← Quay lại trang sách

- I -

Tiếng gà sang canh đẫm hơi lạnh nửa đêm nghe đã thấy buốt rợn. Thụ và Viết vẫn chưa ngủ. Có lẽ đêm nay cũng chẳng còn mấy lúc mà ngủ nữa. Hai người ngồi thì thầm trước cái bếp lửa giữa gian bên - lửa vạc hẳn từ bao giờ, tàn than đã nhờ nhờ trắng và cái lạnh tê tái cứ bò dần dần lên vai, xuống sống lưng.

Viết nói:

- Tháng sau thì cưới chị Dụ...

Thụ im lặng nhìn, không chú ý vào bếp và không đáp. Câu nhắc nhở thân tình ấy của Viết vào lúc này lại gợi trong Thụ một ý nghĩa khó chịu khác. Hôm qua, trên tàu hoả Nà Sầm xuống Đồng Đăng, lúc tàu qua Cốc Nam, Thụ ra cửa toa nhìn sang rồi rỉ tai Viết:

- Quãng này sang bên kia có mấy bước chân thôi, Viết ạ.

Viết ngước mắt, khẽ hỏi lại Thụ:

- Đi à?

Lúc ấy, Thụ nhìn Viết, vẻ ngạc nhiên. Bởi vì chuyện cùng nhau đi Trung Quốc tìm cách mệnh, đối với hai đứa, đương như người đã co cẳng sắp nhảy vượt bờ rào. Câu hỏi chứng tỏ Viết có chiều ngần ngại. Mới biết, hiểu được lòng người thật khó. Nhưng nghĩ thế, Thụ chỉ thấy càng thương Viết. Thụ nhẹ nhàng đáp lại không biết là trả lời câu nào của Viết nhưng không một vẻ khó chịu:

- Biết thế, nhưng mà chúng mình lỡ hẹn ở Nà Sầm rồi.

Hai người lại trở về Nhân Lý.

Từ lúc ấy, dọc đường, hầu như không ai nói một câu.

Thụ đoán Viết lưỡng lự, Thụ không muốn ép. Mẹ Viết già yếu. Bố thì nghiện, càng ngày càng nghèo. Mấy năm nay, hễ ở trong xóm nghe tiếng trống tùng tùng ngoài Đon Đình thì mọi người đoán đấy là trống báo có một đám ruộng nhà Viết lại sắp phải đi sang cửa nhà khác (1). Mà đúng như thế. Thụ thương Viết lắm.

Nhưng Viết chưa hiểu nổi rằng: “Phải đánh thằng Tây, lấy lại được nước, phải vật cổ bọn vua quan lính tráng kia xuống thì mới phá được cái đau đớn ấy”, muốn thế, hãy đi tìm cách mệnh. Mỗi lần ở thị xã về, Thụ đã bàn bạc nhiều, nhưng Viết lúc thì hăng muốn đi ngay, lúc thì lặng im, Viết sợ, Viết hơi chập chờn. Hôm trước, Viết đã mạnh bạo đi Nà Sầm với Thụ. Nếu cứ sang ngay Cốc Nam lúc ấy, chắc Viết đi luôn. Nhưng đến một người đi chợ cũng không gặp. Nếu có ai, chỉ hỏi thăm đến được Bản Đảy là đi ngay thôi. Nhưng rồi Viết lại trù trừ. Thụ muốn kêu lên: “Viết ơi! Mày nghĩ thế nào?” Ấy là lúc Thụ càng tha thiết nghĩ và thương và giận bạn.

Bây giờ thì Thụ đã nghĩ dứt được: Viết có cái khó. Viết chưa quyết tâm. Thôi, để rồi cũng có khi. Không thể bắt buộc. Thụ định lần này không rủ Viết nữa.

Một lúc, Thụ nói:

- Ừ đến tháng sau thì cưới chị Dụ mình, rồi đến Tết. Mình đã nói với chị ấy, nếu em về kịp ăn cưới chị thì may, bằng không thì khi nào em về được, em về. Lần lữa rồi lại đến Tết, không được. Bây giờ Thụ đi, Viết ạ.

Viết hỏi nhanh:

- Đi bây giờ a?

Thụ không đáp thẳng câu hỏi, mà trông ra ngoài khe vách, nói:

- Gà gáy sang canh lâu rồi. Thế là chúng mình thức gần suốt đêm.

- Sao bảo đợi có hẹn ở Nà Sầm về rồi mới đi?

- Không đợi nữa. Nhưng lần này Viết hãy cứ ở nhà, để mình sang bên ấy nghe tình hình ra sao đã.

Viết “à” một tiếng nhỏ, như thở dài. Vẻ vừa tiếc, vừa ngượng. Và Viết cúi mặt, không nhìn Thụ.

Lúc ấy, một cơn ho thiếu thuốc phiện như bị sặc, kéo đến, dựng bố Viết ở giường bên rũ rượi ngồi dậy. Rồi tiếng ho cứ thúng thắng mãi của người già trong đêm khuya càng làm cho Viết thấy mình buồn hẳn đi. Thụ không biết được mắt Viết đã ướt. Trong bóng tối, Viết để mặc cho nước mắt chảy ướt trên mặt.

Thụ bước đến bên giường bố Viết.

- Chào bác.

- Cháu đi à?

- Cháu phải đi ra Đồng Đăng cho kịp tàu xuôi sớm.

- Cháu đi đâu?

- Cháu đã xin được chân ký ga ở dưới xuôi.

Ông cụ lại ho. Ông cứ trừng mắt nhìn Thụ, rồi hổn hển nói:

- Cháu ơi! Đến ngày cháu về chắc tao chẳng còn sống, tao biết rồi.

- Không, bác vẫn khoẻ, cháu mong bác vẫn bình yên khoẻ mạnh.

Ông cụ lắc đầu.

- Cái chân này xưa nay của mình mà bây giờ mình cũng không sai bảo được nó đi đâu nữa rồi, khó quá.

Viết và Thụ ra đầu hè. Thụ lại nói: “Để mình đi nghe tình hình cách mệnh ra sao, khi có tin về thì đi cùng nhau đấy”. Rồi Thụ bước vào trong làn sương mù có lẫn trăng suông phủ xuống dưới thung, sang tận dải núi bên xóm Bó Lào. Nét núi mờ dường như kéo dài ra.

Viết bàng hoàng quay vào, ngồi một mình trước đống lửa vạc. Ông cụ khập khiễng bước sang bên vách, khuân hai cây củi mới đến, đặt xuống khơi lại cái bếp.

Bấy giờ, có ánh lửa, người ngồi bếp mới có bóng. Bỗng nhiên, ông cụ đăm đăm nhìn bóng mình rồi nói hổn hển và sôi nổi, trong tiếng lép bép củi mới nổ.

- Con ạ, ngày trưóc, cái khi nhà ta còn ở trên Đồng Đăng, đã có nhiều lần vào lúc nửa đêm thế này, tao đưa các ông cách mệnh đi Long Châu, ờ, cũng vào những tháng rét sắp Tết này... Các ông nói các ông đã theo cách mệnh đánh Tây rồi bây giờ xuống thuyền ra bể đi tìm cách mệnh ở bên Nhật Bản và tận những đâu, nhiều nơi nữa. Tao biết cả, tao hỏi thế thôi chứ tao biết cái chí thằng Thụ...

Viết nhìn bố, thấy lạ hẳn. Từ khi lớn, Viết chỉ thấy bố ốm, bố gầy yếu mãi đi. Viết chỉ thấy quanh năm bố đi cày, đi trèo hồi thuê - hồ như không biết một việc gì khác ở đời và không nói ra những câu như thế bao giờ. Nhưng thế là bố đã biết cả.

Viết khóc thành tiếng, như khi còn bé. Viết muốn chạy ngay theo Thụ. Viết gục đầu xuống, ôm hai tay lên mặt.

Đêm ấy, Thụ đi tắt đường sang châu Điềm He. Vừa hay, tảng sáng thì tới Bản Hẻo.

Đi suốt đêm ngoài sương, nhạt hết hơi người, vào đến trong xóm, con chó cũng không biết. Không một tiếng chó cắn. Thụ cứ tự nhiên vào đi quanh dưới gầm sàn nhà Chi. Đến đúng chỗ giường Chi nằm - Thụ đã biết trước, Thụ khẽ gõ ngón tay vào cái xà gỗ. Lập tức, nghe tiếng chân động sàn ngay. Như cả đêm qua Chi vẫn thức đợi. Đúng là Chi vẫn thức đợi Thụ thật. Thụ rón rén đến để đợi Chi ở bên cái chân thang nhỏ đằng sau bếp.

Chi đã xuống đứng đấy, nói:

- Đợi mấy hôm rồi!

Thụ cười - miệng cười mở rộng. Thụ cảm thấy mọi việc trôi chảy. Những suy nghĩ về Viết trong đêm qua làm bận tâm Thụ, đến bây giờ gặp Chi, mới thấy lòng thanh thản và bồn chồn, sôi nổi hẳn lên, sẵn sàng... Hai người cùng nghĩ như nhau:

- Đi.

Nói đến đi tìm cách mệnh, đi làm cách mệnh, bao giờ hai người cũng tưởng ra một đoàn tàu hỏa đương vun vút lao, trên mình đoàn tàu oai hùng lấp lánh ánh sáng bóng cây và bóng nắng liên liến đưa qua các cửa toa những hình ảnh chuyển động, rực rỡ, những cái gì thay đổi. Tiếng còi tàu nổi lên, xé ngang mọi băn khoăn và luôn luôn thúc giục người đi xa.

Thụ và Chi đi. Người vượt biên giới hay chọn đi vào ngày gần Tết, cũng có ý riêng. Áp Tết, cướp cũng vãn, khỏi gặp trắc trở, lính tuần thì có vẻ trễ tràng. Đến lính tráng cũng bỏ tuần Phong, còn phải chạy chợ, lo cho miếng ăn ngày mừng năm mới.

Đưòng lên biên giới cứ thuốn sâu vào những thung lũng nhỏ, mỗi lúc một khép lại giữa hai gò núi. Ngọn đá lô xô như ai vừa giơ lên những ngón tay thật cao, nhọn hoắt, tưởng gió thổi đương lung lay.

Hai người tạt sau núi, chỗ Cốc Nam. Cốc Nam chỉ cách Đồng Đăng chưa đầy hai ki-lô-mét. Chỉ một bước chân đã đến đất Trung Quốc. Tuy nhiên, Thụ cảm động, nghĩ: ta đang đi trên con đường tìm cách mệnh. Bởi vì, tuy chỉ mới một bước chân, nhưng trong lòng đã nhất quyết và thấy khác hẳn trước khi đi.

Các làng đương vào những ngày áp Tết.

Gặt xong, mọi công nợ bắt đầu trang trải. Trước nhất, thóc nhà khó vào yên bồ nhà giàu. Trong làng, vẻ Tết đã dần dần hiện ra. Chưa phải chuyện yên vui, mà những lo lắng đến trước. Con ngựa, là cái chân giúp người kiếm ra tiền. Tết đến, nhà ai có ngựa thì phải buộc cái cây tiền ấy vào trong tàu rồi đành ngày ngày đi cắt cỏ về cho nó ăn. Vào tháng củ mật này, con ngựa chỉ chót quá chân gặm cỏ xế xuống chỗ ruộng thấp, cái đuôi ve vẩy vừa khuất, đã có thể bị người ta dắt biến vào rừng. Người ăn trộm lúc nào cũng vơ vẩn đứng sẵn đầu ruộng. Chẳng thế mà cứ sắp Tết, cả đến những con bò, con trâu cũng biết sợ, chịu nằm yên trong chuồng đầu nhà và dưới sàn. Người ăn trộm đi rình bắt trâu bò, bắt lợn cả đêm.

Tết đã đến.

Người buôn bán vào các làng bán rượu, bán muối, bán miến. Những người đi gánh hàng thuê, quần xắn, cái nón “tu lờ” ngật ra đằng sau. Cái đầu trọc nhấp nhô giữa hai chiếc túi chàm lớn đựng hàng. Bàn chân vấp đá, bật ra bùn và máu. Người gánh hàng thuê vẫn ngày ngày lom khom xuống dốc lũng, cố gắng, hòng kiếm ít lãi ăn Tết.

Tết đã đến.

Các chợ Ải Khẩu, chợ Lũng Vài bên Trung Quốc hay chợ Nà Sầm, chợ Đồng Đăng, chợ Kỳ Lừa bên này, đã thấy người các làng về sắm Tết, chơi Tết đông hơn phiên chợ thường. Lại thấy về từng bọn trai gái ngồi trong các cầu hát đối hết đêm đến sáng, hát sang suốt cả ngày chợ. Cái vui cái lo của con người cứ chen lấn, quấn quýt cùng về với nhau khi năm hết Tết đến.

Tết đã đến.

Vào dạo áp Tết mỗi năm, trên những chuyến tàu đường Lạng Sơn, người sẵn tiền hay về xuôi sắm Tết đông. Thoạt nom cũng biết ngay người thị trấn đường ngược. Thanh niên đi giày tây gan gà có cổ, áo lương hay dạ Mông Tự, đầu chít khăn lượt mốt mới, khá thịnh hành. Người đứng tuổi thì giày ban, giày Gia Định, dưới mũi để lún phún cụm ria Hoa Kỳ. Có người xốc vác và mới hơn nữa, mặc bộ tây ka-ki vàng, như tay thầu khoán hoặc nhà đoan. Mấy năm nay đời sống thành thị tràn ngập mọi nơi, chỉ xem cách ăn mặc của người ta, khó phân biệt xuôi hay ngược.

Thế vậy. Trên những con tàu xuôi ngược, ai mà biết người xuôi lên hay người Lạng Sơn xuống. Tuy nhiên, nếu để ý kĩ, dù áo quần tương tự vậy, nhưng vẻ lặng lẽ và trầm ngâm ở một số người, cũng dễ thấy là lạ. Thường, những người ấy ngồi yên một chỗ, nhưng cứ ở đầu hay cuối toa, trên con tàu chật ních. Con mắt nhìn thoáng, rất nhanh. Có khi đeo kính rợp. Những người vẻ tương tự thế chỉ thỉnh thoảng gặp trên tàu Lạng Sơn. Tuy nhiên, cái đó cũng bình thường. Người buôn các nơi đến Lạng Sơn và ra cửa khẩu cũng nhiều.

Bấy giờ đương vào quãng năm một nghìn chín trăm hai mươi bảy (1927). Đất nước lại trải những cơn bồng bột mới. Tiếng bom Sa Diện cứ vọng lại như hòn đá ném xuống nước, vòng sóng động xa đi mãi, càng làm cho những người thanh niên băn khoăn và thấy con đường cứu nước đương mở ra ở khắp nơi. Họ càng cảm nỗi đau mất nước và cảnh nhục nhã chịu sự đàn áp của thằng Tây và vua quan giày vò bao nhiêu thì lại càng khó thở trước cuộc sống bé nhỏ và thảm hại, đầy vướng mắc, đè nặng. Các thế hệ tuổi trẻ đều thấy tự nhiên rằng làm đòi người không thể là thế này mà còn cần có một ý nghĩa gì cao cả hơn. Trưóc hết, phải vùng lên, phải đi. Thế là họ đi. Lên Lào. Sang Xiêm. Vào Sài Gòn. Xuống Hải Phòng. Họ đi khắp nơi. Họ trốn xuống tàu biển. Họ rủ nhau tìm ra các vùng biên giới.

Các cụ già ở biên giới bây giờ còn kể chuyện cứ mỗi thời kỳ trong nước có biến cố lại có từng đợt người ra đi qua Lạng Sơn. Hồi Đông Du, thấy nhiều người già, nhiều ông đồ nho. Có những người đường trong, nói tiếng Kinh khó nghe. Rồi từ năm trước đây, quãng 1926 trở lại, có rất nhiều thanh niên, đôi khi hàng trăm người, cả đêm vượt núi qua biên giới, đi tìm cách mệnh... Hầu hết đều ăn mặc tương tự những người Lạng Sơn về xuôi sắm Tết như ta vừa gặp trên tàu, mũ cát, giày có cổ, áo lương hay áo tây vàng, ngồi cuối toa, gần cửa lên xuống và đôi mắt trầm ngâm. Đấy không phải người buôn. Cũng không phải người đi sắm Tết. Họ là người đi tìm liên lạc với cách mệnh. Bọn Pháp đi tuần, gặp, rất sợ. Chỉ hỏi một câu, chậm trả lời, là đạn đã bắn đến rồi.

Trên những chuyến tàu lên Lạng Sơn, họ tránh xuống các ga chính - thường ở đấy có lính gác và mật thám rình sẵn. Họ không vào Kỳ Lừa, Đồng Đăng hay Nà Sầm. Họ xuống lơ lửng ga xép quãng Tam Lung hay Quán Hồ. Ở đấy, đã có người của tổ chức đón rồi đưa tắt qua các làng biên giới. Trong đám thanh niên ấy cũng đông những người chỉ có tấm lòng sốt sắng trong đầu mang máng nghe phía ấy có cách mệnh, họ đi. Nếu may, đi được, không may, phải đạn chết giữa đường hoặc lại sa vào tay mật thám.

Các làng biên giới đương dần dà vào những ngày áp Tết.

Con trâu kéo mật thong thả bước quanh cái trục gỗ, cổ rướn lên, suốt ngày kẽo kẹt ngoài đầu xóm. Dù buồn hay vui thì cái Tết cho mọi người cũng cứ đương đến. Nhà chức việc, các quan trong làng làm lễ sắp ấn và xếp giấy tờ đã lâu. Ai vô phúc có việc hầu kiện lúc này phải có lễ lạt đút quan làng gấp mấy lần tiền tháng trước. Các nhà làm then trong xóm đã cúng tất niên. Bàn tay cô then trắng xanh phẩy phẩy trên mặt đàn. Tiếng đàn tính phảng phất đến tàn canh.

Câu hát Nùng tình tứ lượn trên đám khăn áo chàm mới xanh biếc.

Hoa đẹp bướm đến đậu

Thấy từng đôi sánh bay

Thấy anh lẻ loi

Thật khó nghĩ (2)

Có hai người thanh niên quyết tâm vứt hết những ràng buộc hàng ngày. Cái Tết đẹp và những cuộc chơi của tuổi mười tám cũng không giữ được chân họ. Tiếng gọi cứu nước đêm ngày nung nấu, thôi thúc, giục giã. Họ không thể ngồi yên. Họ không thể ở lại. Thụ và Chi bước chân đi tìm liên lạc với cách mệnh.

Hai người đi hào hứng như đi sắm Tết. Xúng xính quần áo tốt hệt người thanh niên đi chợ hát đối. Trong lòng náo nức - như cả một chuyến tàu đông vui chạy qua làn nắng, đương ầm ầm chuyển động. Tiếng còi kéo lên, tiếng gọi.

Thụ và Chi sang Bản Đảy tìm liên lạc.

Gần Bản Đảy có trấn Lũng Vài, Lũng Vài, một cái xóm nhỏ đến nỗi mỗi khi trời mưa xong thì những mảng tường đất xám lẫn vào bóng núi, không thấy gì nữa. Thế mà Lũng Vài cũng là một cái trấn nhỏ, có chợ có đố chữ, có quán hàng, cách Bản Đảy có một thôi đường.

Tuy vậy, sự giàu nghèo của đời người cũng phân chia đến tận nơi cuối cùng ấy. Nhà nghèo thì tiều tuỵ sắp đổ. Nhà ngói hai mái là giàu, có cửa hai tầng chống cướp, có con chó đá canh bên ngõ, cao to, trẻ con thường cưỡi chơi, đã nhẵn cả cổ chó đá.

Từ Nam Quan lên Ái Khẩu, qua trấn Lũng Vài, đường lính canh, đường đi chợ, đường buôn lậu, đường phía Lạng Sơn sang. Tự nhiên, Lũng Vài thành nơi dừng chân và ở đấy cũng đủ hiệu cao lâu và sòng bạc, xô bồ cũng có, của hiếm cũng có - như kiểu hàng quán ở các thị trấn biên giới Việt Nam. Bởi vậy, không phải chỉ đến buổi nấu ăn thì trên nóc nhà mới có khói, như một làng bình thường, mà đôi khi, khói thui bò, khói quay vịt, khói nước làm lông lợn cứ cuồn cuộn cả ngày trên Lũng Vài như khói lò nung vôi. Nửa đêm, khách xa đến đập cửa, cũng có cháo gà “síu dề” và rượu hâm nóng.

Sớm hôm ấy có một đám ăn uống trong quán hàng phía tay trái ngõ. Ai cũng biết, bọn cướp sừng sỏ trong vùng hay tụ tập ở nhà hàng ấy. Thường có những người tận đâu đến, cả thị trấn không ai biết mặt. Nhưng cứ khi thấy nhà ấy có người vào ăn uống tràn lan ngày đêm thì có thể đoán đấy là đám cướp vừa đi “làm ăn” đâu về, vừa chia của, vừa chè chén, sát phạt nhau, đánh nhau, đã có lần to tiếng rồi đâm chết nhau ngay đấy.

Lúc đó, bàn rượu phía trong cùng vách đã tàn, còn lại có câu chuyện xoay quanh việc “có hai người bên Đồng Đăng mới sang Bản Đảy đến ở nhà thằng Lình”. Bát đĩa, nhà hàng đã dọn hết. Cái hũ sành đựng rượu đã dốc nốt đến không còn một giọt rồi mà những người uống không cho cất đi, cứ để cái hũ úp ngược giữa bàn. Có người ngồi gật gưỡng. Có người đứng ngoài, thỉnh thoảng nói chõ vào. Toàn chuyện giết người mà nói vang vang như nói giữa chợ Ái Khẩu. Cái đó không lạ, ở Lũng Vài thì câu chuyện và công việc của người ăn trộm, kẻ cướp, người đi buôn, người kiếm củi đều nói to nói nhỏ lẫn lộn như thế. Cuộc sống vùng biên giới nghèo khổ và dữ dội cứ thay đổi phút chốc, lúc này đi kiếm củi bán chợ, lát có người rủ đi cướp đường, cũng theo ngay.

Một người nói to:

- Cho vài cân rượu nữa.

- Đứa nào sắp dẫn quân đi kiếm Tết thì phải bỏ tiền ra.

- Xem!

- Được rồi, tao chỉ trả chỗ năm cân thêm này thôi nhé. Tao định thật thế đấy. Làm rốn chuyến nữa lấy tiền rượu Tết.

- Được.

- Nhưng nếu thằng Lình đã bóc nhẵn nhụi chúng nó rồi thì sao? Mà “thịt lợn” rồi thì phải đem “bán” chứ vứt ra đường được à? Nghĩ thêm cho kỹ, kẻo mất công toi!

- Chà chà, vứt xuống hang Háng Lò hai cái xác thì thấm vào đâu!

- Không nhầm được, xếnh xáng Hoàng biết rồi, hai thằng này là con cháu nhà quan thổ gốc bên Văn Uyên đấy. Bọn nhà giàu thì ở Lạng Sơn hay ở Long Châu cũng một giuộc như nhau, thằng Tây hay thằng Quốc dân đảng cho tiền, nó đều nuốt chửng. Bây giờ chán Tây rồi thì sang đây làm mật thám cho Quốc dân đảng rình bắt chúng mày đây. Đấy, xếnh sáng Hoàng này đi làm thầy địa lý sang Văn Uyên để mả, đã được uống rượu nhà nó rồi mà. Đằng nào cho chúng nó xuống hang Háng Lò chầu Diêm Vương cũng đáng tội thôi.

Thầy địa lý Hoàng Thỉnh Chang chỉ ngồi gật gù, không nói. Không biết ông thầy địa lý gật đầu để làm chứng việc hai thằng ấy sang đây làm đặc vụ, hay hai thằng ấy là con cháu tổng xã đoàn giàu có bên Văn Uyên, hay vì thói quen vốn có, hễ ngồi vào bàn rượu, được vài hớp rồi thì thầy địa Hoàng lại gật gưỡng cái đầu. Ông im lặng, nhấc vò rượu mới, làm một tợp.

Một người đập bốp cái chén sành xuống mặt bàn.

- Để một mình tao đi cắt tiết cho. Không có gì thì cứ hai đôi giày, hai bộ quần áo ấy tao lột ra bán cũng được.

- Chẳng bõ!

- Hai nhãi này đến ở nhà thằng Lình. Có đồng nào thì thằng Lình moi hết rồi, còn đâu phần mình. Công toi!

- Tao lấy một đôi giày đế da để đi Tết này cho ấm chân vậy.

Đến lúc ấy, lão Chang Dỉn Cò đứng ngoài mới nói vào:

- Đừng động đến người ta mà rồi chúng mình giết lẫn nhau đấy.

Thế là cả đám nhao nhao. Những cặp mắt say đỏ bèm cũng quắc lên nhìn Chang Dỉn Cò.

Chang Dỉn Cò lại nói:

- Hai người này có nhiều anh em đương ở Lũng Nghìu.

- Ai?

- Bọn nhà Mã Thành Nhân.

- Thế sao nó không sang Lũng Nghìu lại đến đây? A, mày nói say quá, láo quá!

- Nó còn đến Bản Đảy tìm lớp học cách mệnh. Ai cũng biết đấy.

Chỉ một câu ấy làm bọn cướp chưng hửng ra.

- À...

Cũng có người tiếc của còn phân vân. Nhưng không ai hỏi thêm. Câu chuyện nghe chừng thật như thế. Trông lại, thấy xếnh xáng Hoàng vẫn gật gật đầu, và trầm ngâm như lúc nãy.

Thế là việc giết người ném xuống hang Háng Lò nghe chừng nhạt. Bởi vì, ăn cướp đã không hẳn phải một nghề, mà việc này nhỡ ra lại có thể lôi thôi đến bà con quen biết và cũng như mình, bên Lũng Nghìu cũng chỉ toàn người nghèo xơ xác như ta, thế là không nên rồi.

Người chưa tin, còn cố gặng thêm:

- Sao mày biết nó có anh em ở Lũng Nghìu?

- Tao sang bán rượu nhẵn đất Thanh Loan, nhà nó, tao còn lạ! Cánh nhà Mã Thành Nhân trước ở bên Ma Mèo chạy sang đây từ ngày dân Khơ Đa, Ma Mèo giết quan phủ Tràng Định. Vợ lão Mã Thành Nhân là người Nùng ở Nhân Lý mà.

Chang Dỉn Cò biết đến gốc ngọn thế thì rành rõ quá rồi, không ai vặn thêm câu nào nữa. Cái lão chủ xướng vừa bỏ tiền mua thêm năm cân rượu, với tay lắc cái vò, lại hết nhẵn, không còn một giọt. Bực mình, lão quát một tiếng cộc lốc:

- Thôi!

Rồi đứng dậy dằn chiếc chén sành đánh cốp một cái xuống mặt bàn. Cái chén tống vỡ đôi.

Bấy giờ ở Long Châu sinh sống có một người thợ may họ Bùi.

Bùi vốn người huyện Nam Đàn ở Nghệ An. Hơn mười năm trước, năm ấy hai mươi tuổi, ở quê, Bùi có một người bạn tâm huyết, đêm ngày cùng nhau bàn chuyện cứu nước, đánh Tây. Một lần, hai người được đọc nhiều văn thơ của Phan Bội Châu cứ nhớ mãi câu “Ô hô, Côn Lôn bắc vọng, My Hà đông cố, ngã quốc giang sơn an tại tai” (Than ôi, từ núi Côn Lôn trông về bắc, từ sông Mê Kông ngó về đông, núi song nước ta ở đâu rồi). Hai người rủ nhau đi ra hải ngoại tìm Phan Bội Châu.

Hai người vượt núi lên Lào rồi sang Xiêm.

Những người Việt Nam đi tìm cách mệnh sang Xiêm phải xoay đủ mọi nghề để sinh sống: Làm thợ cày, thợ mộc xem tướng tay, đoán chiết tự, làm thuốc, kiếm củi, thợ may, thợ vườn... Có bọn người Xiêm ăn tiền mật thám theo riết. Một hôm, anh em nóng mắt, lỡ tay bắn chết một mật thám. Bị lùng dữ, bị bắt, không ở được, thế là hai người trốn đi Trung Quốc.

Xuống đến Băng Côc, lại mắc bẫy mật thám úp một lần nữa.

Chỉ còn sống sót có Bùi thoát được xuống tàu thuỷ sang Hồng Kông.

Một mình Bùi đi Hồng Kông.

Bùi đến Trung Quốc một năm sau khi Đặng Tử Mẫn đánh vào đồn Tà Lùng bên Cao Bằng bị thất bại, Bùi gặp ông Đặng.

Kiếm kế sinh nhai, Đặng đưa Bùi vào làm lính hầu trong quân đoàn Đổng Thiền Hoa ở Quảng Ghâu. Ít lâu sau lại ra theo Đặng đi vận động thổ phỉ. Nguyên do vì hồi ấy, Pháp và Đức đương đánh nhau bên châu Âu. Người Đức tìm cách làm rối loạn các thuộc địa của Pháp. Trong số những người cách mệnh Việt Nam lưu lạc ở Trung Quốc bấy giờ có Đặng Tử Mẫn. Đặng đã ra Thanh Đảo liên lạc được với người Đức, định nhờ cậy họ giúp chống Pháp. Đặng được một số tiền lớn đem về. Người đề mưu việc giúp Đặng chẳng phải tìm đâu xa, chính là quân quan trong quân đoàn của Đổng Thiền Hoa. Bọn Quốc dân đảng được cấp tiền vào Cao Bằng đánh đồn Tây. Nhưng để tránh tiếng, chúng xưng là thổ phỉ. Đặng đã đem được một toán vào úp Tà Lùng. Đánh một đêm, chưa hạ được đồn. Thấy không có tiền thêm, chúng bỏ mặc Đặng đấy, đi cả. Đặng và thủ hạ cũng phải chạy nốt. Thế là tan mộng đánh chiếm Tà Lùng. Nhưng Đặng vẫn chưa chịu. Đặng vẫn hy vọng thuê mượn được lực lượng, có phen lại làm trận nữa, có thể lại đánh vào Tà Lùng, hay vào Thất Khê, vào Đồng Đăng. Đặng đương mưu tính ráo riết.

Đặng vẫn theo đuổi, tính một trận kiểu Tà Lùng nữa. Tới khi ông Đặng bị Đàm Nhẫn, huyện trưởng Long Châu phản, lừa giết rồi chặt hai tay ông đem sang Đồng Đăng lấy thưởng của Pháp, Bùi lại một phen lang thang, khi Bách Sắc, khi Nam Ninh...

Có lần kia Bùi đương đi bán sách báo phái tả để kiếm ăn hàng ngày, nghe tin Cao Cô Nhạn, người bạn làm ở hiệu sách Nam Ninh bị Quốc dân đảng nghi là cộng sản, ngầm bắn chết, Bùi lánh đi Ngô Châu. Giữa đường gặp Trần Tú Trân trên bến, rủ đi Quảng Đông, Trần hứa bảo đảm cho Bùi vào dự lớp huấn luyện chính trị.

Vừa đến, được đi nghe đồng chí Lý Thụy (3) là người Việt Nam trong phái đoàn cố vấn Liên Xô ra dịch tiếng Nga cho cố vấn Bô-rô-đin nói chuyện trong cuộc mít tinh quần chúng ở chợ Quảng Châu. Rồi đồng chí Lý Thuỵ đến lớp giảng. Hai ngày nói về cách mệnh Việt Nam và công tác bí mật trong tổ chức cách mệnh.

Từ ngày ra đi, đến đây Bùi mới thấy thật cách mệnh là thế nào. Khi còn ở nhà, nghĩ rằng ra đi gặp Phan Bội Châu, được vào trường cách mệnh ăn học đến thành tài rồi kéo quân về đánh Tây. Đến khi bỏ Xiêm sang Trung Quốc, gặp những người cũ của Tôn Thất Thuyết, nhiều người đã cạn trí lớn, chỉ đi luồn cúi quan quân Quốc dân đảng kiếm miếng ăn như Nguyễn Hải Thần lại bảo rằng thế là đợi thời. Bùi cũng yên trí thế. Đến khi gặp Đặng Tử Mẫn, Đặng quát chửi bọn Hải Thần là giá áo túi cơm, Bùi mới nhận ra. Từ đấy, Bùi chuyên tập quân sự và theo Đặng đi mộ ngưòi.

Nhưng đến đây thì Bùi đã hiểu rằng cái nghĩa khí của ông Đặng rốt cuộc, cũng đến uổng mạng và chỉ còn lại một tiếng kêu trời. Đồng chí Lý Thuỵ nói rằng cách mệnh là việc của cả nước, phải vận động cả nước đứng lên làm cách mệnh, cả nước đi lên đường cách mệnh, người cách mệnh lập hội, đi mở đường cho cả nước là như thế. Cách mệnh chẳng những có mục đích trước sau rõ ràng, lại phải có phương pháp cụ thể, mỗi người mỗi việc, từng tổ, từng chi hội, cả Đồng chí hội rồi cả nước cùng tiến lên.

Sau đấy, Bùi được anh em cho về Long Châu, giữ mối liên lạc cửa ngõ ra vào trong nước, đằng Lạng Sơn và Cao Bằng. Thuê được cái máy khâu làm cách để sống. Đến khi tình hình trên Quảng Đông gặp khó khăn, không mở được lớp huấn luyện chính trị trên ấy, đồng chí Lương Việt (4) xuống liên lạc với Bùi và bắt đầu tổ chức lớp huấn luyện của thanh niên Cách mệnh đồng chí hội ở Bản Đảy.

Hai lớp huấn luyện chính trị ở Bản Đảy đã vang tiếng mạnh mẽ vào trong nước.

Hôm ấy, có người ở Quảng Châu về.

Bùi đưa Quang từ Long Châu xuống Bó Sa để đón liên lạc của cách mệnh trong nước vừa mới ra đến đấy.

Cái Tết rầu rĩ và bộn rộn đến Long Châu, cũng như cái Tết đến bất cứ nơi nào với người ta, ai nấy đều tất tưởi mà không biết đương vội cái gì.

Quang mặc áo bông cũ, đeo túi, lầm lũi vừa đi vừa tính, như người đi khất nợ hay người làm nghề cuối năm đòi nợ thuê. Bùi cầm cái thước, lụng thụng trong cái áo bông dài. Rõ anh thợ may đói việc đương đảo qua các xóm nhận hàng Tết. Không ai biết họ đương làm việc của cách mệnh.

Bùi tạt vào Bản Đảy tìm o Mai. Cẩn thận, Bùi không đến nhà. Thằng Lình, chồng o Mai, hồi này có ý khác. Thấy Bùi, o Mai mừng quá. Vốn tính hấp tấp, Mai nói ngay:

- Nghe nói có lớp huấn luyện, hai người này ở trong nước sang.

- Có giới thiệu không?

- Không.

- O biết đấy, lớp huấn luyện xong rồi, mà không biết có còn mở ở đây nữa không, ở đây không còn ai đâu.

- Thằng Lình dỗ người ta bỏ tiền ra, nó sẽ đưa đi Long Châu tìm cách mệnh. Nhưng nó tiêu hết tiền rồi bây giờ muốn xui bọn cướp ở Lũng Vài vào giết đi. Tôi không biết làm thế nào...

Bùi chau mày, hỏi lại:

- Hai người này ở đâu ra?

- Lạng Sơn.

- Bảo thằng Lình không được làm thế mà trong nước tưởng mình cũng là kẻ cướp thôi.

Mai nghe vậy, hoảng hốt như việc giết người sắp xảy đến nơi mình cũng phạm tội gây ra. Mai lật đật về nhà. Lình vừa đi vắng đâu. Mai bảo lại với Thụ: người của ta ở Long Châu mới về nói không có lớp huấn luyện ở Bản Đảy nữa đâu, phải về Lạng Sơn đợi bao giờ có lớp ở đâu, tôi nhắn hãy sang.

Chi hỏi Thụ:

- Bây giờ thế nào?

Thụ nói:

- Không về!

Rồi hỏi Mai:

- Cái người của ta ở Long Châu đến có còn ở Bó Sa không?

Lại hỏi:

- Có nghi ngờ chúng tôi là mật thám không?

Mai lặng im, không trả lời.

Thụ và Chi xuống ngay Bó Sa.

Hôm ấy, tình cờ làm sao mà còn mấy người nữa ở trong nước ra tìm cách mệnh cũng đến Bó Sa.

Có hai người đến Bó Sa trước cả anh em Thụ. Thoạt trông, biết ngay, cả vùng không ai giống thế. Họ đánh bộ tây vàng, như bọn cai lục lộ bên cầu Tà Lài vẫn sang các làng bên Trung Quốc lùng kiếm mua gà, mua lợn, đong mật về bán lại cho phu. Một người béo tốt, dáng ông chủ, nói lơ lớ tiếng Quảng Đông. Hai người này gặp ai cũng hỏi thăm: “Có thấy các ông cách mệnh Việt Nam không? Có thấy các ông cách mệnh Việt Nam ở đây không?”, sốt sắng như hỏi đường đi chợ và nhiều người được hỏi cứ ngơ ngác chẳng ai hiểu ra sao.

Lúc ấy Mai cũng về tới Bản Đảy đã lâu. Có dễ đã gần chập tối.

Có người đến bảo Bùi: thêm hai người đi tìm cách mệnh đến đây. Lại hai người nào nữa? Bùi còn đương băn khoăn về Thụ và Chi mà Mai mới nói. Bùi chưa kịp hỏi lại người mách tin thì hai người ấy đã bước vào nhà. Có thể đoán những người này lương thiện. Trên vẻ mặt như thành thạo kia, đượm một nét háo hức, sôi nổi lạ. Vừa thấy Bùi và Quang - dễ thường họ đã được người trong xóm bí mật bảo cứ đến gặp người thợ may ấy mà tìm cách mệnh thì thấy, họ đã sôi nổi nói trưóc:

- Tôi tên là Sơn, anh này là Tư. Chúng tôi đều ở Hà Nội, làm nghề thợ máy. Mấy năm nay, người Nam ra Bắc, người Bắc vào Nam hùa nhau đi tìm cách đánh Tây, chỗ nào cũng thấy, lại nghe có ông Phạm Hồng Thái lặn lội sang tận bên Quảng Châu nổ bom vào thằng Toàn quyền Đông Dương đến đấy. Nóng đít lắm, không ngồi một chỗ được nữa, các anh ạ. Chúng tôi nghĩ kỹ rồi, nhất quyết bỏ hết. Bao giờ lấy được đất nước, bấy giờ có làm lại thì làm lại cả một thế, chúng tôi sang đây tìm cách mệnh, bây giờ phải đi làm cách mệnh đã.

Bùi nói nhạt nhẽo:

- Đây cũng như bên nhà thôi, mật thám như rươi, biết thế nào...

Tư nói:

- Chúng tôi thề không phải mật thám đâu.

Sơn nói:

- Chúng tôi bỏ nhà cửa, bỏ hết rồi...

- Anh là thợ máy à?

- Hồng Cơ, sửa chữa máy ở đường Khâm Thiên là nhà tôi.

- Biết thế, nhưng...

- À chúng tôi còn có cái này để làm tin. Con nhà thợ, đi đâu cũng không sợ đói.

Hai người lục trong túi áo tây vàng, mỗi người có một cái kìm đầu nhọn bẻ dây thép, cái búa nhỏ, lại cả chiếc ê-ke... Bùi bật cười, cũng cảm thấy sự thật thà của họ. Nhưng Bùi vẫn nói lửng:

- Để thong thả tôi hỏi thăm xem!

Lúc ấy đã chạng vạng tối. Bấy giờ Thụ và Chi mới tìm được đến nhà Bùi ở. Tuy chưa gặp, nhưng đã nghe Mai nói về hai thanh niên áo dài, chít khăn, giày tây như đi chợ Tết ở Kỳ Lừa sang. Bùi hấp tấp bảo ngay Thụ và Chi:

- Tôi đã bảo các anh cứ về mà.

Rồi, không biết làm thế nào, đành mặc hai bọn bốn người không quen biết nhau cứ ngơ ngác đứng lại đây, Bùi và Quang đến nhà Thỉnh Chân.

Xuân từ Hà Nội lên đã đợi họ ở nhà Thỉnh Chân được hơn một chợ.

Thỉnh Chân vắng nhà. Thỉnh Chân đem lợn sang Bó Cục bán đã ba hôm chưa về. Nhưng Xuân vẫn ở, đã quen như thế. Thỉnh Chân là người có bụng tốt. Hồi có cách mệnh Việt Nam về Bản Đảy mở huấn luyện, Thỉnh Chân đem lợn lên bán. Đến nơi, thấy bảo “lớp này của cách mệnh Việt Nam học để đánh thằng Tây”, thế là Thỉnh Chân cho cả con lợn, trả tiền nhất định không cầm.

Từ đấy, biết cách mệnh Việt Nam có ai về qua Bó Sa, ở Long Châu tới hay bên Đồng Đăng sang, nếu gặp mà biết, thế nào cũng kéo về cho ăn, cho nghỉ lại, như người nhà. Và mỗi khi về, Bùi vẫn đến đấy.

Bốn người còn đứng trong nhà đầu xóm. Tai Thụ vẫn vẳng câu: “Cứ về mà...” vừa buồn vừa khó chịu. Thụ trông thấy Sơn và Tư, tuy không quen, nhưng hầu như có một sự thông cảm nào đó đã khiến những người mới gặp nhau thấy họ đến đây cùng một việc. Sự vui mừng ấy làm cho Thụ nhãng dần cái câu Bùi vừa đay đi đay lại: “Cứ về mà...”.

Thụ bảo Sơn, vui vẻ, như quen từ lâu:

- Cứ ở tạm đây nhé. Mai chúng tớ lại gặp.

Rồi bước ra.

Trong xóm, tối mịt. Gió thổi hun hút từ khe núi lại, phút chốc, cái xóm Bó Sa chìm vào hơi buốt đêm cuối năm. Thụ ôm vai Chi, bảo: “Chúng ta đừng về. Hãy nghĩ hết đêm nay đã!”. Rồi Thụ lại nói, như tự gỡ được cái bối rối cho hai người:

“Tao biết ở Nhân Lý có bà lấy chồng người vùng này, ngày trước, đến Tết hay về chơi quê ngoại”. Nhớ ra và nói thế nhưng thực cũng chưa biết gỡ thế nào.

Đêm ấy, hai người thợ Hà Nội lên cũng ngủ lại Bó Sa.

Xóm Bó Sa này toàn người Nùng ở rải dọc theo chân núi.

Đột nhiên đến nửa đêm, lính Quốc dân đảng trên Nam Quan xuống vây. Thì ra có đứa xấu bụng đi báo: nhiều người lạ về Bó Sa. Bọn quan quân tưởng có những tay buôn hàng Tết về qua. Chúng định vét một mẻ cuối năm lấy tiền của ăn Tết.

Lính xục xạo khám. Từng nhà, chúng ập vào. Chỗ tối, lưỡi lê xỉa trước. Ai không kịp kêu và chạy ra thì bị đâm vào người như thế. Một lúc, chúng bắt được tất cả hai anh thợ Hà Nội, cả Thụ và Chi, cả người liên lạc ở Quảng Châu xuống, người bên Lạng Sơn sang và Bùi. Họ bị trói, giắt thành một dây, áp tải lên lô cốt ngay từ lúc gà chưa gáy tan canh.

Đến sáng, Bùi đàng hoàng đưa giấy cho quan coi ại. Bùi có giấy thông hành của huyện trưởng Long Châu cấp cho được đi lại trong huyện. Không làm gì được, viên quan coi ải Nam Quan gọi Bùi vào, hạch:

- Sao mày không trình giấy thông hành từ đêm qua?

Bùi cãi:

- Tại nó trói tôi, không cho nói.

- Mày gọi cả họ hàng nhà mày bên Việt Nam sang cướp bên Tàu về ăn Tết à? Có sợ tao giải chúng mày về nộp cho Tây đồn Đồng Đăng không?

Bùi nói:

- Quan biết tôi đã lâu làm thợ may ở Long Châu rồi, quan còn hỏi trêu! Đấy là anh em sang rủ tôi về ăn Tết. Nhân tiện, chúng nó đi chợ Hạ Đống xem có kiếm được gì về cúng ông vải không. Năm nay, bên Lạng Sơn đói to, nhiều người phải chạy đói sang tận đây, các quan rõ đấy.

- Nói dối cho khéo vào! Chúng mày đi tìm cánh Đặng Tử Mẫn, tao biết.

- Không phải.

- Tao hỏi thế, chứ bao giờ có người cách mệnh Việt Nam như Đặng Tử Mẫn lại thuê quân Long Châu vào Cao Bằng đánh Tà Lùng thì tao cũng đi đấy.

- Tôi không biết chuyện ấy.

- Bây giờ thì tao tha. Nhưng phải đền công bọn lính chúng nó đi mất một đêm. Một dinh (5) khó nhọc suốt đêm đấy.

Cuộc mặc cả cò kè trả ơn cho bọn bắt mình, cuối cùng ngã giá mất năm mươi đồng. Cũng còn may, vì bọn lính đã khám tất cả, không moi được đồng nào, chúng nó biết đây chỉ là những người bơ vơ nên mới lấy công rẻ thế. Tuy vậy, ít nhất, quan coi ải cũng thiến mất một nửa số tiền ấy. Hay quan chén cả, không biết chừng. Cái đó tuỳ ý quan.

Được tha về, Bùi đem Sơn và Tư đến nhà Thỉnh Chân. Bùi dặn:

- Ở lại đây ít ngày nữa.

Bùi qua Bản Đảy, bảo Mai:

- O về Hà Nội xem thật có hiệu Hồng Cơ ở đường Khâm Thiên...

Hôm sau.

Hôm sau, Mai gánh hai túi chàm đựng măng khô, xương khỉ lẫn xương dê, xương bò, sang đợi tàu Nà Sầm xuôi Hà Nội. Như một ngưòi Nùng biên giới vốn thạo xuôi ngược buôn của rừng.

Lúc ấy, ra khỏi nhà giam ở Nam Quan xuống, Thụ và Chi đã nhất quyết là không về, dù có đi đến tận đâu để tìm liên lạc được với cách mệnh thì Thụ và Chi cũng đi, nhưng lúc ấy còn lưỡng lự, không biết nên tạt vào Bó Sa hay lại trở về Bản Đảy, Chi hỏi Thụ:

- Đi đâu bây giờ?

- Tao nhớ ra rồi. Họ Mã ở Lũng Nghìu có quê ngoại ở Nhân Lý. Lão Chang Dỉn Cò bảo thế.

Chi cười:

- Thế thì đi!

- Về Lũng Vài hỏi đường Chang Dỉn Cò đã.

- Đường dây đi Lũng Nghìu thì khó gì.

- Chị Mai dặn đi đâu phải cẩn thận.

- Ừ nhỉ, nó mà đưa đi càng hay.

Hai người vội vã bước.

Bỗng có tiếng gọi từ phía Bản Đảy:

- Hãy thong thả...

Quay lại, thấy Bùi lật đật chạy theo. Hai người dừng lại. Nhờ có tiền nộp chuộc người của Bùi mà được thả cả, nên Chi vui vẻ hẳn lên:

- Gì thế? Có đi được không?

Bùi không hiểu câu nói của Chi, hỏi lại:

- Đi đâu? Về Lạng Sơn à?

Rồi Bùi hấp tấp nói thêm:

- Không, không về được, về Lạng Sơn bây giờ, đồn Đồng Đăng nó gô cổ lại đấy.

Chi chép miệng, không tin.

- Làm gì, thằng Tây có mắt trên đỉnh đầu đâu mà nó giỏi thế!

- Việc bắt mình đêm qua thế nào lính Tàu cũng báo ngay cho thằng quan hai ở Đồng Đăng biết cả mấy người, mấy người rồi. Nó bán tin lấy món tiền. Xưa nay chúng nó vẫn thế mà.

Bấy giờ Chi mới thốt:

- À... một tiếng. Rồi cười nhoẻn, có vẻ thích thú và bí mật.

Thụ cũng cười, nói:

- Nói thế chứ chúng tôi không về mà.

- Thế các anh đi đâu?

- Chúng tôi ở đây đợi lớp huấn luyện. Có được không?

Bùi nói:

- Nhưng đừng đến ở nhà thằng Lình nữa.

- Chúng tôi xuống Lũng Nghìu đây.

Rồi Thụ cười nhạt:

- Nó lừa sạch tiền mình rồi, nó đương tính đuổi mình hay muốn giết mình thì còn đến nhà nó để xin lấy cái chết à!

Bùi ngạc nhiên:

- Sao các anh biết?

- Trông con mắt đứa giết người thì ai cũng biết thôi mà.

- Vậy xuống Lũng Nghìu nhé.

- Chúng tôi đợi đấy đấy.

- Ừ.

Lát sau, hai người đã đi được một quãng, Chi hỏi Thụ:

- Lúc nãy, Thụ nói thật đấy à?

- Thật.

- Thằng Lình muốn giết chúng mình thật à?

- Chị Mai bảo thế. Chị Mai bảo ngày trước thằng Lình còn khá bây giờ thằng Lình thối nát rồi.

Ngay tức khắc, Chi tức cồn trong người:

- Thế thì ta quay lại Bản Đảy giết nó trước.

Thụ can:

- Đừng, Chi ạ. Chúng ta đương đi tìm cách mệnh...

Chi lại băn khoăn thêm:

- Chang Dỉn Cò thế nào?

- Không, Chang Dỉn Cò là người tốt. Lão ta đã mách mình cũng như chị Mai nói. Lão còn bảo có muốn xuống Lũng Nghìu tìm họ Mã thì lão đưa.

Thụ đứng dừng:

- À nhưng bây giờ củng phải trở lại Bản Đảy, nói để chị Mai biết chúng mình về Lũng Nghìu. Vậy thì Chi đi Lũng Vài, đến nhà Chang Dỉn Cò trước, đợi mình ở đấy, không thấy lão Chang thì ra đợi mình ở đầu xóm.

Bây giờ, Chi lại cẩn thận:

- Không nên đi một mình.

- Chỉ vài bước đã đến Bản Đảy rồi mà.

Thụ xuống Bản Đảy.

Mai đương sửa soạn túi và hàng để xuôi Hà Nội. Thấy Thụ về, Mai vồn vã:

- Từ sáng, mong hai cậu về quá. Cậu Chi đâu? Mai tôi có việc phải sang Nà Sầm ít ngày. Hai cậu ở nhà, ai rủ đi đâu đừng đi. Tối nằm thì cứ liệu cậu ngủ cậu thức đừng ngủ cả. Tôi đã doạ lão Lình rồi, không lo nó, nhưng ở đây còn nhiều người không tốt. Các cậu nhớ cẩn thận, đừng ra cửa, nhớ chưa.

Mai cứ dặn đi dặn lại.

Cái hôm mới bỡ ngỡ đến Bản Đảy hỏi thăm “lớp Cách mệnh”, Mai gặp hai người ở đầu xóm đã đưa ngay về nhà, cho ở. Thụ nghe giọng nói nằng nặng, đoán chị Mai không phải người Thổ, ngưòi Nùng, cũng không phải người Kinh hay người Hán. Vào nhà, càng khó hiểu thêm. Chồng chị, một lão già Nùng nghiện, người héo quắt như cái giẻ lau bàn đèn chạc năm mươi, hai vai bẹp xo lên gần chấm tai. Người mẹ chồng gầy xác như một ống lau dựng đứng, có hai con mắt to, tợn, thao láo. Suốt ngày bà lão ngồi lắc lư quay người nhìn theo nàng dâu, miệng lầm bầm, không biết bà lão nói hay chửi, hay tụng niệm gì. Chị Mai có một con gái nhỏ tên là cái Oi, cả ngày nó nhớn nhác sợ, cái gì cũng sợ, như mới ở đâu đến, muốn khóc mà không dám, lúc nào cũng bíu theo đuôi áo mẹ. Nói với cái Oi, chị Mai nói tiếng Kinh trọ trẹ. Nghe bơ vơ như hai mẹ con ở giữa mọi người dưng, thật thương.

Bấy giờ Thụ mới rõ chị là người Kinh - nhưng chắc chị ở tỉnh xa, không giống tiếng ngưòi Kinh ở Lạng Sơn ta.

Một hôm, nhà vắng, chị Mai kể chuyện đời chị.

Mai người Chợ Thượng trong Hà Tĩnh. Ngày trước, chồng Mai ngồi dạy chữ nho trong làng, tham gia “Thanh niên” (6), phải Tây bắt rồi chết trong tù. Ba mẹ con Mai được các đồng chí giúp đỡ, đem ra Hà Nội. Năm ấy, đoàn thể cần ngưòi làm liên lạc trên biên giới, Mai tình nguyện đi. Một con trai ở lại, các đồng chí ở Hà Nội nuôi.

Mai và con gái, cái Oi đấy, hai mẹ con lên Lạng Sơn rồi được đưa bí mật sang biên giới.

Được ít lâu thì quen, rồi ăn mặc Nùng, về ở Bản Đảy tạm ở nhờ nhà Lình Kín Piao. Kín Piao là người hiểu biết và lúc ấy còn tốt. Trạm liên lạc đặt ở Bản Đảy. Chị làm giao thông, khi Long Châu, khi Hà Nội.

Năm sau, chị Mai lấy Lình Kín Piao. Lình goá vợ đã lâu. Lình đối với cách mệnh Việt Nam lúc có lớp huấn luyện ở Bản Đảy có giúp đỡ. Nhưng phải cái nghiện nặng, lúc túng hay làm càn. Lình hiếp chị. Khi đã lỡ, chị đành phải lấy.

Lình vẫn hứa đưa Thụ đi Long Châu tìm cách mệnh. Mai biết Lình nói thế cho qua chuyện. Tiền đi của Thụ bỏ ra đã tiêu tan vào khói thuốc, vào đố chữ ngoài trấn Lũng Vài rồi còn đâu nữa!

Vì vậy, Mai đi Hà Nội cứ áy náy, không đành. Mai vẫn lo, lại nói:

- Hai cậu ở nhà trông cái Oi cho tôi, vài hôm tôi về. Đừng ra cửa. Còn gạo đấy, lúc nào hết thì giã vài cối...

Thấy chị Mai săn sóc, lo lắng thế, Thụ nói hơi rụt rè:

- Chị ạ, chúng tôi đi...

- Cậu đi đâu? Lộ rồi, về Lạng Sơn bây giờ thì Tây nó bắt đấy.

- Chúng tôi không về.

- Thế cậu định đi đâu?

- Tôi có ngưòi làng ở Lũng Nghìu.

- Ở Lũng Nghìu à?

Mai thở dài. Thụ khẩn khoản nói:

- Chị đi vắng thì chúng em không ở được. Chị cũng biết thế rồi. Em thương cái Oi lắm. Mà đành phải thế, chị ạ.

Mai biết tính Thụ cương quyết, không giữ được. Vả lại Mai cũng chợt ngại. Biết đâu, mình đi, ở nhà xảy ra việc không hay, thì khốn. Lình hay giáo giở, lại bọn lính Tàu xách nhiễu, hay lá mặt lá trái, đêm ngày nhua nhúa như ong... Mai nói:

- Nhưng mà các cậu đừng sổng sểnh đi ra đường thế kia. Không được đâu. Lần này mà nó bắt thì nó đem nộp đồn Đồng Đăng lấy thưởng to hơn đấy. Để nhờ Dỉn Cò đưa đi Lũng Nghìu cho.

Thụ nói:

- Chi xuống nhà Dỉn Cò rồi, chị ạ.

Nhưng Chang Dỉn Cò đi vắng.

Và Chi không ra ngoài mà cứ ngồi đợi trong nhà, cho tới khi Thụ đến thì hai người cùng đi.

Thụ và Chi qua trấn Lũng Vài. Xếnh xáng Hoàng đương ngồi trên ghế đẩu, trầm ngâm ngậm cái điếu thuốc lá bào, trước cửa quán bán rượu, mắt ngước nhìn người qua lại. Lão Hoàng gọi Thụ, bảo:

- Này cậu kia, lão đang thèm sang Nhân Lý uống rượu cuối năm, lúc nào về nhớ gọi lão đi cùng với.

Thụ lắc đầu:

- Không.

Lão Hoàng, hau háu tò mò nhìn, lắc mạnh cái tàn thuốc rồi hỏi Thụ:

- Thế các cậu định ăn Tết bên này à?

Thụ hỏi:

- Xếnh xáng à, đường xuống Lũng Nghìu đằng này...

- Đi Lũng Nghìu đấy ư?

- Phải.

- Vào đây cái đã. Còn sớm chán.

Thụ và Chi miễn cưỡng vào quán rượu. Tình cờ, họ ngồi đúng chỗ cái bàn mà hôm nọ bọn kẻ cướp uống rượu rồi mưu chuyện giết hai người.

Lão Hoàng hỏi:

- Có tiền không?

Thụ nói:

- Không.

Lão Hoàng cười:

- Lão không hỏi đểu, lão không moi ruột các cậu như thằng Lình đâu, các cậu ạ. Lão chỉ hỏi cậu nào có tiền thì mua đãi lão một cân rượu. Sáng chưa được ngụm rượu, sao rét thế! Ấm bụng rồi lão đưa hai cậu đi Lũng Nghìu.

Thụ nói:

- Có xôi gà, cháo gà này, ngon lắm.

Lão Hoàng gật gù:

- Ừ, cháo gà, xôi gà, xôi lạp xường nữa. Mua cho lão đi. Này hôm nọ chúng nó định làm thịt hai cậu. Để lão mất đường sang Nhân Lý uống rượu à! Lão biết, lão phải hết lời can. Các cậu có biết không, ở đây đứa nào cũng phải nể lão. Lão quất, nó thôi ngay.

Chi đứng dậy, có vẻ bực. Còn đương hầm hè ngứa ngáy chân tay từ lúc định giết thằng Lình đây. Bộ thằng già này mà can ai. Nhưng Thụ đã đưa mắt cho Chi và nhẹ nhàng nói:

- Một cân rượu nhé. Uống đã rồi lấy cháo sau, cho nóng, xếnh xáng Hoàng! À mà cháo hay xôi, xôi nóng...

Thụ đến quầy hàng. Bụng nghĩ chỉ còn mỗi một cái dây thắt lưng có thể bán hay đổi rượu được. Thụ rút trong áo ra cái thắt lưng da đeo dạ cá. Thắt lưng mói còn thơm mùi da bò thuộc. Thụ giơ lên cười, gạ chủ quán:

- Còn mới đây. Xem lại thì xem.

Chú thích:

(1) Tục lệ Lạng Sơn ngày trước, người bán và người mua ruộng đều phải đem lễ vào đình, đánh trống mời các cụ ra ăn cỗ trình làng.

(2) Dân ca Nùng (Mã Thế Vinh dịch).

(3) Bí danh của Bác Hồ lúc bấy giờ.

(4) Bí danh của đồng chí Hồ Tùng Mậu lúc bấy giờ

(5) Quân số của Quốc dân Đảng Trung Quốc, một dinh bằng một trung đội

(6) Tên gọi tắt Thanh niên Cách mệnh Đồng chí hội.