Phần 1
Tôi chào đời vào năm 1926 ở vùng U Minh Hạ, thuộc khu vực rừng tràm trũng thủy ven vịnh Xiêm La mà Pháp khoanh vùng để bảo quản và quản lý khá chặt chẽ, tuy nhiên người dân địa phương có thể đốn cây tươi để bán lẻ tẻ hoặc dùng trong gia đình.
Đây là khu vực thuộc huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang, với con rạch Thứ Sáu, hệ thống rạch mà Gia Định Thành Thông Chí đời Gia Long đã mô tả. Hơn chục con rạch ngắn, cong queo, bắt nguồn từ giữa rừng chảy ra biển, từ Đông sang Tây, chẳng dính dấp gì đến con sông Hậu Giang.
Mùa mưa, nước tràn vùng trũng, chịu ảnh hưởng hải triều, 24 giờ có hai lần lớn ròng, vì vậy, nước dưới rạch như mãi lưu thông. Tóm lại, nước dưới rạch không chảy từ đất cao, xuống hạ lưu đất thấp.
Bờ biển là bãi bùn phù sa, đầy cây mắm, cây giá không có giá trị kinh tế như cây đước. Nhà ở bờ rạch, ra biển khoảng 4 kilômét, ấy thế mà từ thuở lọt lòng đến hơn 10 mét, đầy cây mắm, cây giá, muỗi mòng bay ào ào ngày như đêm, bước xuống thì lún ngang đầu gối.
Rừng cũng vậy, mãn năm sình lầy, dưới bùn lố nhố những gốc cây đã chết hoặc cây sậy, đế, khá bén nhọn. Ấy thế mà người dân đi chân đất, gần như chẳng bao giờ bị thương tích đáng kể.
Lớn lên, được dịp đi tận Hà Tiên rồi Vũng Tàu hoặc Nha Trang, tôi vui sướng vô cùng. Rõ ràng là biển của xứ người trông thơ mộng, sạch sẽ với bãi cát trắng hoặc vàng, nước biển xanh đậm không như phía vịnh Xiêm La toàn là phù sa màu vàng sậm, màu nâu.
Khác hẳn rừng miền Đông nơi có suối, có hốc đá, nơi con nai ngơ ngác uống ánh trăng vàng. Chung quanh nhà, nơi tôi chào đời, đầy lau sậy, luôn luôn có muỗi lại còn ong rừng (gọi ong mật).
Hừng sáng, trẻ con dễ đói bụng, thường đi tìm đám lau sậy hoặc cây tạp mà gặp tổ ong mật, ổ còn nhỏ li ti cỡ cái bánh tráng (bánh đa). Vắt mật ong, uống tại chỗ gọi là ăn điểm tâm, lát sau ra về, lừng khừng như kẻ say rượu vì mật ong có rượu, gây khó chịu lúc đói bụng.
Lắm khi trẻ con đi dạo trong đồng cỏ, thu hoạch được chút ít mật ong, đem lại tiệm quán đổi lấy vài viên kẹo. Mật ong quá ít, bán chẳng ai mua, muốn bán thì phải có số lượng vài chục lít, đem ra tỉnh lỵ.
Cũng như cá lóc, cá trê, muốn thu hoạch khối lượng to cần có thương lái giúp vốn sắm xuồng, sắm câu, lưới để sống tạm qua ngày.
Xóm tôi hồi đó còn vài mươi gia đình người Khơ Me, người lớn tuổi bảo rằng họ tản cư đến khi Pháp đánh chiếm hồi cuối thế kỷ 19, dân số Khơ Me dường như không tăng không giảm vì trẻ con kém săn sóc dễ bị đào thải từ tấm bé.
Gần xóm, vài ao nước tương đối ngọt với thềm cao. Thỉnh thoảng, dân bắt rắn, bắt lươn dùng chỉa mà xom, phát hiện vài lỗ trống, bên dưới đầy lươn và xương người nát bấy, nhưng tóc còn nguyên vẹn. Mộ của người đến U Minh, sống nghèo túng rồi mất từ xa xưa.
Ông nội tôi chào đời ở cù lao Ông Chưởng (An Giang) khoảng 1840, ông cố tôi cũng ở đấy, từ xưa. Ông nội tôi chạy giặc Pháp, qua Rạch Giá, đến Cù Là rồi xuống U Minh.
Bấy giờ Pháp cho trưng khẩn đất tự do, nhưng ai cũng chán chê vì đất quá úng, chưa có dân lưu tán đến, họ chờ mãi vẫn không thấy người Pháp cho đào kênh thủy lợi.
Đất hoang ấy phải trả lại cho nhà nước để khỏi đóng thuế, chỉ giữ chút ít diện tích để đào đìa (ao nuôi cá) hoặc chờ mùa nắng cá tự động gom vào trũng. Hồi mới đến định cư, thử trồng một cây khế, nay đã còi cọc, trông khôi hài nhưng có giá trị vì lớn tuổi hơn tôi.
Bác hai của tôi phá rừng, trồng vài mươi cây dừa nơi đất úng, về sau, trồng một cây mai vàng, gần Tết cũng trổ vài bông. Bác tôi giữ búi tóc, thích giao thiệp với xóm người Khơ Me nói trên, ông rành tiếng Khơ Me, lại có khả năng kể chuyện cổ tích Khơ Me cho trẻ con nghe, và thích lên đồng bóng (gọi xây Á-rập) mời thần thánh địa phương người Khơ Me nhập vào.
Lúc ấy, ông uống rượu, xem bói tướng cho người địa phương. Ông kể chuyện xưa ngày khẩn hoang, không cường điệu, tôi còn giữ được vài ấn tượng sâu sắc, nhờ vậy mà sau này tôi viết quyển Lịch sử khẩn hoang miền Nam với thái độ tự tin.
Hồi Diệm còn cai trị, khủng bố ác liệt, tôi cố gắng viết những truyện ngắn, sau này gom lại lấy nhan đề Hương Rừng Cà Mau . Người khen kẻ chê nhưng nên nhớ rằng chế độ kiểm duyệt của Diệm tinh tế lắm.
Tôi gửi một quyển về cho bác Hai tôi, ông không biết chữ Hán chữ Quốc ngữ gì cả, nhờ đứa cháu ngoại đọc lại, năm ấy bác đã khoảng 90 tuổi. Đứa cháu ấy viết lá thơ ngắn gửi lên Sài Gòn, tóm tắt ý kiến của bác mà tôi vô cùng trân trọng: "Thằng này nói dóc, nghe được quá. Nói dóc mà có căn cứ".
Phải rồi, truyện ngắn, truyện kể gì gì đều là loại hư cấu. Nhưng hư cấu phải có căn. Có căn tức là mang cốt lõi hiện thực. Lời nhận xét của bác Hai khiến tôi hãnh diện với thâm tâm.
Lớn lên, đâu khoảng tôi 6 tuổi, cha tôi là con út trong gia đình bèn rời bỏ quê hương đi khẩn đất, lên phía Bắc, ven vịnh Thái Lan, cách thị xã Rạch Giá chừng 15 kilômét phía Hà Tiên (nay gọi là vùng ven khu Tứ Giác). Bấy giờ con kinh Rạch Giá - Hà Tiên vừa đào xong nhưng chưa được sử dụng vì bên bờ thưa thớt dân cư, nước phèn mặn. Dọc theo mé biển nhiều giồng cát cao ráo đã có người Khơ Me định cư, co cụm trên cao, ven giồng là đất thấp, úng lụt. Thêm vài ngọn đồi thơ mộng, dính vào đất liền, gọi là vùng Hòn Chông, Ba Hòn với hai cột đá cao, nằm nghiêng một chiều, gọi hòn Phụ Tử rồi lên Hà Tiên gặp nhiều hòn đá vôi (xi măng Hà Tiên). Ăn đến biên giới là những thắng cảnh như Tô Châu, Đông Hồ, Thạch Động, gần xa ngoài biển là hàng chục đảo lớn nhỏ, khi trời quang mây tạnh, nhìn thấy dạng đảo Phú Quốc khá cao và dài. Không khí u buồn nhưng chưa quá ảm đạm. Còn đâu thời Mạc Thiên Tích với Chiêu Anh Các!
Phía đông của toàn dải đất bao la, trông nhàm chán này là dãy Thất Sơn dọc theo biên giới. Phía Tây Bắc rồi xuống phía Nam là sông Hậu khá rộng (nhánh của sông Tiền, tức sông Cửu Long).
Giống hệt như phía Đồng Tháp Mười với cỏ bàng, và hàng trăm thứ cỏ cao, cỏ thấp chẳng có giá trị kinh tế. Có thể nói nơi tiếp giáp với nước Cam Bốt là Đồng Tháp Mười và khu vực Tứ Giác nói trên.
Riêng khu Tứ Giác đã được Thoại Ngọc Hầu từ cuối đời Gia Long khoanh vùng với kinh Vĩnh Tế và kinh Thoại Hà (Long Xuyên). Giữa biển cỏ hoang vắng này, nhô lên núi Ba Thê với di chỉ quan trọng của nước Phù Nam xa xưa hồi đầu Tây lịch.
Khu Tứ Giác, kể luôn Đồng Tháp Mười là đất khắc nghiệt, đã nhận chìm nước Phù Nam nay ít ai biết. Và các nhà khảo cứu còn đang mò mẫm tìm hiểu: Dân Phù Nam từ đâu đến và họ đã đi về đâu?
Cánh đồng cỏ bao la này được người Việt trổ tài khai phá, tuy phải đối đầu với môi trường xa lạ, nhất là về thủy văn. Khác hẳn cánh đồng của sông Hương, sông Thu Bồn hoặc có quy mô như sông Đồng Nai.
Những cơn lụt thường niên xuất phát từ Tây Tạng, Lào, Cam Bốt nhưng Thoại Ngọc Hầu đã phân vùng khá chính xác với hai con kinh phía Bắc và phía Nam, nhờ vậy mà tên tuổi của ông được hậu thế mãi ghi nhớ.
Nếu vùng U Minh phía Nam ven biển vịnh Xiêm La, nơi tôi chào đời (xã Đông Thái, ấp Giữa) còn khó tìm trên bản đồ thì xóm Sóc Xoài, nơi cha tôi đến khẩn hoang đợt sau khó tìm hơn, thuộc xã Sóc Sơn, ngay rạch Tà Lúa.
Đất phèn và mặn, phải đào ao, uống tạm, nấu cơm. Ít ai bệnh hoạn vì loại nước ao này, vài người cho rằng bấy giờ ta chưa dùng thuốc trừ sâu.
Núi thấp ngoài biển rải rác nhiều đảo nhỏ, gần bờ là những bầy quạ đen hoặc bầy ó. Hình dáng con ó được tả lại qua câu thai đố: "Mình dà (đà) mặc áo cũng dà. Tay xách con gà, đầu đội thúng bông." Ó đáp xuống, xớt gà con rồi bay lên cao, đầu óc mang chòm lông trắng...
Chân trời rộng, bên kia vịnh là các nước Thái, Mã Lai nhưng ít giao lưu vì thiếu hàng hóa và khả năng mua sắm. Về đâu? Về đâu? Chỉ biết nhìn lên trời, tìm hướng siêu thoát, nương vào mây bay.
Vào mùa mưa, gió Tây Nam của gió mùa đen kịt, từng nhà như sống cô lập, thôi thì ăn tạm chén cơm, chút nước mắm rồi ngủ, dầu đèn không có để mà thắp, chẳng còn chuyện gì để cho người trong nhà bàn bạc với nhau.
Cọp beo từ lâu rồi không ai thấy, cường hào ác bá chẳng muốn lấn hiếp kẻ tay trơn, ma quỷ có lẽ đã mất dạng, đến như bầy muỗi lừng danh kêu "như sáo thổi" cũng lẩn trốn khó khăn trong tấm vách lá đang run phần phật. "Thương thay, thập loại chúng sinh!"
Lớn lên, càng già tôi càng hiểu rằng những ấn tượng đầu tiên khi mình còn bé vừa tiếp xúc với cuộc đời cứ theo thời gian mà khắc càng sâu trong tâm thức, không tài nào diễn tả được, khi ẩn khi hiện.
Cũng như khi vào trường làng ở vùng này, tôi học chung với vài cậu bé Việt lai Hoa, Hoa lai Khơ Me. Học trò không mấy đứa có khai sinh, tên nghe ngộ nghĩnh như thằng Tứng, thằng Khưng, thằng Xa Đơn.
Lắm đứa ở trần mặc quần cụt vào lớp, thỉnh thoảng lén ra ngoài sân rồi trở về nhà. Thầy giáo đành chịu vậy, gắt gỏng quá thì lớp học khó tìm được mươi học trò, chưa nói đến mùa mưa, làm ruộng, vài đứa giúp cha mẹ trong việc đồng áng, hoặc lên cơn sốt rét.
Thầy giáo do làng hoặc tổng tuyển chọn, ăn lương khoán. Ngành giáo dục tỉnh thỉnh thoảng gửi đến vài xấp tư liệu, kiểu giáo án, khá tươm tất như là nội san định kỳ, gọi Sư Phạm Học Khoá.
Vì vậy, tuy có ít nhiều sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư từ Hà Nội gửi vào, nhưng trường ở xa xôi vẫn dạy theo tư liệu riêng, không sát theo chương trình nhưng gợi cảm hơn.
Thí dụ như bài học thuộc lòng:
Đêm khuya, nhà, vắng, tớ đang sầu,
Lũ ếch sao bây dám bảo nhau
Kêu khắp bốn phương nhà tớ ở?
- Này im, nghe tớ hỏi vài câu.
Bây giận chi mà kêu ếch ộp
Hay bây có cái thú riêng gì?
Thú gì, rủ tớ đi theo với,
Rủ tớ đi đâu tớ cũng đi!
Học trò đọc lên, lúc được thầy giáo gọi "trả bài" lấy làm thích thú, dễ nhớ, như quen thuộc với môi trường đồng không mông quạnh. Lũ trẻ chắc cũng hiểu đại khái nội dung nên cười tủm tỉm; thầy giáo vừa rời quê xứ, đến khu Tứ Giác này để dạy học với đồng lương vô nghĩa cũng có đôi phút chạnh lòng nhớ ruộng, vườn, bờ cỏ hoang vắng, từ thuở ông bà. Kỷ niệm thời thơ ấu bất diệt, mặc dầu đã lớn tuổi.
Học vỡ lòng một đôi năm, cha đưa tôi từ xóm Cù Là, xem như cỏ kính, gần thị xã Rạch Giá, trên giồng đất cao ráo cũng nhiều người Khơ Me ở lâu đời, nhưng ruộng tốt, lại có ngã ba sông rạch. Mấy bô lão cho rằng Cù Là là cái xứ bán thứ cao xoa bóp trị bá chứng, do người Cù Là đưa tới, hiểu là người Miến Điện (nay Myanmar).
Vịnh Xiêm La quả là nơi hội tụ nhỏ bé của vài nước Đông Nam châu Á. Gần Cù Là nay còn tên đất Xà Xiêm (Sre Xiêm), nơi người Xiêm đến làm ruộng (thời Nguyễn Ánh - Tây Sơn chăng?). Nhưng sôi động nhất là sự hiện diện của người Hoa, phần lớn là Triều Châu, họ mua bán sỉ lẻ, đặc biệt là tổ chức sòng bạc ngày đêm, gần như là công khai.
Thanh niên phần đông là lai tạp, chiều chiều đến học võ và trình diễn nào võ Khơ Me, võ Việt Nam (?), võ Triều Châu, võ Lào, võ Xiêm (nhất là dịp lễ hội ở chùa Phật người Khơ Me).
Được ở trọ nhà người bác ruột, ông có trưng khẩn vài mươi mẫu đất khá tốt, nhà lợp ngói, vách ván, nền lót gạch tàu, rõ là tiêu biểu cho văn minh Việt ở vùng đất tụ hội, giao lưu này.
Trước sân, nhờ rạch Cù Là được nguồn nước ngọt đưa vào nên trồng khá nhiều cây cảnh như nguyệt quới (quí), ngâu, lài, đặc biệt là hai cội mai vàng. Tết về vàng rực hoa to; hoa còn búp, lại còn bàn thờ ông bà, lư hương, nhà hơi thấp, bảo rằng trong nhà phải tối nhá nhem, ông bà phải chịu về với con cháu.
Bàn thờ luôn thắp ngọn đèn trứng vịt, đó là lửa thiêng, lửa hương hỏa. Con cháu ưa thức đêm phải ngủ nhà dưới, phía trước nơi nấu bếp. Học hành ngày hai buổi, ngày chủ nhật mới rảnh rang, dạo chơi sau hè.
Cách nhà chừng 100 mét, đã đắp vùng đất khá rộng và cao, gọi thổ mộ, hiểu là nơi chôn cất của riêng dòng họ. Phần mộ ông nội tôi ở đó, mặt bằng, thọ hơn 80 tuổi, mất năm "Bảo Đại tam niên" 1929. Tuy ở xứ Nam Kỳ thuộc địa, niên hiệu Bảo Đại của Trung Kỳ vẫn được mến mộ, nhắc nhở văn hóa Việt Nam.
Ở thổ mộ, còn giữ được một cây rừng, mọc sẵn, cây chòi mòi, thân không to, cho từng chùm trái nhỏ như hạt tiêu, ăn chua. Năm ấy, cả xóm náo động lên: Cây "muồng giè" có trái. Tới mà coi!
Muồng giè là loại cây rừng, xóm Cù Là còn sót một cây cao cỡ cây dừa lão, thân to và thẳng, lá như lá cây cọ, mọc trơ giữa đất ruộng, sau chùa. Lại bảo rằng cây này trăm năm mới có trái một lần, điềm may mắn của cả khu vực.
Hằng trăm người bao vây gốc cây, từng chùm trái được thòng xuống. Dân trong xóm mang rổ, thúng đến chia phần xem nó là tài sản công cộng. Trái nó to như trái nhãn, đem về luộc ăn, bên trong có chất bột màu tím dợt, thơm tho.
Vài người bảo nếu đem trái ấy mà chà ra bột, làm bánh ăn, ngon như bột hoành tinh. Tôi được ăn thử, để hưởng "lộc nước, ơn trời". Quả thật là ngon. Từ đấy đến nay, ngao du tận Sài Gòn, miền Đông Nam Bộ, tôi chỉ nghe văng vẳng tên giống cây này, chưa được ăn lần thứ nhì.
Nhờ đi học ở trường làng chính quy, tôi được tiếp xúc với sách giáo khoa do Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc soạn, quen với văn hoá sông Hồng, thí dụ như những câu ca dao "Trong đầm gì đẹp bằng sen", "Con cò mà đi ăn đêm", thêm chuyện phương Đông như "Đạo bằng hữu phải có thủy chung", "Lý Mật nuôi bà" hoặc chuyện cổ Tây phương như "Cái lưỡi" của Ê-dốp.
Vài đoạn ngắn khá thơ mộng, đầy tính nhân bản, đọc qua là thuộc lòng ngay như "Ai bảo chăn trâu là khổ". Lần đầu tiên học chung với học trò chính quy, có khai sinh, tên cha mẹ. Trong lớp treo bảng Danh dự ghi tên mấy học sinh đứng đầu về điểm trong tháng, lại còn bảng ghi danh sách học sinh thay phiên nhau quét lớp.
Năm học ở Cù Là, tôi được sắp vào hạng giỏi. Học sinh phần lớn siêng năng, rất sợ thầy giáo, quê thầy ở tận Cao Lãnh. Hôm nọ điểm danh thấy vắng một đứa, tên là Mì. Học sinh vắng mặt, có hoặc không xin phép trước là bình thường nhưng chưa chi học sinh nhốn nháo lên.
Thằng Mì đến cổng trường, đứng lại chờ mẹ nó nắm tay dắt vào lớp. Mẹ và con bịt khăn tang, đứng do dự trong khi thầy giáo bước tới. Mẹ nó khóc. Thầy giáo nói lẩm bẩm, rồi mẹ nó bước ra về. Thầy bảo rằng hôm nay thằng Mì nghỉ học vì cha nó bị giết tại nhà.
Học trò im lặng rồi bàn tán xì xào, thầy giáo như bần thần, không giảng bài tiếng nào cả. Lát sau, trống đánh tan buổi học. Nhà thằng Mì cách nhà trường khoảng 3 cây số ngàn, nếu đi tắt qua ruộng.
Tuy là chuyện của người lớn, học trò như buồn lây, lủi thủi ra về, không ồn ào trước sân như thường lệ. Và ngày hôm sau, lúc đầu giờ mẹ thằng Mì lại dắt nó đến, cũng mặc tang phục, gặp thầy giáo rồi day về phía học sinh, ngỏ lời cảm ơn nhà trường, thầy giáo, các bạn bè học sinh rồi tạm biệt với lý do là sau đám tang, hai mẹ con phải đi về quê, không xa, ở kênh Nước Mặn, bà con dòng họ sẽ giúp đỡ.
Cha thằng Mì chết trong trường hợp nào?
Mươi năm sau, thời kháng Pháp, tình cờ tôi theo chân anh em Vệ Quốc Đoàn đến đóng tại khu vực trường học xưa. Vài người lớn tuổi cho biết mẹ thằng Mì có đời chồng trước, ly thân rồi gặp người chồng sau, sinh ra nó. Người chồng trước trở về đánh ghen, và cha ruột thằng Mì bị chém lúc cãi vã. Người chồng trước bị bắt tại trận, đưa lên tòa đại hình Cần Thơ xử đâu năm năm khổ sai, đày biệt xứ.
Thằng Mì tham gia dân quân du kích địa phương, can đảm lắm, đã hy sinh, đồng bạn đã làm lễ truy điệu long trọng. Còn mẹ nó thì nghe đâu đã xuất gia, đi tu đâu phía Cần Thơ.
Ông lão kể chuyện rồi chỉ ra phía đồng trống: Mộ nó ngoài kia, xa đường, sình lầy, muốn thăm có người dẫn đường cho.
- Bốn gốc mộ, có chôn bốn cái ve chai để đánh dấu sợ thất lạc nhưng chưa thấy ai đến tìm cả.
Tôi ngao ngán, nhớ đến gương mặt nó lúc vào lớp tạm biệt anh em, khi rời quê xứ, năm ấy. Và nhớ đến mẹ nó, tuy buổi ấy cô đơn, chịu đựng búa rìu dư luận nhưng giữ tư cách đối với thầy giáo, với bạn học của con mình — điều mà gần như ít thấy.
Ngày nay, tuy lượng thông tin dồi dào hơn, nhưng cuộc sống càng làm cho con người thêm cô đơn. Bởi vậy, để bớt cô đơn, bức xúc vô lý, con người cần có những gì sốt dẻo gây ấn tượng, nhưng ấn tượng nhiều khi quá nhàm, chỉ làm khuây khỏa tạm thời mà thôi.
Thời xưa cái bệnh bức xúc (stress) không ai nghe nói và quả thật thời xưa là cô đơn kiểu khác, vì cô độc cá nhân, nhưng ngày nay lại xảy ra kiểu cô đơn giữa đám đông, khi chen chúc dạo phố, hoặc có khi nhiều tiền nhưng thấy tiền chẳng giải quyết dứt khoát được chuyện gì cả. Thiếu ấn tượng sâu đậm.
Đến xứ Cù Là, tôi đã rời vùng U Minh.
Xứ lạ, nước dưới rạch chảy thao thao, gần biển, lục bình trôi từng giề, riu ríu, vào mùa thu thì đơm bông màu tím dợt, khá xinh đẹp nhưng loại bông này quá mềm yếu, cắt đem chưng vào bình chừng mươi phút đã héo ủ rũ, đem luộc ăn thì chẳng thoảng mùi vị gì cả. Ở xa, xem đẹp, thân thương vì nó như quanh quẩn bên cuộc sống của ta.
Nhưng người lớn tuổi luôn căn dặn trẻ con đừng bơi lội lại gần: giữa rạch, nước sâu, chảy mạnh, làm đuối trẻ con. Những giề lục bình to thường làm ổ cho loại rắn nước, khá độc hại, tùy con. Nói để răn đe nhưng tôi chưa thấy người nào bị rắn cắn từ giề lục bình trôi cả.
Xóm Cù Là vào buổi ấy (1935–1936) được tạm gọi là đô thị hóa nhờ cao ráo, lại gần thị xã Rạch Giá, cách khoảng 12 kilômét với con lộ xe hơi (ô tô) nhỏ. Vì dễ giao lưu với tỉnh lỵ, thêm màu mỡ, thích hợp với lúa đặc sản, ngon cơm (đất có chân nước mặn thích hợp với lúa ngon cơm). Hơn nữa, từ thời Gia Long, đã có dân cư trú khá đông.
Giới điền chủ người Việt đến trưng khẩn, một hécta giá gấp năm hoặc mười lần đất úng của vùng U Minh. Vì ở gần thị xã, như một ốc đảo riêng biệt nên giới điền chủ ưa tụ họp để cờ bạc, đá gà qua những sòng lớn, sòng nhỏ, lây lan đến xóm lân cận, hấp dẫn luôn cả người nghèo túng. Chủ chứa đã ăn chịu với quan làng nên vùng Cù Là là thế giới riêng, nuôi sống giới chủ quán; ăn uống sang trọng, với đặc sản Tàu, Việt.
Thêm tiệm hút thuốc phiện, trên gác xép, giới tiên ông đi mây về gió; tầng trệt là nơi hớt tóc có bán thêm các loại thuốc trị bệnh phong tình, bệnh đàn bà — đại khái thời xưa khó trị, mãi sau này dùng thuốc trụ sinh đem lại hiệu quả nhanh chóng hơn.
Thợ hớt tóc nói chung là khi lớn tuổi (khoảng 50) mới được tin cậy, một tỷ lệ không nhỏ của giới thợ là nghiện thuốc phiện nặng, nhẹ, họ biết đàn kìm (đàn nguyệt). Người thợ phụ hoặc người hàng xóm nào thích đàn ca thì kết thân, hết đàn thì đánh cờ tướng.
Bản Vọng cổ đang triển khai, sau khi thành hình từ non 20 năm trước, có thừa tính thuyết phục. Người ca Vọng cổ thường bắt chước hơi hướm, cách xếp chữ theo đĩa hát (bây giờ giá khá cao, còn phổ biến hạn chế). Đi đâu cũng nghe văng vẳng:
"Ác ngậm non đoài, ngọn gió Đông Nam (nó) thổi đưa mặt nhật hồi về nơi Tây Bắc. Nhật dĩ hoàng hôn, tai tôi nghe tiếng con chim oanh (nó) ríu rít dường như rủ bạn về non. Ngửa mặt nhìn, ngơ ngẩn tấm lòng son."
Lời ca lãng mạn bâng quơ, hợp với tâm trạng người nghe, một sự giải đáp không khó khăn cho lắm.
Trên sông nước, tiếng hò tiếng hát của giới thương hồ còn văng vẳng, bấy giờ ghe gắn động cơ gần như không có, họa chăng trên tuyến đường thủy nào đó, nơi các chợ làng, chợ quận giao lưu. Văn minh gọi là thính-thị chưa gây được uy thế... Vài phóng viên hoặc đặc phái viên của vài tuần báo ở Sài Gòn đăng tải cũng như phát xít Đức chuẩn bị Thế chiến thứ hai, họa chăng ở xóm Cù Là này một đôi thầy giáo lớn tuổi lưu ý suy gẫm.
Vài người khách vãng lai dạy lời bản Tây Thi về sự gan lì của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, bọn thanh niên ghi chép, phổ biến. Lòng yêu nước của người phía Tây Nam bấy giờ vẫn bồng bột.
Ở Tà Niên, làng Vĩnh Hòa Hiệp, sát bên chợ Cù Là, dân làng thờ ông Nguyễn Trung Trực, vị anh hùng kháng Pháp, khởi nghĩa rồi bị giặc bắt, chém đầu năm 1868. Bảo rằng đình ấy thiêng lắm, thờ Nguyễn Trung Trực nhưng đình có trước cuộc khởi nghĩa cũng như sắc phong đã ban từ trước cho một vị Thành hoàng Bổn cảnh.
Xem Nguyễn Trung Trực như vị thần là do lòng dân, những người thân Pháp chẳng ai dám cãi lại, truy từ chữ nghĩa ghi trong sắc thần! Lòng dân đã phong là chân lý tuyệt đối, đủ tính thuyết phục về tâm linh.
Những chiếc xuồng bé nhỏ vào buổi ấy (nay không còn), hừng đông là xuất hiện gần như đúng giờ đúng khắc, bán món ăn sáng với giá cực kỳ rẻ.
Bắp giã, hiểu là bắp khô, xay cho nát sơ sài rồi đem hầm, trắng nõn, ăn với dừa khô nạo, thêm tí muối mè. Hoặc bắp nấu, hiểu là trái bắp tươi xanh, đem luộc chín ngon ngọt, lột vài lớp bẹ ra, tha hồ lựa chọn, nào trái quá già, quá non. Lại còn xôi nước dừa, xôi nghệ. Muốn ăn thì xuống gọi là xuồng ghé lại.
Người bán ở chợ nhà quê luôn tươi cười, sạch sẽ, áo trắng, quần đen, đầu đội khăn bàn trắng (kiểu khăn lông lau mặt ngày nay, nhập từ bên Pháp). Thức ăn được phủ với miếng vải trắng mỏng, che bụi, che mưa, đựng trong thau sắt tráng kẽm, nhập từ Singapore.
Người bán không tranh giành, ai đi giờ khắc nấy, với tiếng rao dễ phân biệt, gọn gàng không kéo dài như tiếng rao chè ở đường phố Sài Gòn. Thời thịnh của văn minh sông nước.
Những cô Khừng, cô Láng, cô Xứng, nghe tên là biết người Việt lai Hoa từ một hai đời. Còn đâu các cô ấy, nay đã hơn trăm tuổi, nhà nghèo mà lạc quan đã giúp gia đình, giúp đời!
Là đất xưa, xóm Cù Là quy tụ một số người dân tộc Khơ Me khá thuần thục, với đôi ba sào đất tốt, có thể sống được, thêm cá ngoài ruộng, dưới rạch. Khi cực thì ăn cơm trắng, gạo ngon, với trái me xanh, dằm muối tạm gọi là thức ăn.
Ông sãi hằng ngày đi khất thực, vui vẻ. Ngày lễ hội, cũng tưng bừng múa hát. Họ thích uống rượu đế, trưa mùa nắng, đôi ba người ra bụi tre sau hè, uống lai rai, thấy giải khát ngay, đôi khi, họ ra quán uống tách cà phê, thế là đủ.
Thỉnh thoảng, bán vài con vịt hoặc con heo, ra tận ngoài thị xã, mua cho được cây đèn "pin", ban đêm đem rọi lên ngọn tre, dùng cây sào dài mà đập vài con cò đang say ngủ.
Gần như họ không dời chỗ ở. Những ngày sau giải phóng 1975, tôi được cơ hội về xóm cũ, viếng phần mộ cha. Hơn ba mươi năm qua, chưa bao giờ gặp mặt, ấy thế mà khi tôi về với mái tóc hoa râm, họ nhận ra ngay, phần tôi thì chỉ nhớ mang máng.
Đó là những cô gái già nua, xưa tên là Cà Na, Cà Nữ ở xóm. Họ kêu tên tôi và đưa tôi đến phần mộ cha. Mộ trông như hoang vu, cỏ mọc phủ đầy. Họ kể lại vài chi tiết của đám tang đơn giản năm nào.
Họ bảo rằng: Phần mộ còn ở đây thì mãi mãi ở đây, họ hứa chăm sóc giùm, đại khái, vì theo người Khơ Me thì người chết cần được hỏa thiêu đưa vào chùa, còn phần mộ cha tôi thì họ khuyên để cỏ mọc đầy cho nó lần hồi mất dạng!
Buổi ấy hằng năm trường ở tỉnh lỵ đã bày ra cuộc thi tuyển lên lớp trên, sau lớp sơ đẳng, nhờ đậu cao, tôi được trợ cấp học bổng, hằng tháng đâu chừng 4 đồng bạc. Một số tiền khá to.
Rời xóm Cù Là, tôi ra chợ Rạch Giá, một thị xã sát bờ biển, khá xưa, đã sung túc từ thời Mạc Thiên Tích (con Mạc Cửu). Tôi ở trọ nhà ông Sáu Thuyền, rạch Vàm Trư.
Đại Nam Nhất Thống Chí đã ghi tên con rạch này, hiểu Trư là con heo. Thời trước đất đai hoang vu, lau sậy non là thức ăn lý tưởng của heo rừng, người dân địa phương còn kể lại chuyện xưa rằng heo rừng sống lâu năm có thể chống lại cọp dữ.
Rạch nhỏ chảy cong queo ra biển, bờ rạch tràn lan lá dừa nước. Sau này đọc sử thấy Mạc Thiên Tích đã mở mang vùng Rạch Giá, ta nên hiểu đó là quy tụ dân cư ở vài điểm để mua bán, làm trạm trung chuyển hải sản đưa lên Trung Hoa hoặc xuống phía Xiêm, Mã Lai.
Tôi ở trọ nhà ông Sáu Thuyền, ăn cơm chung, ông ít nói, thỉnh thoảng thốt vài câu bâng quơ. Nhìn ra khoảng đất trống vắng sau hè nhà, quanh năm chỉ thấy mưa nắng, vài người nhổ mạ, cấy lúa, cày ruộng khi vào mùa mưa.
Nói cho tôi nghe, nhưng là ông nói với trời, với đất, cây cỏ; tôi chỉ là thằng bé khép nép, năm ấy mới 11 tuổi, tự thấy mình không đủ tư thế để hỏi han, chất vấn hoặc trả lời. Ấy thế mà lớn lên, khi ông mất, tôi vẫn nhớ vài mảng nhỏ.
Nguyễn Trung Trực năm ấy tuổi non 30 đã đưa quân du kích từ U Minh, từ xóm Cù Là mà tôi vừa rời chân lên ngồi quanh đồn Pháp, trong cỏ cây um tùm, nhờ có sóng biển ào ạt nên giặc không hay biết.
Hừng đông, nghĩa quân xông vào đồn, đốt phá, giết trọn bọn giặc, ngoại trừ đôi tên đã lén ra ngoài chơi; nghe tiếng hò hét, thấy đồn đã cháy, chúng không dám trở về.
Cha ruột ông Sáu Thuyền đã tham gia nghĩa quân, khi về nhà đã kể lại rằng khi vào đồn, lục soát thấy những cục gì mềm ở nhà bếp, ngỡ là thứ thực phẩm lạ của Pháp, bèn chụp lấy, về nhà ăn thử thấy cay cay, mặn mặn nên ngỡ là món mà Pháp dùng để ăn với cháo trắng cho dễ nuốt. Vài người ăn thử, mang bệnh thổ tả, sau này chợt hiểu đó là xà phòng!
Về già, ông Sáu cứ lẩm cẩm về chuyện cục xà phòng ấy, không cần ai nghe, không cần ai tin là chuyện có thật. Một hôm, khoảng xế chiều, tôi ngồi học bài, cứ suy nghĩ bâng quơ về mấy điệu kèn lanh lảnh lặp đi lặp lại "tò te tí te" mà lúc trước khi mới đến ở trọ tôi không chú ý cho lắm. Lại phải hỏi khéo léo, ông gật gù, buồn thiu:
- Mai hay chiều, tao nói rõ cho mày nghe!
Vài hôm sau, khi tiếng kèn của lính mã tà thổi, ông đến ngồi bên tôi, rất thân mật, hút điếu thuốc vấn khá to:
- Linh hồn của binh sĩ ông Nguyễn (Nguyễn Trung Trực) linh thiêng lắm, lúc đánh chiếm lại đồn Rạch Giá, lính của mình chết khá nhiều. Kẻ chết không ai chôn cất vì thời xưa đất gần đồn là rừng rậm, dân cư gần như không có. Oan hồn cứ hiện. Nhà ông Chánh (Chánh chủ tỉnh) nghe kêu rú, khi thì lúc nửa đêm, khi hừng sáng, cây to bỗng trốc lên ngã xuống ầm ầm. Bởi vậy, Tây cho bọn lính tới thổi kèn "tò te" để đuổi ma quỷ, buổi chiều.
Và ông Sáu Thuyền cho biết gần khu vực thổi kèn, Tây có xây cái khám kiên cố để nhốt những người dân "An Nam" cứng đầu, ương ngạnh. Kế bên khám có cái tháp to và cao lắm, nơi chôn mấy người lính Tây bị mình giết hồi 70 năm trước. Tháp ghi tên họ tụi Tây, còn người An Nam mình chết, coi như là mất thây, không bà con họ hàng gì ở đây, phần lớn từ Tân An, Hà Tiên, Hòn Chông, Phú Quốc tới, theo ông Nguyễn.
"Tò tí te..." Tiếng kèn đồng của nhà binh Pháp cứ ám ảnh tôi, gần như suốt đời. Vài năm sau, lên Trung học, được học Việt văn về bài thơ Vịnh chùa Cây Mai của Tôn Thọ Tường. Pháp đóng đồn ở gò Cây Mai (Chợ Lớn), mãi sau này tôi mới đến tận nơi tham quan một cách khó khăn. Gò này là nơi tiền trạm mà Pháp trú quân để đánh lên Chí Hòa, năm 1861. Sử chép từ trước đời Gia Long, trên gò đất cao ráo này có ngôi chùa Việt cất trên nền cũ của chùa Khơ Me, sẵn có vài cội bạch mai, cao và to; giống như loại mai mù u, bông nhỏ, thơm mùi trầm hương (không phải là loại mai chiếu thủy nay quá phổ biến để trồng làm cây cảnh).
Từ trên đồi cây mai nhìn xuống, thấy về phía Bắc là vùng Hóc Môn với ruộng và vườn tược. Phía rạch Bến Nghé là phố xá với ghe thuyền đi hoặc về đồng bằng sông Cửu Long. Sát chân gò có vùng hoang dại, ẩm thấp đầy sen. Tao nhân mặc khách đến nương bóng cội mai già mà ngâm thơ vịnh phú, thú vui ấy mặc nhiên không còn, khi Pháp xâm chiếm, đóng đồn, lấn qua các tỉnh phía đồng bằng.
Giặc đóng đồn nhỏ ở chân đồi. "Tò le kèn lạ mặt trời chiều" sau câu "Lặng lẽ chuông quen con bóng xế". Vùng Cây Mai có chiều chùa xưa, nay hãy còn.
Hồi học lớp Năm, lớp Tư, được học thuộc lòng bài *Vịnh Chùa Cây Mai* của Tôn Thọ Tường, lòng tôi thấy ngậm ngùi, với chuyện Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá. Nỗi buồn bao la, không rõ nét cụ thể. Phải chăng đó là lòng yêu quê hương?
Ông Sáu Thuyền thỉnh thoảng khẳng định với tôi rằng trong cái kèn đồng của lính Tây đem tới thổi có gắn cục "vàng găm", loại kim khí này có tác dụng đuổi ma quỷ. Nhưng kèn đồng của Tây cứ thổi, nước vẫn mất – kẻ thù của Nguyễn Trung Trực phải chờ đến Cách mạng tháng Tám 1945 mới bị xua đuổi!
Lên bậc Trung học, ở chợ Cần Thơ phồn thịnh, được cơ hội đọc nhiều tư liệu về chữ Việt – tiệm sách khá nhiều – tôi hiểu Tôn Thọ Tường là dạng sĩ phu sớm theo Pháp, gọi là "quân bán nước", "Việt gian". Đối nghịch với ông là Cử Trị đầy đủ tiết tháo, về già dưỡng nhàn ở Phong Điền (Cần Thơ).
Đành vậy, nhưng ấn tượng đầu tiên của tôi về câu thơ "Tò le kèn lạ mặt trời chiều" ngày càng sâu đậm. Tôn Thọ Tường đã diễn đạt tâm trạng mình một cách thật thà, vì thật thà mà lương tri bộc lộ rõ nét? Theo giặc Pháp nhưng biết hối tiếc, biết mình là nhu nhược khi hưởng bổng lộc của Pháp, khi làm phủ rồi lên đến chức đốc phủ sứ.
Về sau này, vài nhà nghiên cứu cho rằng "Tò le kèn lạ mặt trời chiều" là câu thơ hay, nhưng họ Tôn sáng tác trong lúc còn chút lương tri, chưa hư hỏng!
Giải thích thế cũng đúng. Về phê bình văn học, với thời gian, ta thấy khi xảy ra nhiều biến cố dồn dập, về chính trị chẳng lẽ ở mỗi bài phê bình nên ghi ngày tháng? Về lâu về dài, ta thấy nên tránh thái độ quá khích.
Tôn Thọ Tường vì thiếu bản lĩnh nên hội nhập quá sớm. Phải chờ vài thế hệ kế tiếp. Như ở Rạch Giá, có ông Trần Chánh Chiếu, theo Tây học rất sớm, làm quen với thực dân, xin khẩn đất ruộng, trở thành điền chủ lớn, nhập quốc tịch Pháp, xin theo đạo Thiên Chúa, qua Nhật gặp Hoàng thân Cường Để với cao vọng sẽ Duy Tân nước nhà với công nghiệp. Một nhà yêu nước.
Rạch Giá là cảng biển. Hằng ngày, cắp sách đi học, tôi ở bên này con rạch nên phải qua cây cầu quay để đến trường, phía bên kia bờ. Mỗi tháng một đôi lần, đến trường trễ giờ vì cầu đang quay, đưa thớt giữa lên cao, dành khoảng trống cho tàu Hải Nam qua.
Cảng biển Rạch Giá mở ra vịnh Xiêm La đã có từ thời Mạc Thiên Tích, sau đó giao cho chính quyền Việt Nam cai quản. Đây là loại tàu buồm viễn dương từ đảo Hải Nam, với 3 cột to, cánh buồm như rẻ quạt, theo sự ước lượng của tôi, thân tàu chừng 5 căn phố, trên 20 mét, chạy sức gió, thủy thủ khoảng 20 người.
Ngoài cửa Rạch Giá, Pháp bố trí suốt đêm một ngọn đèn thường trực, đặt trên cao để khi ở ngoài khơi tàu có thể định hướng. Biển cạn, nhưng có một lòng lạch, hai bên lạch đóng cừ khá cao để tàu noi theo vào bờ mà không mắc cạn.
Tàu ghé vào bờ biển, làm thủ tục kê khai, đưa một số hàng hóa lên bờ, đại đa số là thảo dược, nhiều nhất là cam thảo, bánh ngọt Singapore, bánh bích quy khô, dụng cụ nhà bếp như thau, chén bằng sắt tráng men cũng từ Singapore, thêm vải đen thô, vải may mùng, diêm quẹt (từ Thụy Điển), dầu cù là (kiểu thuốc cao) hiệu con Cọp lừng danh...
Ngày thường, khi đến trường, học trò ngồi trên lề đường mà chờ giờ vào lớp, ai có tiền thì ăn nửa xu xôi nước dừa hoặc chén mì ngọt, mì nấu với đường.
Đốc học là người Pháp, về sau là người Việt. Trường gần mé biển, nơi âm u, rác rến, bãi bùn, cây bần mọc um tùm; một ngôi nhà dưỡng lão, nửa đóng nửa mở, mặt tiền day ra biển. Mấy năm ròng rã, hằng ngày tôi thấy một ông lão hiền lành không nói chuyện, miệng cười tươi đi qua đi lại trước cổng trường, quần áo xơ xác, đeo một xâu dài chừng vài chục chiếc guốc phế thải, từ cổ lòng thòng xuống tận gối, học trò gọi ông là già Khá, tên của ông. Ai cười, ông cũng cười theo.
Ở trường tỉnh, đã thấy sự phân hóa rõ rệt giữa học trò giàu và học trò nghèo. Đứa giàu mặc sạch sẽ, lắm khi mặc kiểu Âu phục, lại đi chiếc xe đạp nhỏ, ít thấy, từ Pháp nhập qua. Thầy giáo cũng đủ hạng: Vài thầy mặc áo dài đen, quần trắng, trông nho nhã; có thầy mặc áo sơ mi tươm tất, cổ tay gài với kiểu nút rời màu vàng, đồng hồ quả quýt bỏ túi quần. Lại còn vài thầy mặc bèo nhèo, hút thuốc, chiếc xe đạp rỉ sét. Bất cứ thầy nào đi ngang qua đều được học trò chào kính cẩn.
Phần đông các thầy từ Long Xuyên, từ Sa Đéc đến. Một thầy ngày thứ năm đến dạy chữ Nho (chữ Hán) cho một khóa riêng, không bắt buộc. Tội nghiệp thầy này, nghèo quá mức, hằng ngày đôi khi học trò thấy thầy làm phu xe kéo, đội nón lá.
Thầy từ Bình Định đến, ăn nói giọng hơi khó nghe đối với trẻ con. Học sách Hán Văn Giáo Khoa Thư do ông Lê Thước và vài bạn biên soạn, từ Hà Nội gửi vào. Tôi đi học, nay còn nhớ câu ở bài đầu: "Gia môn tiền cao đáo ngả hà".
Học trò vài đứa nhại lại, lúc ra sân: Môn là cái "cửa", cái "cửa" đi ra đi vào. Cửa, nhưng thầy phát âm là cửa. Có đứa ác miệng hơn, nói một câu rất chói tai, chẳng biết từ kẻ nào đặt ra: "Nào có ra gì cái chữ Nho, Cu li xe kéo dạy học trò".
Vào lớp thầy đi guốc, mặc chiếc áo dài đen rách, vá đôi ba chỗ.
Chợ Rạch Giá hiện ra dần dần nhiều xuồng nhỏ bơi tới bơi lui, sát bên ghe khách vãng lai để mời mọc ăn chè, ăn bánh canh ngọt, bánh canh mặn, nước ngọt (gọi là rượu bọt bỏ ve, hoặc xá xị). Ghe xuồng giảm tốc độ di chuyển để tránh đụng chạm nhau.
Người trong ghe ngóng cổ ra ngoài xem cảnh chợ náo nhiệt trên bờ, rồi nhanh nhẹn vào mui thay quần áo. Bộ quần áo đã giặt kỹ, xếp ngay ngắn, dằn dưới chiếu, hằng đêm ngủ lên trên cho thẳng thớm. Miền quê thuở ấy chưa ai xài bàn ủi (bàn là), họa chăng vài nhà điền chủ lớn mà thôi.
Cha mạnh dạn đi trước, khép nép sát bên lề, hai đứa con trai theo sau, còn nắm tay nhau, sợ đi lạc, nhưng mươi bước sau thấy dạn dĩ. Chỉ phiền cho đôi guốc gỗ, đứa anh thì đi được, tuy đau nhói vì đôi quai hàm làm bằng da heo (thuộc cho cứng ở Chợ Lớn), làm phồng da; đứa em thì cứ xách đôi guốc vào tay, đi chân đất.
Gọi thế nhưng là đi trên đường tráng đá, tuy nóng nhưng dễ chịu. Dần dần, hai cậu bé (bóng dáng của người viết hồi ký này) thấy dạn dĩ hơn vì chung quanh tuy có người giàu nhưng còn quá nhiều đứa bé lam lũ, lặn hụp dưới con rạch mà nước dơ đổi ra màu đen.
Bóng dáng của những người vác lúa. Họ còng lưng, mồ hôi chảy ròng ròng. Sát bên lề đường là quán nhỏ, che lá rách, bán thức ăn, thức uống cho dân lao động.
Đến nhà quen, tạm trú một đêm. Đêm ở chợ, náo nhiệt quá, trẻ con đùa giỡn đầy ngõ hẻm, nhà chật, cứ ngồi co rút trong nhà. Vài đứa trẻ rủ đi chơi, ra đường cái. Đến mé rạch, bờ kè đá, thấy nhóm người tụm lại đàn ca.
Ai cũng biết đàn ca Vọng cổ, với đàn kìm, đàn cò... Họ thay phiên nhau hát, điệu nhạc buồn nhưng nghe cũng vui vui, nhờ điệu bộ diễn xuất, vụng về nhưng như thật, gương mặt của kẻ bị phụ tình... Khán giả mỉm cười.
Khán giả là đám bình dân, quần áo vừa chỉnh tề vừa buông thả, nút áo ở cổ không cài, áo bà ba. Họ là phu vác lúa, có người là phu xế (gọi là lơ xe đò, xe khách), có kẻ hút thuốc liên miên. Họ hứa lần sau sẽ đem thêm rượu và thức ăn nhậu.
Vài người qua lại đứng nhìn, dường như chê bai. Nhưng Vọng cổ đem lại cho họ niềm tự tin về nhạc Việt Nam. Lớn lên, tôi mới hiểu thêm đây là sức mạnh của vô thức, tiềm thức.
Ai mà biết hơi hướm của bản nhạc còn thô kệch này đã có từ buổi người xứ Huế than thở cho số phận của công chúa Huyền Trân "mượn màu son phấn, đền nợ Ô Ly" qua nhịp phách khoan thai, rồi đến đá Vọng Phu, Phú Yên.
Bấy lâu nay, ở vùng sông nước chằng chịt với chợ làng, chợ nổi ven sông, đêm thanh vắng những câu hò, câu lý xen nhau dài theo con rạch, con kênh gần như vô tận, qua khúc lượn khúc vịnh, về đêm, trên nhánh "bần ghe có đom đóm đậu sáng ngời". Lấy nỗi buồn sâu kín của kẻ chịu đi xa, thật xa để làm ruộng gần như không ngày về, để làm vui!
Bản Vọng cổ nhờ nhiều địa phương, nhiều giọng hát điều chỉnh lại hơn 10 năm sau mới tạm định hình, để lấn chiếm từ từ bản Tứ Đại Oán.
Sáng tạo là mở rộng, ai hay đó là nhạc Việt Nam hội nhập với hơi hướm nhạc Đông Nam Á của khối Ấn Độ, Chăm Thành – dễ nhận ra tuy đã nhuần nhuyễn, trở thành một thứ dân ca cao cấp của vùng đồng bằng và cả Nam Bộ. Giọng ca phải "mùi mẫn", theo nghĩa là lãng mạn, buông thả tự do nhưng giữ chắc nhịp.
Người ca ở mức trung bình có thể tự nhận là kẻ tài tử, để rồi rèn luyện kỹ thuật, giữ "điệu nghệ" tức là kỷ luật nội bộ lúc giao du với các bạn tài tử khác.
Ca không phải để kiếm tiền nhưng là để "di dưỡng tính tình", theo nghĩa thư giãn, giải tỏa những bức xúc vì sinh kế làm ăn tư bản thực dân đang chế ngự.
"Thiếp tâm cổ tỉnh thủy". Câu thơ Đường mà sau này tôi đọc được nhắc nhở mãi một điều quan trọng. Lòng dạ người thiếu phụ giữ chung thủy với người yêu, sống thầm lặng như nước giếng mát lạnh, không nhơ bẩn, ở đáy một giếng xưa, vô danh, qua sự thử thách của thời gian.
Một thái độ bảo thủ quý giá, đan khiêm tốn. "Ếch ngồi đáy giếng, thấy bao lăm trời". Ra khỏi miệng giếng để mở rộng tâm hồn nhưng nên nhớ mãi những gì quý giá mà mình đã hấp thụ được ở đáy giếng.
Để dần dần thấy "chốn quê hương hơn cả." Đáy giếng xưa xem như chẳng có giá trị, nhưng lắm người không có được cái giếng ấy để làm chuẩn, đối chiếu với những gì rạng rỡ, mà lắm khi phù phiếm trên bầu trời, đó đây.
Vùng nông thôn quê mùa lắm khi là khởi hứng của người làm văn chương thi phú. Và đối với đứa học trò nhỏ, sinh trưởng ở thành thị thì cái thành thị buổi xưa vẫn là nơi quê mùa, một thứ "thiên đường thơ ấu".
Rạch Giá, xứ quê của tôi là con rạch mà nơi cửa biển mọc nhiều cây giá nguyên sinh, không có cây đước với rễ chằng chịt từ trên cao mọc tua tủa, cắm xuống bãi như ở Cà Mau. Nước biển tại Rạch Giá thiếu độ mặn để làm ruộng muối.
Cây giá ấy gần như không còn, họa chăng ở mạn Nam bờ Rạch Giá, ăn xuống phía Cà Mau. Rải rác vài cây khá to, lá xanh và lá đỏ máu chen nhau trên một cành, về già, lá giá đổi ra màu đỏ, tươi mát chứ không đổi ra lá vàng.
Rễ cây giá không to, cứ chằng chịt quấn vào nhau theo vòng tròn, trông như ở dưới gốc có mang theo một cái lốp xe ô tô. Sóng đánh mạnh, gió thổi to thì thân cây cứ lúc lắc qua phải, qua trái, rễ không ăn chặt vào đất bùn. Mủ cây giá khá độc, nếu rủi dính vào mắt.