Chương VIII.
Tất cả những nghi ngờ này – mà bây giờ tôi ở trong một vị thế phải diễn tả, một cách ít hay nhiều rõ ràng hơn – thì lúc bấy giờ tôi đã không có khả năng diễn tả chúng. Tôi chỉ cảm thấy rằng, cho dù những kết luận của tôi về cái hư ảo của cuộc đời có thể đã là tất yếu đến mấy đi chăng nữa về mặt logic; cho dù chúng đã được xác nhận bởi nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong các nhà tư tưởng – cho dẫu như vậy, thì cũng có một cái gì đó sai lầm với chúng. Cái sai lầm này nằm ở cái tư duy của tôi hay ở sự công thức hóa [1] của tôi về câu hỏi đó, tôi cũng không biết nữa. Tôi chỉ cảm thấy rằng, dù cái lý tính của tôi có xác tín đến đâu chăng nữa, thì điều này cũng chưa đủ. Tất cả những luận cứ này không thể thuyết phục tôi theo đuổi sự tư duy của tôi tới tận cùng logic của nó, có nghĩa là, tới việc tự kết liễu đời mình. Tôi sẽ không đang nói sự thật nếu tôi phải nói rằng, chính là nhờ lý tính mà tôi đã đi tới cái điểm này [2] mà không tự vẫn. Lý tính đã làm việc nhưng có một cái gì khác cũng làm việc nữa, một cái gì đó mà tôi chỉ có thể gọi là một ý thức [3] về cuộc sống. Cũng có một lực đang làm việc, mà đã dẫn tôi đến chỗ tập trung sự chú ý của tôi về cái này thay vì một cái khác; chính cái lực này đã mang tôi ra khỏi tình huống tuyệt vọng của tôi, và nó đi theo một hướng hoàn toàn xa lạ với lý tính. Lực này dẫn tôi tới chỗ tập trung chú ý của tôi vào sự kiện rằng, giống như hằng trăm người khác thuộc giai cấp tôi, tôi không phải là toàn bộ nhân loại, và rằng, tôi vẫn không biết cuộc sống của nhân loại (nói chung) là cái gì.
Khi tôi nhìn xung quanh vào cái tầng lớp nhỏ hẹp của những bậc đàn anh của tôi, tôi chỉ thấy những loại người như sau: những người không hiểu vấn đề đó, những người hiểu nó nhưng nhận chìm nó trong sự say sưa mê muội của họ với cuộc đời, những người hiểu nó và chấm dứt cuộc sống, và những người hiểu nó, nhưng vì sự yếu đuối, vẫn tiếp tục sống một cuộc sống tuyệt vọng. Đó là tất cả những gì mà tôi có thể thấy. Tôi đã nghĩ rằng, cái tầng lớp nhỏ hẹp này (những người có học thức, giàu có, và nhàn rỗi, mà tôi thuộc về) bao gồm toàn bộ nhân loại, và rằng hằng triệu người đã sống và tiếp tục sống bên ngoài cái vòng tròn này đều là những thú vật, chứ không phải là những con người.
Bây giờ, tôi thấy dường như thật lạ lùng và hoàn toàn không thể tin được, rằng trước đây, trong quá trình lý luận của tôi, có lẽ tôi đã bỏ qua cuộc sống của nhân loại xung quanh tôi; rằng tôi đã rơi vào trong một trạng thái quá sai lầm lố bịch, đến mức nghĩ rằng đời tôi và đời của Solomon hay Schopenhauer là cuộc sống đích thực, bình thường [4], trong khi cuộc đời của hằng triệu người khác thì không đáng kể; nhưng dù bây giờ điều đó có vẻ kỳ lạ với tôi thế nào đi nữa, thì vào thưở đó, quả thật tôi đã nghĩ như vậy. Bị dẫn đi lạc đường bởi sự kiêu ngạo về tri thức, tôi nghĩ – không có gì phải nghi ngờ – rằng tôi cùng với Solomon và Schopenhauer, đã đặt câu hỏi này một cách quá chính xác, quá chân thành, đến nỗi không còn có cách nào khác nữa (hợp lý hơn) ; tôi nghĩ, không có gì phải nghi ngờ, rằng tất cả hằng triệu người này đều ở trong số những người mà chưa bao giờ xuyên thấu [5] tận chiều sâu của câu hỏi đó. Trong khi tôi truy tầm ý nghĩa của đời tôi, chưa bao giờ tôi từng tự hỏi, “ Hằng triệu người trên thế giới mà đã sống và bây giờ đang sống, họ đã gán cho cuộc đời họ loại ý nghĩa gì?”
Trong một thời gian dài tôi đã sống trong cái tình trạng điên rồ này – cái tình trạng mà, nếu không phải trong lời nói, thì trong việc làm – được biểu lộ rõ nét, nhất là trong số những người có khuynh hướng tự do cấp tiến [6] nhất, và thông thái nhất. Tôi tự hỏi: phải chăng do một loại tình thương bẩm sinh kỳ lạ mà tôi đã có đối với nhân dân lao động, chính tình thương này đã buộc tôi phải hiểu họ, và thấy rằng họ không ngu xuẩn như tôi nghĩ? Hay phải chăng là do cái xác tín chân thành của tôi – rằng tôi không biết có gì tốt hơn để làm ngoài việc tự treo cổ – phải chăng chính cái xác tín ấy đã dẫn tôi đến chỗ nhận thức ra điều này: nếu tôi muốn sống và hiểu ý nghĩa cuộc đời, tôi phải tìm cái ý nghĩa này không phải trong số những người mà đã đánh mất nó và muốn tự hủy diệt mình, mà tôi phải tìm ý nghĩa cuộc đời trong số hằng triệu những con người, đang sống và đã chết, chính họ đã sáng tạo ra cuộc sống và nhận lấy cho mình gánh nặng của đời họ cũng như đời của chính chúng ta? Bởi vậy, tôi nhìn quanh vào khối quần chúng khổng lồ, bao gồm những con người mộc mạc, đang sống hay đã chết – họ không có học thức, cũng không giàu có – và thấy một cái gì đó hoàn toàn khác. Tôi thấy rằng, tất cả hằng triệu con người này mà đã sống và vẫn đang sống, họ không rơi vào trong cái phạm trù của tôi, với chỉ vài ngoại lệ hiếm hoi. Tôi không thể xem họ như là những người không hiểu câu hỏi, bởi vì chính họ đã đặt câu hỏi với sự minh bạch khác thường, và đã trả lời nó. Tôi cũng không thể nhìn họ như là những người theo chủ nghĩa Epicurus[7], bởi vì nét đặc trưng của đời họ là sự thiếu thốn và khổ đau hơn là lạc thú. Tôi càng ít có thể xem họ như những người đang tiếp tục sống một cuộc đời vô nghĩa trong một thể cách phi lý, bởi vì họ có thể giải thích mọi hành vi của đời họ, ngay cả chính cái chết. Và họ xem việc tự vẫn như là điều xấu lớn nhất trong tất cả mọi điều xấu. Hóa ra, tất cả nhân loại đều có một loại hiểu biết [8] nào đó về ý nghĩa cuộc đời mà tôi đã bỏ qua và xem thường, khinh bỉ. Sự kiện này dẫn tới hệ luận là, kiến thức thuần lý [9] không mang đến ý nghĩa cho cuộc đời, rằng nó khai trừ cuộc đời; cái ý nghĩa mà hằng triệu con người trao cho cuộc đời thì được đặt nền móng trên một loại kiến thức nào đó, một loại kiến thức vốn bị khinh bỉ và xem là giả dối, sai lầm.
Như được trình bày bởi những kẻ thông thái và khôn ngoan, kiến thức thuần lý phủ nhận ý nghĩa của cuộc đời, nhưng khối quần chúng khổng lồ này thừa nhận ý nghĩa thông qua một kiến thức phi lý tính.[10] Và cái kiến thức phi lý tính này là đức tin [11], một điều độc nhất mà tôi đã không thể chấp nhận. Đức tin này bao gồm vị Thượng đế vừa là một, vừa là ba [12], việc sáng thế trong 6 ngày, quỷ sứ, thiên thần và mọi thứ khác mà tôi đã không thể chấp nhận mà không rời bỏ những giác quan của tôi.
Cái vị trí của tôi thật là khủng khiếp. Tôi biết rằng tôi không thể tìm thấy cái gì trên con đường của kiến thức thuần lý ngoài sự phủ nhận cuộc sống; và trong đức tin, tôi không tìm thấy cái gì ngoài sự phủ nhận lý tính, và việc này thì càng bất-khả hơn là một sự phủ nhận cuộc sống. Nếu chấp nhận kiến thức thuần lý, thì cũng phải chấp nhận rằng cuộc sống là xấu xa, [13] và người ta biết điều đó. Họ không cần phải sống, thế mà họ đã sống, và họ đang thực sự sống, y như chính tôi đã sống, cho dù tôi đã biết từ lâu rằng đời là vô nghĩa và xấu ác. Nếu chấp nhận đức tin, thì để hiểu cái ý nghĩa của cuộc sống, tôi sẽ phải quay mặt khỏi lý tính – chính là cái cần thiết để mang lại ý nghĩa.
[1] Formulation.
[2] This point.
[3] Consciousness of life.
[4] Normal.
[5] Penetrate.
[6] Liberal.
[7] Epicurism: Một chủ thuyết do Epicurus, triết gia Hy Lạp cổ đại, chủ xướng. Thường được gọi là “chủ nghĩa hưởng lạc.” Theo chủ nghĩa này, thì mục đích của cuộc sống là hưởng khoái lạc càng nhiều càng tốt. Nhưng, thực ra, Epicurus phân biệt “khoái lạc vật chất” và “ khoái lạc tinh thần”, và ông ưu tiên cho khoái lạc tinh thần. Do vậy, đa phần những người mệnh danh là “ theo chủ nghĩa Epicurus”, họ chỉ nhấn mạnh khoái lạc vật chất – đi ngược lại hoàn toàn với chủ nghĩa Epicurus đích thực. (ĐTN).
[8] Knowledge.
[9] Rational knowledge.
[10] Irrational knowledge.
[11] Faith. Đúng là “ đức tin” vượt lên lý tính, nhưng có nhiều loại “ đức tin”, chứ không chỉ có đức tin Kytô giáo. Chẳng hạn, đức tin vào Đạo của Lão Tử cũng “ phi lý tính”, nhưng nó không hề xung đột với lý tính. ( ĐTN).
[12] Chúa 3 ngôi: Chúa Cha, chúa Con và chúa Thánh thần. ( ĐTN).
[13] Thực ra, cũng chưa hẳn như Tolstoy nghĩ. ( ĐTN).