PHẦN I GIỚI THIỆU HỌC THUYẾT TỰA
Thuở xưa, khi Hán học nước ta còn thịnh, việc học, phép thi lấy đạo Nho làm gốc, kẻ theo học đường cử nghiệp muốn cái vinh hạnh “Xuân phong đắc ý mã đề tật, Nhất nhật khán Trường An hoa”[10], bắt buộc phải nghiền ngẫm Tứ thư, Ngũ kinh[11]; học thuộc Nam sử, Bắc sử, mà không cần đọc những sách khác – gọi chung là Ngoại thư. Rảnh rang, muốn cho kiến thức rộng thêm thì xem Đường Tống Bát Đại Gia, ngâm Sở Từ, Nam Hoa[12], chứ ít khi tìm đến Dương, Mặc, Tuân, Hàn[13]; “phải tịch Dương, Mặc, mới là môn đồ của thánh nhân” (Mạnh Tử), vì Dương vô quân (không biết có vua) mà Mặc vô phụ (không biết có cha), Hàn thì đề cao “pháp trị” (trị nước bằng hình pháp), trái với chủ trương “Lễ nhạc trị” của tiên vương, còn Tuân thì đã mang tiếng không phải là nhà Nho chính thống. Theo Tống Nho, người mình thuở đó cũng cho rằng Nho gia chính thống, sau Khổng Tử là Tăng Sâm, Khổng Cấp, Mạnh Kha (Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử) kia! Tuân Tử đả kích Tử Tư, Mạnh Kha nặng lời (Tuân Tử: Phi thập nhị tử), sao được gọi là nhà Nho chính thống? Suy luận như vậy thật oan cho họ Tuân. Họ Tuân cũng “du văn ư Lục Kinh chi trung, lưu ý ư nhân nghĩa chi tế” (Lặn lội trong văn Lục Kinh, chú ý đến điều nhân nghĩa), cũng “hiển chương Văn, Vũ, tôn sư Trọng Ni” (Phát huy đạo của vua Văn, vua Võ, tôn trọng ông Trọng Ni (Khổng Tử) làm thầy). Cái học của Tuân, theo các học giả hữu danh gần đây, thật ra cũng là cái học chính truyền của Văn Vương, Khổng Tử; Mạnh Tử với Tuân Tử cùng xiển minh đạo Khổng, có điều mỗi nhà dưới những khía cạnh riêng biệt mà thôi.
Rồi phép thi cũ bỏ, học chế đổi mới. Một số học giả nặng lòng với học thuật cũ, đã bỏ công nghiên cứu, phiên dịch và chú giải sách của chư Tử: Khổng Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Trang Tử, Quản Tử, Vương Dương Minh… Duy, Tuân Tử cho tới nay, chưa có một chuyên biên nào giới thiệu (chúng tôi nhớ: mười mấy năm trước, một cơ quan văn hóa nhờ một cụ cử viết về Tuân Tử, cụ đáp: “Viết về con người đó làm gì?”!). Đó là một thiệt thòi cho người hiếu học, chưa đầy vốn liếng chữ Hán mà muốn tìm hiểu rành mạch triết gia này, để có được cái nhìn tổng hợp và trọn vẹn về Nho thuật. Nghĩ vậy, chúng tôi soạn tập TUÂN TỬ này.
Sách gồm hai phần: Phần I giới thiệu học thuyết và phần II trích dịch bản văn.
Học thuyết Tuân Tử đã được giới thiệu khái quát trong Nho Giáo của Lệ Thần Trần Trọng Kim, Khổng Học Đăng của Phan Sào Nam và trong chuyết tác Đại Cương Triết Học Trung Quốc – Quyển này trình bày học thuyết theo hệ thống ngang[14]. Phần I tập lược khảo này trình bày theo hệ thống dọc, tuy cũng chưa được cặn kẻ, nhưng tương đối đầy đủ hơn và dễ đọc hơn, nhất là cho những ai mới bắt đầu làm quen với triết học Trung Quốc.
Bộ Tuân Tử chữ Hán lưu hành hiện nay gồm 32 thiên, trong đó có bốn thiên quan trọng nhất là Thiên luận, Chính danh, Giải tế và Tính ác. Chúng tôi dịch trọn bốn thiên này. Ngoài ra còn dịch thêm ba thiên Khuyến học, Tu thân, Bất cẩu và một phần các thiên Phi thập nhị Tử, Lễ luận, Nhạc luận, Phú quốc, Vương đạo, Trọng Ni… Những thiên còn lại, thì chúng tôi tóm tắt đại ý.
Sách Tuân Tử có một số chữ thất thoát, một số chữ khác sắp lộn hoặc in sai và một số nữa dùng theo những nghĩa đặc biệt mà lại không được nhiều người hiệu đính, chú giải, như các sách chư Tử khác. Hơn nữa, đôi khi cùng một chữ, một câu mà các nhà chú giải lại cắt nghĩa khác nhau, trái ngược nhau nữa! Gặp những trường hợp khó khăn như thế, chúng tôi đối chiếu ý kiến các nhà rồi châm chước với ý riêng mà dịch, sao cho không trái với chủ chỉ học thuyết của tác giả thì thôi.
Công việc của chúng tôi, nhất là phần phiên dịch, gặp khá nhiều khó khăn, mặc dầu đã rất thận trọng, chúng tôi vẫn e khó tránh khỏi những lỗi lầm, thiếu sót. Chúng tôi rất mong được sự khoan dung và lời chỉ giáo của các bậc cao minh.
Sài Gòn ngày 15 tháng 10 năm 1978.
Biên giả
[10] Trường An Hoa: Thơ Thi đậu của Mạnh Giao đời Đường: Đắc ý gió xuân tung vó ngựa, Một người xem hết một thành hoa!
[11] Tứ thư: Bốn sách: Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung, Đại Học. Ngũ Kinh: Năm kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch và Xuân Thu.
[12] Đường Tống Bát Đại Gia: Tám nhà văn lớn đời Đường và đời Tống là: Hàn Dũ, Liễu Tôn Nghiêm, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức (Tô Đông Pha), Tăng Củng (Tăng Tử Cố) và Vương An Thạch (Vương Kinh Công).
Sở Từ: các bài phú của Khất Nguyên, Tống Ngọc.
Nam Hoa: tức Nam Hoa Kinh hay sách Trang Tử.
[13] Dương, Mặc, Tuân, Hàn: Dương Chu, Mặc Địch, Tuân Huống (tức Tuân Tử), Hàn Phi.
[14] Tức Đại Cương Triết Học Trung Quốc của Gian Chi và Nguyễn Hiến Lê. (Goldfish).