← Quay lại trang sách

- II - Nhìn tổng quát nền văn học chữ Quốc ngữ -từ khởi thủy cho đến Tự Lực Văn Đoàn

I. Đầu thế kỷ XX, thời kỳ quan trọng trong Văn học sử nước nhà, đó là thời kỳ chuyển từ chữ Nho, chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ.

Trước thế kỷ XX, nền tảng văn học Việt Nam là chữ Hán và chữ Nôm là những thứ chữ chỉ có một thiểu số sử dụng, vì vậy sự phổ biến thật là hạn chế:

a) Về hình thức: Phần nhiều chỉ có văn vần, ít văn xuôi.

b) Về nội dung: Trọng văn hóa Trung Hoa, và thường phổ biến tư tưởng Trung Hoa, ít chú ý đến văn minh Việt.

- Không thực dụng, chỉ chú trọng từ chương.

- Văn học là riêng của giới sĩ phu, ít đả động tới quần chúng.

Sự phát minh chữ Quốc ngữ đã có từ giữa thế kỷ XVII (cuốn tự điển đầu tiên về tiếng Việt in tại La Mã năm 1651) nhưng chữ Quốc ngữ qua mấy thế kỷ không làm thay đổi nền tảng văn hóa cũ vì thứ chữ này trong khoảng thời gian đó chỉ thu hẹp trong phạm vi truyền giáo mà thôi. Ngay đến khoảng giữa thế kỷ XIX (hai thế kỷ sau khi các Giáo sĩ đã đặt ra chữ Quốc ngữ), Nguyễn Trường Tộ với trí óc cách mạng bậc nhất thời đó vẫn hầu như chưa nghĩ đến cách sử dụng chữ Quốc ngữ viết bằng mẫu tự La tinh, nên Ông chỉ đề nghị bỏ chữ Nho dùng Quốc văn mà Quốc văn này được viết bằng một thứ chữ Nôm dựa theo chữ Nho.

Phải chờ đến biến cố chính trị lịch sử là sự thành lập chế độ thuộc địa Pháp, chữ Quốc ngữ mẫu tự La tinh mới bắt đầu thông dụng, nền tảng văn học mới ở nước ta mới tạo thành để thích ứng với tình thế. Trong thời này, chữ Pháp và nền học Pháp đoạt dần ưu thế, chữ Quốc ngữ chỉ dạy sơ sài ở Tiểu học và Trung học, đến bậc Đại học thì chữ Quốc ngữ mất hẳn.

Nếu không tìm lối thoát, chắc chắn văn hóa Việt Nam phải chìm vào nô lệ.

Các nhà văn hóa thức thời chỉ còn biết bấu víu vào chữ Quốc ngữ để xây dựng nền văn hóa mới phát huy và cái hay cái đẹp của nền văn minh Việt, phổ biến những tư tưởng Đông, Tây để thích ứng với đời sống, như vậy vừa chống chọi được với nền văn hóa Pháp, vừa giữ vẹn được bản sắc dân tộc.

II. Sự xây dựng nền tảng văn hóa mới, và triển vọng của nền văn hóa chữ Quốc ngữ

A. Sự xây dựng nền tảng văn hóa mới

Chúng ta tạm chia ra làm ba thời kỳ:

a. Thời kỳ khởi thủy: Đó là thời kỳ chập chững. Tác phẩm không ngoài chuyện vặt, kể ra một cách vụng về, lời văn non kém. Chúng ta thấy có:

- Trương Vĩnh Ký, tác giả của Chuyện đời xưa, Chuyện khôi hài, v.v...

- Paulus Của, tác giả Chuyện giải buồn và đứng trông nom tờ Gia Định Báo, tờ báo đầu tiên của nước Việt Nam.

b. Thời kỳ xây dựng (1900-1930): Trong thời kỳ này sáng tác văn nghệ rất ít, nhưng đã tạo được các thể văn này: văn dịch, văn báo chí (bình luận, nghị luận, tin tức), văn khảo cứu, văn thuật sự, văn tiểu thuyết. Thời kỳ này gồm các nhóm:

- Đông Dương Tạp chí

- Nam Phong

- Một số tác giả biệt lập như Nguyễn Khắc Hiếu, Trần Tuấn Khải, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Văn Ngọc.

c. Thời kỳ phát triển: Thời kỳ này kể từ 1930 trở đi. Nền văn học mới phát triển mạnh mẽ, mọi văn thể xuất hiện, khuynh hướng rất nhiều: Phóng sự, kịch, tùy bút, truyện ngắn, truyện dài. Các tác giả: Lan Khai, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trong Phụng và các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn.

Thời kỳ này phát triển được cũng là nhờ thời kỳ xây dựng trước.

B. Triển vọng của nền văn học chữ Quốc Ngữ

Huyết thống, địa dư, phong thổ, khí hậu, lịch sử mật thiết hòa lẫn chung đúc nên hồn dân tộc biểu lộ bằng tiếng nói rồi ghi lại bằng chữ viết. Như vậy chúng ta thấy rõ ngôn ngữ văn tự có ảnh hưởng rất lớn và có quan hệ mật thiết đến hưng vong của giống nòi. Dân tộc càng văn minh tân tiến, càng phải chú trọng đến ngôn ngữ văn tự của mình. Lời nói cách viết có mạch lạc, mẹo mực có rõ ràng mới chứng tỏ trình độ văn hóa cao.

Trước khi phát minh chữ Quốc ngữ, lối chữ nôm của ta xưa có nhiều khuyết điểm, bởi không có quy chế rõ ràng, vả lại muốn biết chữ Nôm phải biết chữ Hán nên chỉ một thiểu số học được. Tuy nhiên chữ Nôm vẫn là cố gắng của tổ tiên chúng ta mong thoát ảnh hưởng Hán để duy trì và xây dựng một nền quốc học độc lập.

Chữ Nôm do chữ Hán ghép thành nên biểu hiện sự tổng hợp cụ thể mật thiết của tinh hoa Việt và Trung Hoa. Nếu ta nhận định rằng chữ Hán từ thế kỷ thứ X trở đi đã thu hút tinh hoa của Ân Độ (Trong thời này, Đường Tam Tạng đã sang Tây Trúc lấy kinh) thì ta có thể giả định chữ Nôm là một kết tinh của cả Ân, Hán, Việt:

.

Kể từ thế kỷ thứ XVII mấy vị cố đạo dựa theo chữ La tinh chế ra chữ Quốc ngữ, người Việt đã có một lợi khí văn hóa vô cùng sắc bén. Thoạt tiên chúng ta phải ghi nhận rằng dân tộc nhà được cái may hơn các dân tộc láng giềng là khắp xứ từ Bắc chí Nam - trừ một vài vùng thổ âm nhỏ và số ít phát âm sai biệt - đều nói một thứ tiếng. Chuyển từ chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ chúng ta đã chuyển từ loại chữ biểu ý (écriture idéographique, chữ tượng trưng ý niệm) sang loại chữ tiêu âm (écriture phonétique, chữ nghe sao ghi vậy) dễ dàng, tiện lợi. Tương lai nền văn học chữ Quốc ngữ thực rực rỡ khó bề lường trước được. Trong số các học giả ngoại quốc nghiên cứu về nguồn gốc tiếng Việt, ông Frey nêu một thuyết cho rằng tiếng Việt là mẹ các thứ tiếng trong hai tác phẩm: L’Annamite, mère des langues (1892) và Annamites et Extremes Occidentaux, Recherches sur les origines des langues (1894). Thuyết của ông Frey tuy táo bạo chưa được chứng minh nhưng ít nhất cũng chứng tỏ khả năng phong phú cố hữu của tiếng Việt. Gần đây một vị giáo sư Pháp khác, ông Gustave Meillon cho rằng tiếng Việt là một trong những thứ tiếng văn chương nhất, thi vị nhất, giàu âm điệu nhất thế giới.

Để làm giầu tiếng nói thì về văn học, triết học, chúng ta đã mượn ở kho từ ngữ Hán Việt, về khoa học chúng ta có thể trực tiếp mượn những từ ngữ Tây phương.

Chính là linh cảm thấy rõ tầm quan trọng của chữ Quốc ngữ mà Phạm Quỳnh nói: “Chữ ta còn, nước ta còn”. Nguyễn Văn Vĩnh nói: “Nước Nam ta sau này hay hay dở là nhờ ở chữ Quốc ngữ”. Bác sĩ Nguyễn Văn Luyện trong cuốn Le Vietnam, une cause de paix (1945) đã rất đại lượng và sáng suốt mà viết: “Si jamais la France aura a répondre devant le tribunal de l’humanité, elle pourra présenter le Quốc ngữ pour se disculper” (Nếu một ngày kia nước Pháp phải ra trước tòa án nhân loại, nước Pháp có thể đưa chữ Quốc ngữ ra để gỡ tội cho mình).

Sự quan hệ của chữ Quốc ngữ đối với dân tộc, Quốc gia Việt Nam đã dĩ nhiên là thế, nhưng phân tích sâu sắc hơn chúng ta sẽ nhận thấy: nếu chữ Nôm như trên đã nói, là kết tinh của ba nền văn minh Ân-Hán-Việt, thì chữ Quốc ngữ chính là biểu tượng hình thức tổng hợp văn minh thế giới:

.

Ý thức được khả năng vô tận của ngôn ngữ văn tự Việt Nam, chúng ta có quyền tin tưởng vào tiền đồ rực rỡ của nền văn minh dân tộc.

(Hai biểu đồ trên đây, tác giả ghi nhận theo ý kiến của bạn Việt Tử)

III. Đông dương tạp chí

Ra đời từ 1913, tuy không xuất bản liên tiếp được như Nam Phong nhưng đã cố gắng ra hàng tuần nên góp được phần lớn vào việc xây dựng văn học. Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương, Phan Kế Bính và Nguyễn Đỗ Mục là hai biên tập viên đắc lực.

Nguyễn Văn Vĩnh (1982-1936) nhận thấy người mình cần phải tìm lối thoát cho văn hóa bằng cách rút tỉa các tinh hoa của văn học Âu Châu điều hợp với nền tảng tinh thần cũ, khơi mào những thể văn mới làm lợi khí cho văn học mới. Muốn công cuộc vĩ đại này được thành tựu thì phải có một chữ viết và một tiếng nói đủ khả năng hướng dẫn cuộc tiến hóa. Chữ Việt đã sẵn có nhưng còn ở thời kỳ phôi thai, ít ai tin ở sứ mệnh của nó. Kế đắc sách nhất ông dùng là cho dịch và in những bộ tiểu thuyết thật hấp dễ để ai cũng phải tìm đọc, cũng phải bàn tán, hoặc chưa biết chữ thì học để mà đọc: Chuyện Trê Cóc, Thơ Ngụ Ngôn, Miếng Da Lừa, Những Kẻ Khốn Nạn. Ba Người Lính Ngự Lâm Phảo Thủ... Qua thời đầu với ít khuyết điểm về văn dịch, sau đó ông đạt được một giọng văn hay, giản dị, tự nhiên, phong phú, vững vàng.

Trước đấy khi in bộ Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, ông đã viết một bài tựa trong đó có câu “Nước ta mai sau hay hay dở cũng là nhờ ở chữ Quốc ngữ”. Câu nói bất hủ này đã là một lời tiên tri về cuộc xoay chuyển của văn hóa dân tộc sau này.

Quả nhiên sau đó chữ Quốc ngữ đã là một lợi khí sắc bén trong việc phát triển văn hóa mới và tranh đấu cho nền độc lập của xứ sở.

Trong khi Nguyễn Văn Vĩnh theo Tây học và dịch những văn phẩm Tây phương sang tiếng Việt Nam thì hai văn hữu của ông: Phan Kế Bính và Nguyễn Đỗ Mục là hai nhà thơ, dịch những tác phẩm Hán văn. Văn dịch của hai ông cũng rõ ràng, chân xác mà vẫn hoàn toàn Việt Nam. Bản dịch nổi tiếng của Phan Kế Bính là Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, của Nguyễn Đỗ Mục là Đông Chu Liệt Quốc.

Chúng ta có thể nói nhóm Đông Dương Tạp Chí dịch sách mà nên sự nghiệp, nguyên do cũng vì đã dịch để phổ thông chữ Quốc ngữ và xây dựng tiếng Việt, làm cho tiếng Việt “nên Câu, nên Đoạn, nên một Văn pháp” (lời ông Vĩnh). Trong các sách dịch nhóm đó lại khéo chọn những sách hấp dẫn, vừa phổ biến những tư tưởng tiến hóa, vừa đề cao nền học thuật cũ, để lấy làm căn bản nhóm Đông Dương Tạp Chí với ba ông Vĩnh, Bính, Mục đã dịch để xây dựng văn học vậy.

IV. Nam Phong

Nam Phong do Phạm Quỳnh chủ trương cùng với sự cộng tác của Nguyễn Bá Học, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Hữu Tiến. Xuất bản từ tháng 7-1917 đến cuối năm 1934 mới đình bản, tất cả được 210 số. Suốt 17 năm trường, Phạm Quỳnh tận tụy làm việc hô hào, cổ võ nền Quốc văn. Ta bảo tồn được Quốc hồn, Quốc túy, đồng thời thâu thái được tinh hoa học thuật Đông Tây, nền văn hóa ta trưởng thành và tiến bộ phần lớn là công của ông Phạm Quỳnh. Nhưng chúng ta cũng không quên phần bất lợi: Nam Phong ở một khía cạnh khác, là lợi khí chính trị của Thực dân.

- Giữa lúc mọi tư tưởng, khuynh hướng, tổ chức cách mạng bị đàn áp gắt gao thì Nam Phong ra đời.

- Thuyết Pháp-Việt đề huề, thuyết Trung Dung (tiến bộ cầm chừng) đã làm hao mòn chí tranh đấu quyết liệt của những phần tử ái quôc.

- Nam Phong làm bội nhược chí tiến thủ cường tráng của thanh niên bằng những tiểu thuyết ngôn tình nhu cảm như: Hoa Đào Trước Gió, Chiếc Bóng Song The, Thuyền Tình Bể Ái, Vân Lan Nhật Ký, Song Hồ Ba Bể, Tố Tâm, Tuyết Hồng Lệ Sử.

Nhưng nhược điểm đó chẳng qua như vết hoen của thời đại, hào khí quật cường truyền thông của dân tộc không vì Nam Phong mà tiêu tan và vai trò tiền phong của Nam Phong trong công cuộc xây dựng nền văn học mới vẫn được hậu thế ghi nhớ.

V. So sánh văn nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh

Giữa một thời khủng hoảng, học thuật cũ bị chà đạp, nền học thuật mới chưa có gì, các nhà văn và trí thức lúc ấy, trong đó có ông Vĩnh và ông Quỳnh đều đồng ý dùng chữ Quôc ngữ làm lợi khí xây dựng văn học mới. Muôn vậy phải làm cho Quôc ngữ được phổ thông và tiếng Việt trở nên phong phú, dễ hiểu.

Để đạt mục đích đó, ông Vĩnh đã dịch những bộ tiểu thuyết hấp dẫn nhất của Âu Tây như “Truyện Ba Người Lính Ngự Lâm Pháo Thủ”, “Qui-Li-Ve Du Ký”, “Những Kẻ Khôn Nạn” cùng những hài kịch của Molière...

Trái lại, ông Quỳnh đã dịch hoặc đã trứ tác những tác phẩm khó phổ biến nặng nề tư tưởng học thuật.

Nói rằng ông Quỳnh kém thực tế cũng không đúng hẳn. Phải chăng ông Quỳnh đi sau ông Vĩnh nên thấy rằng không cần làm một việc mà ông Vĩnh đã làm; ông Quỳnh theo một mục đích xa hơn trong việc xây dựng tiếng Việt, ông đã chuộng những vấn đề thật cao như: Văn Minh Luận, Học Thuyết Rousseau, Voltaire, Montesquieu, Phật Giáo Lược Khảo...

Ông Quỳnh, tuy có dịch kịch nhưng không dịch hài kịch phổ thông, vui, hấp dẫn như ông Vĩnh mà dịch bi kịch dễ gây buồn nản (Le Cid, Horace..)

Khách quan mà xét, công trình của hai ông Quỳnh, Vĩnh cùng đáng tán thưởng như nhau. Phải có ông Vĩnh chuẩn bị trước cho tiếng nói rõ ràng, phong phú, có phép tắc. Và rồi phải có ông Quỳnh ra công tìm tòi để cho tiếng Việt, đủ chữ diễn tả mọi vấn đề học thuật. Hai ông không những chung một mục đích mà còn bổ túc lẫn cho nhau trong công cuộc xây dựng nền tảng văn học mới nước nhà.

Sau này chuyển sang thời kỳ phát triển, các nhà văn tiền chiến (1930-1945) đã thúc đẩy được nền văn học nước nhà tới mức khá phồn thịnh, chính cũng là nhờ thời kỳ xây dựng trước của hai ông Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh.