Chương XIV.
Vào thời đó, tôi thấy quá cần thiết phải tin để sống, đến nỗi tôi đã một cách vô thức che giấu khỏi chính mình những mâu thuẫn và những cái tối tăm[1] trong những lời dạy tôn giáo. Tuy nhiên, có một giới hạn cho sự giải minh[2] này về những nghi thức. Mặc dù những lời quan trọng nhất trong nghi thức tế lễ trở nên ngày càng rõ ràng với tôi; mặc dù bằng cách nào đó tôi giải thích cho chính mình những lời, “Nhớ tới Đức bà Tối cao của chúng ta, Thánh Mẫu của Chúa, và tất cả các vị thánh, chúng ta, mỗi một người và tất cả, hãy hiến dâng toàn bộ đời chúng ta cho Chúa Kytô, Thượng đế” ; mặc dù tôi giải thích việc người ta thường xuyên lặp lại những lời kinh cho vị Nga hoàng và gia đình ông nghe bằng sự kiện rằng, họ bị cám dỗ nhiều hơn những người khác và do vậy, cần đến những lời cầu nguyện hơn; mặc dù tôi giải thích việc nguyện cầu xin Ơn Trên cho chúng ta đánh bại kẻ thù, bằng cách nói rằng kẻ thù thì xấu ác – mặc dù vậy, những lời cầu kinh này và những điều khác, như bài tụng ca của các thiên thần, bí tích nhập thể, [3] sự ngưỡng mộ Thánh nữ Đồng trinh, và vân vân –gần 2/3 nghi thức của khóa lễ thì hoặc là không có chút ý nghĩa nào, hoặc là chúng làm cho tôi cảm thấy rằng, tôi đang nói dối khi tôi cố giải thích chúng, và điều này sẽ có nghĩa là tôi đang hủy diệt mối quan hệ của tôi với Thượng đế và sẽ đánh mất hết khả tính của đức tin.
Khi cử hành những ngày lễ chính, tôi cũng có những cảm nhận tương tự. Tôi có thể hiểu việc cử hành lễ sababbath – nghĩa là, dành riêng một ngày trong tuần cho việc hội thông với Thượng đế. Nhưng kỳ nghỉ quan trọng nhất là để nhớ đến cuộc Phục sinh, cái thực tại mà tôi không thể tưởng tượng, cũng không thể thấu hiểu được. Và ngày nghỉ hằng tuần, Chủ nhật, thì được đặt tên cho cuộc Phục Sinh này. [4] Vào ngày này, bí tích Thánh thể [5] được thực hiện, đây là cái mà tôi hoàn toàn không thể thông hiểu được. Trừ lễ Giáng Sinh ra, 12 kỳ nghỉ lễ khác là để tưởng nhớ những phép lạ khác, mà tôi cố không nghĩ về để khỏi phải phủ nhận chúng: lễ Lên Trời [6], Lễ hạ trần [7],
Lễ hiện xuống [8], Sự Can thiệp[9] của Đức Mẹ đồng trinh, vân vân … Khi tôi cử hành những ngày lễ này, cảm thấy rằng sự quan trọng nhất đang được gán cho cái mà tôi xem là ít quan trọng nhất, thì tôi, hoặc là sáng chế ra một lời giải thích để xoa dịu chính mình, hoặc là nhắm mắt lại để khỏi thấy cái vốn đang khuyến dụ tôi.
Tất cả những điều này gây cho tôi ấn tượng mạnh mẽ nhất khi tôi tham gia vào cái thông thường nhất và được xem là cái bí tích quan trọng nhất: lễ rửa tội và ban thánh thể. Tại đây tôi không bị xung đột với một cái gì đó không thể hiểu được, nhưng với những vấn đề khá dễ hiểu; tôi thấy dường như những hành vi này thì dối gạt [10] trong bản chất, và tôi bị kẹt vào trong tình thế lưỡng nan: hoặc là tôi phải bác bỏ chúng, hoặc là tôi phải nói dối về chúng.
Tôi sẽ không bao giờ quên cái cảm giác đau đớn mà đã đi xuyên qua tôi khi tôi nhận lễ ban thánh thể lần đầu tiên trong nhiều năm.
Cái khóa lễ, sự xưng tội, những bài kinh ngắn, – tất cả mọi thứ đó thì có thể hiểu được với tôi, và gợi lên trong tôi sự nhận thức vui sướng rằng, cái ý nghĩa của cuộc sống thì đang được mặc khải cho tôi. Tôi tự giải thích cái việc ban thánh thể như là một hành vi để tưởng nhớ Chúa Kytô, có ý nghĩa làm sạch tội lỗi và sự chấp nhận hoàn toàn những lời dạy của Ngài. Nếu sự giải thích này khá giả tạo hời hợt[11], tôi không để ý tới cái sự giả tạo đó. Khi tôi khiêm cung và dâng mình cho vị nghe xưng tội, một giáo sĩ chất phác và rụt rè, thật là một niềm vui cho tôi khi được phơi trần tất cả cái xấu xa nhơ bẩn trong linh hồn tôi, ăn năn về những tội lỗi của mình; thật là một niềm vui được kết hợp trong tư tưởng với những phấn đấu của những vị cha cố đã soạn ra những lời cầu nguyện của những bài kinh; thật là một niềm vui được kết hợp với những kẻ ngoan đạo và những kẻ có đức tin, niềm vui ấy quá lớn, đến nỗi tôi không có cảm nhận nào về cái tính chất giả tạo của lời giải thích của tôi. Nhưng khi tôi tới gần những cánh cổng của vương quốc, và vị giáo sĩ yêu cầu tôi lặp lại cái mà tôi tin và rằng, cái mà tôi sắp nuốt đích thực là thịt và máu, lòng tôi đau như cắt; đây là một nốt nhạc [12], nhỏ bé nhưng giả tạo, một yêu sách tàn nhẫn được đặt lên một kẻ mà rõ ràng là (y) chưa từng có ý niệm nào về đức tin là cái gì.
Mặc dù bây giờ tôi tự cho phép mình xem nó là một yêu sách tàn nhẫn, vào thời đó, tôi đã không có khái niệm rằng nó là như vậy, nó chỉ gây cho tôi nỗi đau đớn không thể nói ra lời. Tôi không còn giữ cái lập trường mà tôi đã lựa chọn và tuân thủ trong tuổi trẻ của tôi, cái quan điểm cho rằng, mọi sự trong đời thì rõ ràng minh bạch. Quả thật, tôi đã đến với đức tin bởi vì ngoài nó ra, tôi không thể tìm thấy bất cứ cái gì ngoài sự đổ nát, và do vậy, tôi không thể vứt bỏ đức tin; bởi thế, tôi tuân thủ. Trong linh hồn tôi, tôi phát hiện ra một cảm nhận vốn giúp tôi chịu đựng cái này. Đó là một cảm nhận về sự tự hạ mình [13] và sự khiêm cung. Tôi tự hạ mình khiêm cung và nuốt cái xác thịt và máu mà không có những cảm xúc báng bổ, và với một niềm mong mỏi được có đức tin, nhưng cú đánh ấy [14] đã để lại cái dấu ấn của nó. Biết trước cái đang chờ đợi tôi, tôi không thể đi qua nó một lần thứ hai.
Tuy nhiên, tôi vẫn tiếp tục thực hành những nghi thức nhà thờ, và tôi vẫn tin rằng, có chân lý trong cái giáo lý mà tôi tự mình gắn bó vào ; và rồi, một cái gì đó xảy ra, bây giờ nó rõ ràng minh bạch với tôi, nhưng vào thời đó nó có vẻ kỳ quặc.
Một lần, tôi lắng nghe một nông dân thất học, [15] một kẻ hành hương, nói về Thượng đế, cuộc sống, sự cứu rỗi và đức tin, và một sự hiểu biết về đức tin đã được mở ra cho tôi. Tôi trở nên gần gũi hơn với những con người mộc mạc này khi tôi lắng nghe những suy tưởng của họ về cuộc sống và đức tin, và tôi bắt đầu ngày càng hiểu chân lý hơn.
Cùng một điều tương tự đã xảy ra cho tôi khi tôi đọc Tử Đạo Luận [16] và Những Lời mở đầu [17] ; chúng trở thành những sách đọc ưa thích của tôi. Để sang một bên những phép mầu và xem chúng như những ngụ ngôn diễn đạt một ý tưởng, những sách đọc này phát lộ cho tôi cái ý nghĩa của cuộc sống. Trong số đó là cuộc đời của Macarius Vĩ Đại [18], và Hoàng Tử Ioasaph (câu chuyện về đức Phật), những tác phẩm của John Chrysostom [19], câu chuyện về một kẻ lữ hành trong cái giếng, về nhà tu khám phá ra vàng và Peter Người thu thuế; chúng bao gồm cả những chuyện lịch sử về những kẻ tử đạo, tất cả trong số họ đều công bố rằng cuộc sống không chấm dứt với cái chết. Đây là những câu chuyện kể về những người thất học, đần độn đã tìm thấy sự cứu rỗi mặc dù họ không biết gì về những lời dạy của Hội thánh.
Nhưng ngay khi tôi giao du với những người tín đồ có học thức và cầm lên những quyển sách của họ, thì một mối nghi ngờ, bất mãn, và cay đắng nào đó đối với những lập luận của họ nổi lên trong tôi, và tôi cảm thấy rằng, tôi càng nắm bắt những bài giảng đạo của họ, tôi càng lạc xa chân lý và càng đến gần vực thẳm hơn.
[1] Obscurities.
[2] Interpretation.
[3] The mystery of the bread and wine.
[4] Trong tiếng Nga, từ tương đương với Sunday là “coskresen‟ e”, được lấy từ chữ “voskrensenie” (phục sinh).
[5] Eucharist.
[6] Ascension.
[7] Pentecost.
[8] Epiphany.
[9] Intercession.
[10] Receptive.
[11] Artificial.
[12] A little note. Thật tội nghiệp cho Tolstoy! ( ĐTN).
[13] Self-abasement.
[14] The blow.
[15] Illiterate.
[16] Martyrology.
[17] Prologues. Những sách này chứa đựng những chuyện kể về những truyền thuyết về các vị thánh và những đau khổ của họ.
[18] Được biết đến nhiều hơn qua cái tên Marius Người Ai Cập. Đây là vị thánh và ẩn sĩ của thế kỷ IV, nổi danh nhờ những phép mầu và sự minh triết của ông.
[19] John Chrysostom ( 1594 – 1646) là một nhà văn, nhà lãnh đạo tâm linh, dòng Franciscain. Ông là người Pháp.