Chương VI.
T rong cuộc truy tầm của tôi, tìm kiếm những câu trả lời cho câu hỏi về cuộc sống, tôi cảm thấy y hệt như một người bị lạc giữa một khu rừng .
Tôi đến một khu rừng thưa, leo lên một cành cây, và có một tầm nhìn rõ ràng về cái khoảng không gian vô tận xung quanh tôi. Nhưng tôi có thể thấy rằng không có ngôi nhà nào và rằng không thể có ngôi nhà nào; tôi đi vào nơi rậm nhất của khu rừng, vào trong bóng tối, nhưng một lần nữa, tôi không thể thấy ngôi nhà nào – chỉ có bóng tối.
Tôi lang thang đó đây như thế trong khu rừng của kiến thức con người. Ở một phía của tôi, là những khu rừng thưa của toán học và khoa học thực nghiệm, phát hiện cho tôi những chân trời rõ ràng, minh bạch; nhưng tôi không thể thấy một ngôi nhà nào ở bất cứ hướng nào. Ở phía bên kia, là bóng tối của những khoa học tư biện, nơi mà mọi bước chân tôi đi, càng dìm tôi xuống sâu hơn vào trong bóng tối, và sau cùng, tôi xác tín rằng không thể có lối nào thoát ra.
Khi tự buông mình vào cái ánh sáng rực rỡ của kiến thức, tôi chỉ đang hướng mắt tôi trệch ra khỏi câu hỏi đó. Cho dẫu những chân trời mở ra với tôi có thể rõ ràng và cám dỗ tôi thế nào chăng nữa, dù việc lặn chìm vào cái vô hạn của cái kiến thức này có cám dỗ tới đâu chăng nữa, chẳng bao lâu tôi nhận thức rằng, cái kiến thức này càng rõ ràng bao nhiêu, thì tôi càng ít cần đến nó bấy nhiêu, thì nó càng ít trả lời cho câu hỏi của tôi bấy nhiêu .
“ Ờ,” tôi tự nhủ, “ Tôi biết mọi thứ mà khoa học rất muốn biết, nhưng lối đi này sẽ không dẫn tôi tới một câu trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa của đời tôi.” Trong lãnh vực của khoa học tư biện, tôi thấy rằng, mặc dù – hay chính xác hơn, bởi vì – sự kiện rằng cái kiến thức này được thiết kế để trả lời câu hỏi của tôi, cho nên không thể có câu trả lời nào khác ngoài câu trả lời mà tôi đã trao cho chính mình: “ Ý nghĩa của đời tôi là gì? “– Nó không có ý nghĩa nào. Hay: “Cái gì sẽ xảy đến cho đời tôi?” – Không có gì cả. Hay: “Tại sao mọi sự đang tồn tại lại tồn tại, [1] và tại sao tôi tồn tại?” – Bởi vì nó tồn tại. [2]
Từ một ngành của kiến thức con người, tôi nhận được một số lượng vô tận những câu trả lời chính xác cho những câu hỏi mà tôi đã không hỏi – những câu trả lời liên quan đến sự cấu tạo hóa học của những tinh tú, sự chuyển động của mặt trời về phía chòm sao Hercules, nguồn gốc của những chủng loại [3] và của con người, những hình thể của những nguyên tử cực vi, và sự rung chuyển của những phân tử ether cực nhỏ và cực nhẹ. Nhưng câu trả lời được cung cấp bởi ngành kiến thức này cho câu hỏi của tôi về ý nghĩa đời tôi chỉ là như vầy: bạn là cái mà bạn gọi là đời bạn; bạn là một sự kết hợp ngẫu nhiên, tạm thời của những phân tử. Bạn được dẫn tới cái được nói đến như là đời bạn – cái ấy chỉ đơn giản là sự tương tác và biến đổi [4] của những phân tử này. Sự kết hợp này sẽ tiếp tục trong một giai đoạn thời gian nhất định nào đó; rồi sự tương tác của những phân tử này sẽ ngừng lại, và cái mà bạn gọi là đời bạn sẽ chấm dứt, và với nó, tất cả những câu hỏi của bạn. Bạn là một mảnh nhỏ bé của một cái gì đó mà dính lại với nhau một cách ngẫu nhiên. Cái mảnh này phân hủy. [5] Sự phân hủy của cái mảnh này thì được biết đến như là cuộc sống của bạn. Cái mảnh đó lại rã ra từng phần, [6] và như thế sự phân hủy kết thúc, cũng như tất cả những câu hỏi của bạn. Cái phía rõ ràng, minh bạch của kiến thức trả lời như thế, và nếu nó tuân thủ một cách chặt chẽ những nguyên tắc của chính nó, thì không còn gì để mà nói nữa.
Tuy nhiên, hóa ra một câu trả lời như thế không cấu thành một lời đáp cho câu hỏi đó. Tôi phải biết cái ý nghĩa của đời tôi, nhưng nói rằng nó là một phân tử của cái vô hạn, nói như vậy không những đã bỏ qua, không đem lại cho nó bất cứ ý nghĩa nào, mà còn tiêu diệt hết mọi ý nghĩa khả thể. [7]
Cái phía thực nghiệm, chính xác của kiến thức có thể tạo ra một sự nhất trí mơ hồ nào đó với cái phía tư biện, khi nói rằng, ý nghĩa cuộc sống nằm trong sự phát triển và trong những đóng góp của con người vào trong sự phát triển này. Nhưng một nhận xét thiếu chính xác và tối tăm như thế không thể được xem là một câu trả lời.
Bất cứ khi nào nó bám sát vào những nguyên lý của chính nó trong việc trả lời câu hỏi đó, cái phía tư biện của kiến thức luôn luôn gặp phải cùng một câu trả lời tương tự đã lưu truyền hằng bao thế kỷ: vũ trụ là một cái gì đó vô hạn và không thể thông hiểu được. Cuộc sống con người là một phần bất khả phân của cái toàn bộ bí ẩn, khôn dò này. [8] Một lần nữa, tôi để sang một bên tất cả những sự nhất trí đã đạt tới được giữa cái kiến thức thực nghiệm và tư biện, những nhất trí này đã cấu thành toàn bộ cái trụ cột[9], làm chỗ dựa cho những bán khoa học – những khoa học được mệnh danh là những khoa học về pháp lý, chính trị, và lịch sử. Trong những khoa học này, một lần nữa, chúng ta được dẫn đến một khái niệm sai lầm về sự phát triển và sự hoàn hảo, với một khác biệt duy nhất là trong một lãnh vực, chúng ta có sự phát triển chung của mọi sự, và trong lãnh vực kia, sự phát triển của riêng con người. Sự sai lầm thì tương tự trong cả hai trường hợp: sự phát triển và sự hoàn hảo không thể có mục đích nào trong cái vô hạn, nó không có phương hướng, và do vậy, nó không thể cung cấp câu trả lời nào cho câu hỏi của tôi.
Bất cứ nơi nào kiến thức tư biện là chính xác và có thể được gọi là triết học đích thực, chứ không phải là cái mà Schopenhauer nói đến như là “ triết học chuyên nghiệp” [10], chỉ có mục đích duy nhất là chia tất cả những hiện tượng đang hiện hữu thành những cột báo triết học với những cái tên mới; bất cứ nơi nào triết học không quay mặt khỏi câu hỏi cốt tủy này, thì câu trả lời luôn tương tự với câu trả lời đã được cung cấp bởi Socrates, Schopenhauer, Solomon, và Đức Phật.
Socrates nói [11] khi ông chuẩn bị cho cái chết:
“ Chúng ta càng di chuyển ra xa cuộc sống bao nhiêu, thì chúng ta càng di chuyển đến gần chân lý bấy nhiêu. Chúng ta, những người yêu chân lý, chúng ta phấn đấu cho cái gì trong đời? – Để thoát khỏi thể xác và tất cả những cái xấu ác [12] do sự sống của thân xác mang lại.
Nếu đúng là như vậy, thì làm thế nào mà chúng ta lại không hân hoan khi cái chết tới gần?
“ Kẻ hiền nhân tìm kiếm sự chết suốt đời mình, và vì lý do này, sự chết thì không kinh hãi đối với vị ấy.”
Schopenhauer nói, “ Nếu chúng ta chấp nhận cái yếu tính nội tại [13] của vũ trụ như là ý chí, và nếu chúng ta chấp nhận tính khách quan của cái ý chí này trong mọi hiện tượng – từ những làn sóng cồn vô ý thức của những sức mạnh tối tăm của thiên nhiên cho đến hoạt động hoàn toàn có ý thức của con người – thì chúng ta không thể tránh cái kết luận rằng, tất cả những hiện tượng này biến mất trong sự phủ nhận và sự tự hủy diệt – có tính tự do – của ý chí [14] ; sự phấn đấu thường trực, cái khuynh hướng không mục đích và không ngừng nghỉ hướng về phía tất cả những mức độ của khách quan tính vốn tạo thành vũ trụ sẽ biến mất, và cái đa dạng của những hình tướng[15] nối tiếp nhau sẽ chấm dứt; và khi hình tướng biến đi, thì tất cả những hiện tượng của hình tướng cũng vậy, bao gồm cả không gian lẫn thời gian, cho đến khi cái nền tảng tối hậu của hình tướng – cái nền tảng của chủ thể và khách thể – sẽ sau cùng biến mất. Nơi nào không có ý chí, không có sự xuất hiện của những hiện tượng, thì không có vũ trụ. Cái duy nhất còn lại trước mắt chúng ta, dĩ nhiên, là hư vô. [16] Nhưng cái vốn chống đối sự di chuyển này – sự di chuyển vào trong hư vô –cái ấy là bản chất [17] của chúng ta, cái ý chí muốn sống [18] của chính chúng ta, bởi nó mà chúng ta được cấu thành, như vũ trụ của chúng ta được cấu thành. Cái sự kiện rằng chúng ta quá kinh hãi trước hư vô, hoặc, cái sự kiện rằng chúng ta quá muốn sống, chỉ có nghĩa là, chính chúng ta chỉ là cái dục vọng muốn sống [19] này; và những sự kiện đó có nghĩa là, ngoài cái dục vọng này, chúng ta không biết cái gì cả. Bởi vậy, khi cái ý chí này bị hoàn toàn hủy diệt, thì tất cả những gì còn lại với chúng ta – những kẻ được thành tựu [20] bởi cái ý chí ấy – dĩ nhiên, là hư vô; nhưng về mặt khác, đối với những người mà ở họ ý chí này được chuyển hóa và từ bỏ, thì cái vũ trụ này của chúng ta, (tuy nom có vẻ. ĐTN) quá thực, với tất cả những mặt trời và những thiên hà của nó – chính cái vũ trụ này cũng là hư vô.” [21] Solomon nói, “ Hư vô trong những hư vô, [22] hư vô trong những hư vô, tất cả đều là hư vô! Một người có thể thu lợi được gì từ tất cả những lao động vất vả của y dưới mặt trời? Một thế hệ đến, trong khi một thế hệ khác qua đi, nhưng trái đất vẫn cứ tồn tại mãi. Cái đã và đang tồn tại, sẽ tồn tại [23], cái đã được làm sẽ được làm; và không có gì mới dưới ánh mặt trời. Có một cái gì mà về nó người ta có thể nói, “hãy nhìn, cái này thì mới?” Không, nó đã từng hiện hữu trong những thế kỷ đến trước chúng ta. Không có hoài niệm [24] nào về những cái xưa cũ; và sẽ không có hoài niệm nào về cái mà sẽ đến với những kẻ hậu sinh sau này. Tôi, Kẻ Rao Giảng, là Vua trị vì Israel tại Jerusalem.
Và tôi để hết tâm hồn vào việc truy tầm và tìm kiếm qua minh triết tất cả những cái hiện hữu dưới mặt trời – cuộc theo đuổi khó khăn mà Đức Chúa Trời đã ban cho những đứa con trai của con người [25], để chúng nó có thể được rèn luyện trong đó. Tôi đã thấy mọi thứ vốn được làm dưới ánh mặt trời, và hãy nhìn xem, tất cả là hư vô, và một sự héo mòn của tâm thức [26] … Tôi nói thầm trong tim, rằng, “hãy nhìn xem, tôi đã được tán tụng như thế nào và bằng cách nào mà tôi đã đạt tới nhiều minh triết hơn tất cả những ai vốn đã từng trị vì Jesusalem trước tôi. Và trái tim tôi đã nắm giữ nhiều minh triết và kiến thức. Và tôi hiến trái tim tôi cho việc nhận biết sự minh triết, sự điên rồ và cái dại dột nực cười [27] ; tôi phát hiện rằng cái này cũng là một sự héo mòn của tâm thức. Vì trong nhiều minh triết là nhiều sầu muộn, và kẻ nào gia tăng minh triết, cũng gia tăng nỗi sầu muộn.
“ Tôi nói trong tim mình, rằng, ta sẽ cho mi thử nếm trải sự vui thú, và mi sẽ tận hưởng những lạc thú của những điều tốt đẹp; nhưng cái này nữa, cũng là hư vô. Về tiếng cười, tôi nói: “Nó là sự khờ khạo” [28] ; và về sự vui thú: “ Nó làm cái gì?” [29] Tôi nghĩ thầm: hãy làm sảng khoái thể xác mình với rượu, và dù trái tim tôi được dẫn dắt bởi minh triết, tôi nghĩ: hãy cứ bám vào sự khờ khạo cho đến khi tôi có thể thấy cái gì tốt cho những đứa con trai của con người và khám phá ra cái gì mà chúng nên làm dưới bầu trời trong những ngày ít ỏi của đời chúng. Tôi đảm đương những công trình vĩ đại: tôi dựng những tòa nhà và trồng những vườn nho cho chính mình. Tôi dựng những khu vườn và vườn cây ăn quả đủ loại cây; tôi làm những hồ chứa nước để tưới những vườn cây ăn quả, để cây có thể lớn nhanh.
Tôi thủ đắc những tôi tớ và tỳ nữ, và có những tôi tớ được ra đời trong nhà tôi; tôi cũng có gia súc, lớn và nhỏ, nhiều hơn bất cứ ai đã từng hiện hữu tại Jerusalem trước tôi; tôi thu được vàng bạc và những kho tàng từ những vị vua và từ những vùng khác; tôi thu thập cho tôi những ca nhân và những phụ nữ biết xướng ca, những nhạc cụ đa dạng; thu góp về cho tôi mọi hoan lạc mà những đứa con trai của con người có thể thu góp được. Và tôi trở nên vĩ đại hơn và giàu sang hơn tất cả những người đã trị vì Jerusalem trước tôi; và sự minh triết của tôi vẫn lưu lại với tôi. Bất cứ cái gì mà mắt tôi thèm muốn, tôi muốn sở hữu chúng, tôi cũng không cấm trái tim tôi bất cứ hoan lạc nào. Và tôi nhìn quanh vào tất cả những việc làm mà hai bàn tay tôi đã thực hiện, và nhìn vào những lao khổ đi kèm với những việc mà tôi đã làm; và hãy nhìn, tất cả đều là hư vô, và một sự héo mòn của tâm thức, và không có lợi lộc gì từ chúng dưới ánh mặt trời. Và tôi quay mắt nhìn ra xung quanh để nhìn lên sự minh triết, sự điên khùng và sự khờ khạo. Nhưng tôi thấy một số phận độc nhất đổ xuống tất cả chúng. Và trong trái tim tôi, tôi nói: một số phận tương tự sẽ đổ xuống tôi như nó đổ xuống kẻ khờ khạo – vậy, tôi đã trở nên quá khôn ngoan minh triết như thế để làm gì? Và tôi nói với trái tim mình: cả cái này nữa, cũng là hư vô. Bởi vì sẽ không có cái ký ức vĩnh cửu nào về bậc hiền nhân hay kẻ khờ khạo; vào những ngày sẽ đến, tất cả sẽ bị lãng quên, và than ôi, bậc hiền nhân sẽ chết cái chết tương tự như cái chết của kẻ khờ khạo! Và tôi đi tới chỗ ghét cuộc sống, bởi vì tất cả những công trình được làm ra dưới mặt trời, đã trở nên gớm ghiếc [30] đối với tôi; bởi vì tất cả là hư vô, và là một sự héo mòn của tâm thức. Và tôi đi tới chỗ ghét bỏ nỗi vất vả trong việc lao động của tôi dưới ánh mặt trời, bởi vì nó phải được để lại cho cái người sẽ đến sau tôi. Bởi vì một người sẽ có gì từ tất cả cái lao khổ của y và những âu lo của trái tim y qua sự lao động vất vả của y dưới ánh mặt trời? Bởi vì tất cả những ngày tháng của y là buồn phiền và việc lao động của y là sầu khổ ; ngay cả ban đêm trái tim y cũng không biết đến sự bình an. Và cái này nữa, cũng là hư vô. Không có cái gì tốt cho một người hơn là ăn, uống và để cho tâm hồn y tìm thấy hoan lạc trong lao động của y…
“ Mọi sự xảy đến giống nhau cho tất cả mọi người; một số phận độc nhất đổ xuống trên kẻ công chính và kẻ độc ác, trên người thiện và kẻ ác, trên người trong sạch và kẻ ô uế, trên kẻ hy sinh và kẻ không hy sinh; giống nhau cho kẻ đạo hạnh và kẻ tội lỗi, cho kẻ thề thốt, và cho kẻ sợ hãi một lời thề. Đây là một điều ác giữa tất cả những thứ được làm dưới ánh mặt trời: một số phận độc nhất đổ xuống tất cả, và, trái tim của những đứa con trai của con người thì đầy sự ác, và có sự điên rồ trong trái tim và trong cuộc sống của họ; và sau cái kiếp sống này, họ sẽ đi nhập bọn với những người đã chết. Bất cứ ai còn sống đều vẫn có hy vọng, bởi vì thà là một con chó đang sống còn tốt hơn một con sư tử đã chết. Người sống biết rằng họ sẽ chết, nhưng người chết thì không biết gì, họ cũng không có phần thưởng nào, bởi vậy ngay cả cái ký ức về họ đã bị chìm vào trong sự quên lãng; tình yêu của họ, sự thù ghét của họ, và sự ghen tuông của họ, đã biến mất, và sẽ không có thêm sự tôn vinh nào dành cho họ trong tất cả những cái mà đã được làm dưới ánh mặt trời. [31]” Solomon – hay là kẻ đã viết những lời này – đã nói như thế. Và đây cũng là cái mà một hiền nhân Ấn Độ đã nói.
Thích Ca Mâu Ni [32] – một hoàng tử trẻ và hạnh phúc, bị che giấu khỏi bệnh tật, tuổi già và sự chết – một hôm đi ra ngoài dạo một vòng và thấy một cụ già rụng hết răng, mũi dãi lòng thòng, và nom dễ sợ. Vị hoàng tử – mà cho tới lúc ấy đã bị che giấu khỏi tuổi già – bị bất ngờ và hỏi người đánh xe điều này có nghĩa gì, và tại sao người đàn ông này đã đi tới một tình trạng đáng thương, kinh tởm và gớm ghiếc như thế. Và khi chàng phát hiện ra rằng, đây là số phận chung của tất cả mọi con người; rằng chàng, một hoàng tử trẻ tuổi, cũng sẽ tới tình trạng này, chàng không thể tiếp tục đi với người đánh xe và ra lệnh cho y trở về nhà để có thể suy tưởng về điều này. Và chàng tự giam mình trong phòng và suy ngẫm về nó. Chắc hẳn chàng nghĩ ra một cái này hay cái nọ để tự an ủi mình, bởi vì một lần nữa, hạnh phúc và vui tươi, chàng lại ra ngoài dạo một vòng. Nhưng lần này chàng gặp một người bệnh hoạn. Chàng thấy một người đàn ông hốc hác, yếu ớt, run rẩy, với đôi mắt mờ. Vị hoàng tử – kẻ bị che giấu không cho thấy bệnh tật – ngừng lại và hỏi điều này có thể có nghĩa là gì. Và khi chàng phát hiện ra rằng đây là bệnh tật – đổ xuống tất cả mọi người – và rằng ngay cả chàng, vị hoàng tử khoẻ mạnh và hạnh phúc, cũng có thể ngã bệnh ngày mai, một lần nữa cái tinh thần vui tươi rời bỏ chàng; chàng ra lệnh cho người đánh xe trở về nhà, nơi mà chàng lại tìm kiếm sự bình an của tâm hồn. Và chắc hẳn chàng tìm thấy nó, bởi vì lần thứ ba chàng ra ngoài dạo một vòng. Nhưng lần này chàng thấy một cảnh tượng mới khác; chàng thấy vài người đang khiêng một cái gì đó. “Đó là cái gì?” – “Một người chết.” “Chết nghĩa là gì?” hoàng tử hỏi. Và chàng được cho biết rằng, trở thành một người chết có nghĩa là trở thành cái mà người đàn ông này đã trở thành. Hoàng tử đi tới bên người chết, lật tấm vải che, và và nhìn vào ông ta. “Và bây giờ cái gì sẽ xảy ra với ông ta?” – hoàng tử hỏi. Và chàng được cho biết rằng người đàn ông này sẽ được chôn xuống đất.
“Tại sao?” – Bởi vì ông ta sẽ không bao giờ sống lại, chỉ có cái mùi hôi và những bọ giòi sẽ xảy đến với ông. “Và đây là cái số phận của mọi con người ư? Và nó cũng sẽ xảy đến cho ta nữa? Họ sẽ chôn ta, và một mùi hôi sẽ bốc lên từ ta, và bọ giòi cũng sẽ gặm nhắm ta?”
Vâng. “ Hãy quay về! Ta không muốn đi dạo, ta sẽ không bao giờ đi dạo nữa.”
Thích Ca Mâu Ni [33] không thể nào tìm thấy sự bình an trong đời. Chàng quyết định rằng cuộc sống là một điều xấu to lớn, và chàng huy động tất cả sức mạnh của linh hồn chàng để giải thoát chính mình và những người khác ra khỏi cuộc sống, giải phóng họ như thế nào đó, để sau cái chết, sự sống sẽ không bao giờ bị tái sinh, và cái gốc rễ của sự sống sẽ hoàn toàn bị hủy diệt. Tất cả những hiền nhân của Ấn Độ đều nói như thế.
Như vậy, chúng ta có những câu trả lời trực tiếp mà sự khôn ngoan minh triết của con người có để cung cấp khi nó trả lời câu hỏi về cuộc sống.
* “ Sự sống của thân xác là một điều xấu và một sự dối trá. [34] Và bởi vậy, việc hủy diệt sự sống của thân xác là một phúc lành, và chúng ta nên mong ước điều đó,” – Socrates nói.
* “ Sự sống là cái mà nó không nên là, một điều xấu; và một sự di chuyển vào trong hư vô [35] là cái phúc lành duy nhất mà cuộc sống có để ban tặng,” –Schopenhauer nói.
* “ Mọi sự trên thế gian – cả sự rồ dại lẫn sự khôn ngoan, sự giàu sang và sự nghèo khó, niềm vui và nỗi sầu – tất cả đều là hư vô và sự trống rỗng. Một người chết đi và không có gì còn lại. Và điều này thì phi lý,” – Solomon nói.
* “ Thật không thể nào sống được, khi biết rằng sự đau khổ, sự hư nát, tuổi già và sự chết là tất yếu; chúng ta phải giải thoát chính mình ra khỏi sự sống [36] và ra khỏi tất cả mọi khả tính [37] của sự sống,”– đức Phật nói.
Và cái điều mà đã được thốt ra bởi những trí óc hùng mạnh[38] này, chính điều ấy đã được nói lên, suy nghĩ, và cảm nhận bởi hằng triệu người giống như họ. Tôi cũng đã suy nghĩ và cũng đã cảm nhận một cách tương tự.
Những chuyến lang thang của tôi như thế giữa những lãnh vực của kiến thức đã không những không dẫn tôi ra khỏi cơn tuyệt vọng của tôi, mà càng làm gia tăng nó. Một khu vực của kiến thức không trả lời câu hỏi về cuộc sống; ngành kiến thức còn lại, thì quả thật có trả lời –nhưng nó chỉ càng củng cố thêm cơn tuyệt vọng của tôi, và cho tôi thấy rằng, cái điều (mà) đã đổ xuống tôi, thì không phải do một sai lầm về phía tôi, hay là một trạng thái bệnh hoạn của tâm thức. Trái lại, cái khu vực kiến thức này xác nhận cho tôi cái sự kiện rằng, tôi đã và đang suy nghĩ một cách đúng đắn và trùng hợp với những trí óc hùng mạnh nhất đã từng được nhân loại biết đến.
Tôi đã không thể bị đánh lừa. Mọi sự đều là hư vô. Hạnh phúc thay cho kẻ nào chưa từng được sinh ra; cái chết thì tốt hơn cuộc sống; chúng ta phải loại bỏ sự sống ra khỏi chính mình. [39]
[1] Why does everything that is exists.
[2] Trả lời như vậy, thà đừng trả lời còn hơn! ( ĐTN).
[3] Species.
[4] Alterations.
[5] Decompose.
[6] Fall apart.
[7] Every possible meaning.
[8] This mysterious, inscrutable whole.
[9] Ballast.
[10] Profesional philosophy.
[11] Socrates ( 470 – 399) thảo luận điều này trong tíết mục 62 – 69 trong tác phẩm Phaedo của Plato, khi các bạn ông đến thăm ông lần cuối cùng trước ngày ông bị hành quyết.
[12] Evils.
[13] Inner essence.
[14] The free denial and self-annihilation of will.
[15] Form: hình thể, hình tướng, sắc tướng (ĐTN).
[16] Nothingness.
[17] Our nature.
[18] Will to live.
[19] Desire to live.
[20] Fulfilled.
[21] Arthur Schopenhauer (1788 – 1860): có một ảnh hưởng sâu xa trên tư duy của Tolstoy, nhất là trong suốt thời gian khi ông đang viết Chiến tranh & Hòa bình. Những khái niệm được trình bày ở đây được tìm thấy trong tác phẩm Paregrga and Paralipomena của Schopenhauer.
[22] Vaniy of vanities.
[23] What have been, will be.
[24] Remembrance.
[25] The sons of men.
[26] A languishing of the spirit.
[27] Folly.
[28] Foolishness.
[29] What does it do? Tôi dịch sát nguyên văn, nhưng chưa rõ ý của câu này. (ĐTN).
[30] Repulsive.
[31] Đoạn này được Tolstoy trích dẫn từ The Book of Ecclesiates, thực sự không phải do Solomon viết; ông này mất khoảng năm 920 trước Chúa Giáng Sinh. Đúng ra, sách này xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ III trước công nguyên.
[32] Có lẽ, dùng từ “Siddharta” thì sẽ thích hợp hơn. ( ĐTN).
[33] Lúc ấy là thái tử Siddartha. (ĐTN).
[34] A lie.
[35] A passage into nothingness.
[36] Life.
[37] Possibility.
[38] Powerful.
[39] Những dòng chữ đầy bi quan! Có lẽ, trên đường đi tìm chân lý, Tolstoy đã gặp những người “ bi quan” như Schopenhauer, Solomon… Ông có nhắc đến đức Phật, nhưng ông không hiểu đúng giáo lý của Ngài… ĐTN nghĩ rằng, Tolstoy rất “ phiến diện” khi viết những dòng này. ( ĐTN).