoạn sách, không ngửng đầu lên.
hai hôm liền sau ngày hôm đó, bà mải mê đọc sách suốt ngày cho đến đêm khuya. Bọn thái giám phải túc trực, hầu hạ, buồn ngủ quá, lấy ống tay áo che mồm, vừa đi vừa ngáp. Bà đọc rất chậm như để hết tâm trí vào trang sách. Bà muốn có kiến văn rộng, nên chọn đọc những sách có đề tài mới lạ, chưa từng biết, bao quát tất cả mọi lãnh vực. Vì vậy suốt hai hôm, trong khi cử hành hôn lễ của thiếu nữ Mai, do lệnh của bà, để không muốn nghĩ đến việc cưới xin đó, bà nghiên cứu, đọc một cuốn sách về y học chính pháp.
Nhờ đọc sách, bà biết con người ta có tất cả 365 xương, bằng số ngày trong một năm dương lịch, người đàn ông có 12 chiếc xương sườn mỗi bên, 8 dài, 4 ngắn, người đàn bà có 14 chiếc xương sườn. Bà biết máu của người chồng, người vợ và con đổ chung sẽ hòa tan, máu của hai người lạ không thể hòa tan được. Bà cũng biết được những cơ cấu bí mật của loài cá.
Suốt hai hôm bà không thể rời khỏi thư viện hoàng gia, ngoài trừ hai bữa cơm và đêm về cung.
Sang sáng ngày thứ ba, Lý Liên Anh đến bá cáo. Ở xa đã nghe thấy tiếng ho của hắn. Bà ngửng đầu hỏi:
- Có việc gì?
- Muôn tâu thái hậu, viên tổng quản thái giám đã trở về. Bà gấp sách lại. Lấy chiếc khăn tay lụa gài ở trên vai áo bằng một chiếc khuy ngọc thạch.
- Truyền cho hắn vào hầu.
Viên tổng quản thái giám - Truyền cho hắn vào hầu.
Viên tổng quản thái giám bước vào là lễ khấn đầu.
- Mi muốn trình gì, nói gì, ra đứng sau lưng ta.
Bà thái hậu nghe phúc trình của tên thái giám, bà nhìn ra ngoài sân, cửa mở rộng, những bông hoa cúc vàng óng ánh dưới ánh nắng.
An Đắc Hải ra đứng sau lưng bà, tâu:
- Muôn tâu thái hậu, hạ thần xin tâu trình: Mọi việc được tốt đẹp, hoàn hảo, cuộc nghênh hôn đã được cử hành đúng theo nghi lễ, viên quản ngự lâm quân có cho xe song loan đến đón dâu ở dinh quận công Hậu. Hai bà cô già của quận chúa, theo lệnh thái hậ