Chương 4 1
Chương 4
1
rinh sát viên Đinh Câu mở mắt, cảm thấy đồng tử khô ráp, đầu nhức như búa bổ. Miệng thở ra mùi hôi hơn cả phân. Răng, lưỡi, hàm cốc, họng đều dính nhóp nháp, nhổ không ra, nuốt không xuôi, hít thở rất vướng. Cây đèn chùm trên đỉnh đầu toả ánh sáng vàng vọt. Không hiểu bây giờ là ngày hay đêm, bình minh hay hoàng hôn? Đồng hồ đeo tay đâu mất? Đồng hồ sinh học rối loạn. Bụng sôi ùng ục. Hậu môn đau thót vì bệnh trĩ cùng với nhịp đập của tim. Dòng điện đốt dây vonfram toả nhiệt, khiến không khí nổ lách tách. Trong tai Đinh Câu có tiếng ong ong, giữa những tiếng ong ong, anh nghe thấy tim đập. Anh cố huy động chân tay để rời khỏi chiếc giường, nhưng chân tay không nghe lời anh. Nhớ lại cảnh tượng trong bữa tiệc, anh rủn cả người. Đột nhiên, thằng nhỏ ngồi xếp bằng tròn trong mâm, mình vàng hươm những mõ là mỡ, nhìn anh cười rất tươi. Anh trinh sái: rú lên một tiếng, ý thức đập tan những trở ngại, trí tưởng như dòng điện đốt cháy xương thịt. Anh nhảy dựng như cá chép vọt lên khỏi mặt nước vẽ một đường cong đẹp mắt để không gian méo mó biến hình, không gian biến hoá, từ trường biến hoá, ánh sáng khúc xạ - trinh sát viên thi triển thân pháp, nhào xuống thảm như con chó thấy phân.
Anh cởi trần, đứng ngắm bốn chữ “+” trên tường, cảm thấy lạnh xương sống. Bóng thằng nhỏ mình đầy vẩy, miệng ngậm con dao lá liễu hiện lên trong cốc rượu. Anh phát hiện mình cởi trần, gân nổi chằng chịt, da hơi nề, một mảng lông màu vàng loăn xoăn trước ngực, lỗ rốn bám đầy ghét. Sau đó anh gội đầu bằng nước lã, đứng trước gương nhìn khuôn mặt sưng xỉa và cặp mắt đục lờ của mình, anh chợt cảm thấy nên vào nhà vệ sinh mà tự sát cho rồi. Anh tìm thấy cái xắc cốt, lấy súng ra, lên cò, nâng lên cảm thấy báng súng lành lạnh.
Anh đứng trước gương nhìn vào bóng mình mà tưởng như đó là một kẻ thù lạ mặt. Anh chĩa súng vào mũi, đút chóp mũi vào đầu nòng, chất dịch tiết ra hai bên cánh mũi như những con ký sinh trùng. Anh tì đầu nòng lên huyệt thái dương, toàn thân khoan khoái nổi da gà. Cuối cùng, anh đút súng vào miệng, chụm môi lại, chặt đến nỗi cây kim cũng không lọt. Thấy bộ dạng mình kỳ cục, anh suýt bật cười. Và anh cười thật, cái bóng trong gương cũng cười. Nòng súng có mùi lưu huỳnh xộc lên mũi. Mình nổ súng lúc nào nhỉ? Pằng! Mảnh đầu thằng nhỏ ngồi trong mâm văng đi như mảnh dưa hấu, đủ các màu xanh đỏ tím vàng, óc trẻ thơm phức bắn tung toé. Anh nhớ có người liếm óc dính trên tay như mèo liếm mỡ. Ý thức trách nhiệm bò dậy trong tim, sự ngờ vực như bóng mây lởn vởn trong đấu, anh nghĩ, ai dám bảo đây không phải trò bịp? Lấy ngó sen làm cánh tay trẻ? Lại còn trổ năm lỗ trên tay trẻ để làm ngó sen?
Có tiếng gõ cửa, Đinh Câu rút súng ra khỏi miệng.
Giám đốc mỏ và Bí thư đảng uỷ tới, cười hỉ hả.
Phó ban Khoan Kim Cương tới, tao nhã, phong lưu.
- Đồng chí Đinh Câu ngủ ngon không?
- Đồng chí Đinh Câu ngủ ngon không?
- Đồng chí Đinh Câu ngủ ngon không?
Đinh Câu lúng túng, anh trùm khăn lên vai, nói: “Có kẻ lấy trộm quần áo của tôi”.
Lão Phó ban không trả lời, mắt dán vào bốn chữ “+” khắc trên tường, mặt đanh lại. Mãi sau lão mới lẩm bẩm:
- Lại là nó!
- Nó là ai? - Đinh Câu hỏi dồn.
- Nó là tên trộm thuộc loại cao thủ, đi không ai biết, đến chẳng ai hay- Khoan Kim Cương cong ngón giữa gõ gõ vào chữ “+” nói - Mỗi lần gây án hắn để lại ký hiệu này.
Đinh Câu tiến lại gần nhìn kỹ mấy chữ, bản năng nghề nghiệp khiến tư duy đang rối rắm trỏ lại mạch lạc, anh cảm thấy dễ chịu hơn, cặp mắt khô ráp đã được bôi trơn, ánh mắt trở lại tinh tường như mắt chim ưng. bốn chữ “+” xếp thành một hàng, mỗi chữ khắc sâu vào tường ba phân, vải nhựa dán tường quăn lên ở mép cắt, lộ ra bộ mặt thật của tường là vôi vữa.
Anh định quan sát sắc mặt Khoan Kim Cương, chợt nhận ra cặp mắt thông minh của lão cũng đang quan sát anh. Điều này khiến anh có cảm giác như bị người khác không chế, như chạm trán một địch thủ lão luyện, như bị sa bẫy của kẻ thù. Nhưng cặp mắt rất đẹp của Khoan Kim Cương nhìn anh đầy vẻ thân thiện, đập vỡ một phần chiến tuyến phòng ngự trong ý thức anh. Ông ta giọng ngọt như rượu quí:
- Đồng chí Đinh là chuyên gia về chuyện này, bốn chữ nghĩa là gì hở đồng chí?
Đinh Câu nhất thời không trả lời được. Con bướm màu đẹp đẽ của ý thức bị chất cồn đuổi ra khỏi đầu vẫn chưa trở về chỗ cũ. Vì vậy, anh đành đứng đực ra mà nhìn cái miệng của Khoan Kim Cương với chiếc răng vàng hoặc đồng lấp lánh.
Khoan Kim Cương nói:
Tôi nghĩ, đây là ký hiệu của một bọn lưu manh, bọn này có khoảng bốn chục đứa, bốn chữ “+” biểu thị bốn mươi tên. Đương nhiên có thể sẽ xuất hiện một Alibaba. Có thể đồng chí Đinh Câu sẽ sắm vai Alibaba một cách bất đắc dĩ, như vậy là phúc cho hai triệu dân thành phố Rượu chúng tôi.
Lão chắp tay chào Đinh Câu rất hài hước khiến anh càng lúng túng.
Đinh Câu nói:.
- Chứng minh thư, ví tiền, thuốc lá, bật lửa, dao cạo râu chạy điện, súng lục đồ chơi, sổ ghi số điện thoại, đều bị bốn mươi thằng kẻ trộm lấy đi rồi!
- Mó dái ngựa rồi!
- May mà chúng chưa lấy mất khẩu súng thật - Đinh Câu khua khua khẩu súng, nói.
- Đồng chí Đinh, tôi đến chào tạm biệt đồng chí. Vốn định nhậu nhẹt một trận để chia tay, nghĩ lại thấy đồng chí quá bận, chẳng dám quấy quả nữa. Có chuyện gì đồng chí lên Thành uỷ tìm tôi nhé! - Nói xong, Khoan Kim Cương chìa tay ra.
Đinh Câu hờ hững bắt tay lão Phó ban, rồi lại hờ hững nhả tay ra, rồi nhìn thấy loang thoáng Giám đốc mỏ và Bí thư tháp tùng lão Phó ban rời căn phòng như một làn gió. Một trận nôn khan khiến bụng anh đau quặn. Cuộc rượu đêm qua vẫn chưa tiêu. Tình hình phức tạp. Anh gội dầu dưới vòi nước dễ đến hơn mười phút. Uống hết chén nước trà đã lạnh tanh, anh hít một hơi thật sâu, nhắm mắt, ý thủ huyệt Đan Điền, khống chế những ý tưởng viển vông, gạt bỏ những ý đồ ngang trái, rồi mở mắt, tư tưởng trở lại nhậy bén, sắc như lưỡi búa mới mài, phát quang gai góc che tầm mắt, một ý tưởng mới hình thành rõ nét trong đầu: ở thành phố Rượu có một bọn dã thú ăn thịt ngươi! Tất cả những gì trên bàn tiệc đều là bịp bợm tinh vi.
Anh lau khô mặt, đi tất, xiết chặt dây lưng, giắt súng cẩn thận, đội mũ, khoác lên người chiếc áo sơ mi sọc xanh bị thằng Vẩy Cá ném trên thảm, dính đầy những thứ dơ bẩn do nôn oẹ, rồi ngạo nghễ bước tới đẩy cánh cửa màu cánh gián, bước những bước dài trên hành lang tìm thang máy hoặc cầu thang. Cô phục vụ mặc áo màu sữa rất hiền, chỉ đường cho anh ra khỏi mê cung.
Chào đón anh là một thời tiết phức tạp, vài tảng mây đen cuồn cuộn, một ít ánh sáng mặt trời, lúc này đã là buổi chiều, những bóng mây khổng lồ di chuyển trên mặt đất, những chấm màu vàng kim loá mắt nhấp nháy trên những phiến lá vàng. Anh thấy ngứa mũi, hắt hơi liền mấy cái, lưng gập lại như lưng tôm, mắt mọng nước. Đứng thẳng lên, qua màn nước mắt mò ảo, anh trông thấy chiếc bánh xe màu xám khổng lồ cùng với hệ thông dây cáp cùng màu vẫn lặng lẽ chuyển động. Tất cả như cũ: hoa quì màu vàng kim, mùi thơm dịu của gỗ tán phát thông điệp của những cánh rừng nguyên sinh. Xe goòng chạy hối hả trên đường ray nhỏ hẹp cao hơn tầm các đống than phía dưới, các toa chất đầy than. Trên xe có gắn động cơ nhỏ, chạy bằng chuyền động, điều khiển xe là một cô gái đen nhẻm, răng trắng bóng như ngọc trai. Cô đứng trên tấm chắn đuôi xe, oai vệ như một lính chiến. Mỗi khi xe chạy tới đầu mút của đường ray, cô xiết mạnh phanh, gầu dựng lên ào ào trút than xuống dưới như thác đổ. Một con béc giê hình như của phòng bảo vệ nuôi, ló đầu ra sủa ầm ĩ như muốn tố cáo với anh nỗi oan khiên của nó.
Con chó chạy đi, Đinh Câu trong lòng không vui. Anh nghĩ, bình tĩnh mà xét, anh đúng là đồ vô tích sự. Mình ở đâu tới? Từ thành phố. Đến làm gì? Điều tra một vụ trọng án. Trên một tinh cầu nhỏ xíu trong vũ trụ mênh mang, trong cái biển người trên tinh cầu đó có một chàng trinh sát tên gọi Đinh Câu, tâm trí lơ mơ, thiếu chí tiến thủ, tình cảm uỷ mị, bi quan cô độc. Mục tiêu thất lạc, anh đâm ra không còn mục tiêu, chẳng được gì cũng chẳng mất gì, anh nhằm bãi than ồn ào, đủ các loại xe cộ, đi tới.
May làm sao, một giọng trong trẻo cất lên:
- Đinh Câu ơi, Đinh Câu! Chàng lởn vởn ở đây làm gì thế?
Đinh Câu nhìn về phía có tiếng gọi, một mái tóc rễ tre đập vào mắt, tiếp đó là khuôn mặt lanh lợi của cô xế.
Cô đứng bên xe tải, tay cầm đôi găng trắng lọ lem, như một con lừa tơ dưới nắng. “Lại đây, anh. chàng!” Cô vẫy đôi găng như vẫy lá bùa dụ hồn, dụ anh chàng trinh sát đang mắc chứng “ tổng hợp của sự cô đơn” bước tối, anh không thể không dựa vào cô.
- Thì ra là cô đất phèn! - Đinh Câu giỏ giọng lưu manh. Đứng trước mặt cô, anh có cảm tưởng như thuyền đã về bến, như trẻ nhỏ gặp lại mẹ.
- Chào phân NPK! - Cô nhăn răng cười - Chàng vẫn ở đấy à?
- Tớ đang định rời khỏi đây.
- Lại muốn đi nhờ xe tôi phỏng?
- Đúng thế.
- Tương bở!
- Một cây Malhboro.
- Hai. cây!
- Hai thì hai!
- Đợi một chút!
Các xe phía trước lăn bánh, bụi than cuốn mù mịt. Tránh sang bên - Cô gào to, rồi nhẩy lên xe đánh vô lăng hết phải sang trái một hồi, thùng xe đã chỉnh đúng phía dưới đường ray cụt. Bà chị giỏi thật đấy! - Một cậu choai choai đeo kính râm khen thật lòng. Cô nhảy ra khỏi ca bin. Đinh Câu vui vẻ, toét miệng cười. Cô ta bảo: “Cười gì thế?” Anh nói - “Cười gì đâu!”
Xe goòng chạy ầm ầm như một con thuồng luồng khổng lồ trườn tới, bánh xe miết keri két lên đường ray, đôi khi tóe lửa hoa. Cáp bọc cao su đen lúc đánh võng lúc vươn dài như rắn thần. Cô gái điều khiển xe goòng ánh mắt kiên định, nét mặt nghiêm túc, rất đáng nể. Các toa xộc thẳng; tới như mãnh hổ hạ sơn, Đinh Câu sợ chúng rơi tõm xuống thùng xe, nếu vậy, chiếc xe tải sẽ nát bét. Nhưng thực tế chứng minh anh lo bò trắng răng. Cô công nhân phán đoán cực kỳ chuẩn xác, phản xạ nhậy bén, nhanh như chớp, chính xác như máy móc, đúng vào lúc xe goòng phanh lại là cái toa lật luôn, “soạt!”, cả một toa than đen nhánh trút gọn vào thùng xe, không rớt ra ngoài thùng, không sót lại trong goòng một cục. Mùi than mới đào xộc lên mũi. Tâm trạng Đinh Câu càng vui vẻ.
- Bà chị có thuốc lá không? - Anh chìa tay về phía nữ xế - Thưởng cho tiểu nhân một điếu.
Cô đưa cho anh một điếu, bản thân cô cũng ngậm một điếu trên miệng.
Qua làn khói mỏng cô hỏi anh: “Làm sao đến nông nỗi này? Bị chôm à?”
Anh không trả lời, vì đang nhìn con la.
Anh và cô trông thấy người đánh xe ngựa đang điều kỉnển cỗ xe do hai con la kéo dạt sang phía bên này của bãi thải đầy những đá sỏi loại ra khi tuyển th an, những phiến đá vỡ, những súc gỗ mục, dây thép gỉ. Người đánh xe ra vẻ, ta đây kẻ rò, tay trái gò cương, tay phải thẳng cánh vụt hai con la kéo xe. Đây là một cặp la đẹp, lông đen như mun. Con lớn hơn hình như bị mù, đóng vào càng xe; con nhỏ hơn không bị mù, hai mắt như hai quả lục lạc, rất có thần. Nó kéo dây thắng. vrừ…vrừ…vrừ… chiếc roi như một con rắn dài, vụt đánh “bốp” một phát ròn rã trên không trung, con la nhỏ hdn dũng mãnh lao lên, chiếc xe lộc cộc lăn theo. Chuyện không hay đã xảy ra: con la nhỏ ngã chổng bốn vó trên mặt đất đầy các thứ táp nham, ngã nhanh như tường đổ. Anh xà ích vụt con la một roi. Nó gắng gượng đứng lên, lẩy bẩy, toàn thân run bắn. Anh xà ích ngẩn ra nhìn rồi vứt roi nhào tới, quì xuống lôi chiếc móng la đỏ hỏn kẹt giữa hai thanh đá xẻ. Đinh Câu kéo tay cô nữ xế bước tới chỗ anh xà ích.
Anh xà ích hai tay bê chiếc móng la, mặt vàng như nghẽ, oà khóc.
Con la trong càng xe im lặng cúi đầu như trong lễ truy điệu.
Con la nhỏ ba chân chạm đất, còn chân thứ tư bị mất móng lẩy bẩy, gõ liên hồi lên khúc gỗ mục, máu rỉ ra từng giọt nhuộm đỏ khúc gỗ và mặt đất xung quanh.
Đinh Câu rợn người định bỏ đi, nhưng Đất Phèn giữ anh lại. Cô nắm cổ tay anh, chặt như khoá bằng còng, không gỡ nổi.
Mọi người bàn tán sôi nổi, người tỏ ra thương hại con la, người xót xa cho anh xà ích, có người lại trách anh ta, có ngươi quay ra ca cẩm con đường quá xấu. Ồn ào như tổ quạ.
- Tránh ra tránh ra!
Mọi người giật mình, vội rẽ ra nhường; đường. Hai ngươi thân hình mảnh mai ào tới, nhìn kỹ hoá ra hai phụ nữ. Cả hai mặt trắng bợt khiến người ta liên tưởng đến khóm cải bẹ tàng trữ trong mùa đông. Áo bờ-lu trắng bóc, đầu đội mũ nhà bếp, một người xách làn, người kia xách giỏ đan bằng nhành liễu như hai thiên sứ.
- Thú y đến rồi!
Thú y đến rồi thú y đến rồi đừng khóc nữa cậu ơi thú y đến rồi! Mau đưa móng cho họ để họ lắp vào chân la!
Hai vị áo bờ-lu trắng vội phân bua:
- Bọn tôi không phải thú y! Bọn tôi là đầu bếp của Nhà khách.
- Sáng mai, lãnh đạo thành phố về thị sát mỏ. Giám đốc lệnh cho chúng tôi kiếm bằng được thứ gì ngon ngon chiêu đãi cấp trên. Đang lo cháy ruột thì được tin con la gãy chân…
- Móng la hầm, vó la nộm!
- Này anh kia, bán vó la không?
- Không, không bán… - Anh xà ích giấu cái vó la trong bọc, mặt nghệt ra như đó là cánh tay bị thương của người yêu.
- Cái anh này! Lú lẫn hay sao? - Cô áo trắng có vẻ phấn kích, nói - Anh định nối lại chỗ chân gãy hay sao đấy? Đủ tiền không? Thời buổi này tay người bị gãy chưa chắc đã được nối, huống hồ súc vật.
- Bọn tôi trả anh với giá cao.
- Không bán cho bọn tôi thì cũng chẳng ma nào mua!
- Các chị trả tôi…bao nhiêu?
- Ba mươi đồng một chân, không rẻ chứ?
- Chỉ lấy chân thôi à?
- Chỉ chân thôi, không lấy gì khác.
- Lấy cả bốn chân?
- Cả bốn.
- Nó còn sống mà!
- Mất một chân thì sống phỏng ích gì!
- Nó còn sống mà!
- Rách việc! Có bán không?
- Bán.
- Tiền đây. Đếm đi!
- Gỡ thắng ra! Mau lên!
Anh xà ích một tay cầm tiền của bốn chân la, tay kia đưa cái bàn chân la vẫn còn co giật nhẹ cho cô áo trắng. Cô đón lấy cái chân, bỏ vào giỏ. Cô kia lấy từ trong làn ra dao bầu, búa, rìu, cưa, rồi đứng chống nạnh, lớn tiếng hối thúc anh xà ích mau gỡ dây thắng. Anh xà ích lom khom, chân tay lóng ngóng gỡ con la ra khỏi xe. Nói thì chậm, làm thì nhanh, cô áo trắng vung búa bổ một nhát vào giữa trán con la, lưỡi búa bập rất sâu, rút mấy cũng không ra nhưng cô ta vẫn cứ rút, trong khi ấy hai chân trước con la đột nhiên khuỵu xuống, sau đó cả thân mình con la từ từ đổ vật trên mặt đất lồi lõm.
Đinh Câu thở dài.
Con la vẫn chưa chết hẳn, trong cổ phát ra tiếng khò khè nặng nhọc. Máu rỉ ra từ hai bên lưỡi búa cắm giữa trán, thấm ướt lông mi, sổng mũi và môi nó.
Vẫn là cô áo trắng bổ nhát búa vào trán con la, giờ đây cô cầm con dao nước thép xanh biếc, nhanh nhẹn tới bên mình con vật, một tay nắm bàn chân nó - chân la to màu đen tay người nhỏ màu trắng- tay kia cầm dao khoanh nhẹ một vòng quanh gối con vật, tay nắm bàn chân ấn nhẹ một cái, chân con la đã rời khỏi đùi, chỉ còn vướng mỗi sợi gân trắng. Lưỡi dao lia ngang một nhát, chân và đùi rời hẳn nhau. Bàn tay trắng vung lên, cái chân la bay đến tay áo trắng kia.
Cắt rời ba cái chân chỉ trong khoảnh khắc. Những người đứng xem sững sờ trước tài nghệ cô áo trắng, im như thóc, không một câu nói, không một tiếng ho, cũng không một ai đánh rắm. Trước một nữ hiệp tầm cỡ như thế, không ai dám ăn quả liều!
Hai bàn tay Đinh Câu đẫm mồ hôi, anh đang nhớ lại những chuyện về đầu bếp xẻ thịt trâu.
Cô áo trắng lay chiếc búa trên trán con la và rút nó ra.
Rồi thì con la cũng chết. Nó nằm ngửa mà chết, bốn chân thẳng đơ chĩa lên trời theo bốn hướng như nòng súng máy cao xạ.
Chiếc xe tải cũng ra khỏi đoạn đường đầy những ổ gà ổ trâu của khu mỏ. Quả núi đá thải sừng sững cùng với máy móc khai khoáng như trong chôn âm ti, cũng khuất sau màn sương phía sau xe. Không còn nghe thấy tiếng chó béc giê sủa, tiếng kin kít của xe goòng, tiếng mìn nổ dưới lòng đất, nhưng bốn cái chân con la dựng lên như nòng súng máy cao xạ thì vẫn lắc lư trước mắt Đinh Câu, khiến anh tâm thần không yên. Tâm tưởng của nữ xế hình như cũng bị ảnh hưởng về chuyện con la: Trên quãng đường gập ghềnh của khu mỏ, cô luôn miệng rủa con đường; Sang đoạn đường khang trang thông ra thành phố, cô mở to cửa gió, nhấn ga chết bỏ, xe phóng như điên, máy gào lên eo éo như đạn trái phá của bọn phát xít. Cây hai bên đường đổ rạp như bị chém bằng búa, đồng ruộng xoay tròn như xoay bàn cò. Cây kim ngắn trên đồng hồ tốc độ chỉ tám mươi cây số. Gió rít ù ù, bánh xe như bay, ống xả cứ cách ba phút lại hộc lên một tiếng. Đinh Câu liếc ngang khâm phục nữ xế, quên bẵng bốn cái chân la như bốn nòng cao xạ.
Gần đến thành phố, hơi nước xì ra từ két mờ cả kính chắn gió. Nữ xế đã biến cái két nước trong xe thành nồi hơi. Cô ta chửi rất tục, cho xe dừng lại bên đường. Đinh Câu cùng xuống xe với cô, với một tâm trạng khoan khoái, trong cái rủi có cái may, anh nhìn cô mở nắp ca bin để cho gió hạ nhiệt. Động cơ nóng kinh người, nước trong két sôi sùng sục. Khi cô dùng bao tay mở nắp két nước, anh trông thấy mặt cô đỏ như ráng chiều.
Cô lôi dưới gầm xe một chiếc thùng sắt dẹt, giận dữ ra lệnh:
- Đi lấy nước!
Đinh Câu không dám và cũng không muốn chống lệnh cô. Anh đón cái thùng, làm ra vẻ lẩm cẩm, hỏi:
- Có phải cô định cho xe chạy khi tớ đi lấy nước? Cô nàng ơi, đã thương thì thương cho chót, đừng có nửa chừng xuân đấy nhá!
Cô ta nổi cáu:
- Anh có hiểu khoa học không? Còn chạy được thì dừng lại làm gì? Lại còn cái thùng!
Đinh Câu lè lưỡi. Anh biết cái trò hài hước này chỉ để trêu các bé gái, chẳng tác dụng gì với cái loại Mẫu Dạ Xoa này, nhưng anh vẫn cứ lè lưỡi để trêu cô. Quả nhiên cô gầm lên:
- Đừng có nhăn như khỉ thế! Đi lấy nước mau!
- Cô nàng ơi, nơi này phía trước không thôn, phía sau không xóm, lấy nước ở đâu bây giờ?
- Tôi biết thì đã không sai anh!
Đinh Câu lưu luyến nhìn cô. Anh xách thùng, vạch cây rẽ lá, nhảy qua rãnh khô bên đường, bước lên thửa ruộng vừa thu hoạch. Đồng ruộng ở đây không còn là đồng ruộng mênh mông tít tắp mà anh quen thuộc, do cận kề nên cánh tay hoặc ngón tay thành phố đã vươn tới, chỗ này một ngôi nhà tầng nho nhỏ đơn độc, chỗ kia một ống khói đang nhả khói, chia cánh đồng thành những mảnh manh mún. Đinh Câu thấy trong lòng xót xa. Sau đó, nhìn những đám mây hồng dựng bức trường thành ở phía trời tây, anh loại khỏi đầu nỗi buồn trời ơi đất hỡi, bước những bước dài về phía ngôi nhà xây dựng rất kỳ cục gần đấy.
“Trông thấy núi mà chạy chết ngựa”, câu nói qua không sai. Ngôi nhà kỳ cục đó tắm trong ráng chiều tưởng như rất gần, nhưng thực tế là xa, rất xa. Từng vạt hoa màu như từ trên trời rơi xuống ngăn cách anh với ngôi nhà, gây trở ngại cho anh trên đường đi tìm hạnh phúc, ở một vạt ngô đã bẻ bắp chỉ còn lại những thân cây khô, anh bị một cơn sợ đứng tim.
Lúc này đã chạng vạng tối, màu trời như nước cốt rượu nho, những thân cây ngô đứng thẳng, lặng lẽ như những lính gác. Đinh Câu lách qua những thân cây mà đi, nhưng vẫn không tránh khỏi có tiếng xào xạc. Đột nhiên, một bóng đen cao to như đội đất chui lên, đứng chắn trước mặt anh, khiến anh trinh sát mật to bằng nắm tay toát mồ hôi lạnh, tóc dựng đứng, vung thùng lên theo bản năng để đánh con quái vật. Nó lùi lại, giọng Ồm Ồm:
- Sao ông lại đánh tôi?
Anh trinh sát dịnh thần nhìn lại, thì ra đó là một ông già vóc dáng to cao. Trong cảnh tranh tối tranh sảng, mượn ánh sao thưa thớt, anh trông thấy hàm râu rậm và mớ tóc rối bù, khuôn mặt không rõ nét lóe lên ánh mắt màu xanh lục. Anh thấy ông già áo quần lam lũ, dáng người thô, chắc hẳn là ổon người tốt, chịu thương chịu khó, cần cù dũng cảm. Ngực ông có tiếng thở khò khè nặng nhọc, đôi lúc ho một tiếng như xé vải.
- Cụ làm gì ở đây?
- Bắt dế - Ông già giơ cao cái lọ, nói.
- Bắt dế?
- Đang bắt.
Dế nhảy lục cục trong lọ. Ông già đứng lặng, ánh mắt không dừng lại ở một chỗ, mò đi vì mệt mỏi, như hai đốm lửa đom đóm.
- Bắt dế? - Đinh Câu hỏi - Ở đây cũng thích chọi dế à?
- Ở đây không chọi dế, ở đây thích ăn dế - Ông già nói chậm rãi rồi quay đi bước hai bước, lặng lẽ quì xuống, lá cây ngô rung lên phủ lên đầu lên vai biến ông già thành một nấm mồ. Lúc này ánh sao rất tỏ, từng cơn gió mát đến rồi đi, đúng là lai vô ảnh khứ vô hình, thần bí vô cùng. Đinh Câu cảm thấy xương sống lạnh toát, run lên vì sợ. Lửa đom đóm chập chờn như mộng ảo, âm thầm bay đi. Trong chớp mắt, tiếng dế kêu thảm thiết vang vang cùng trời cuối đất, như chỗ nào cũng có dế. Đinh Câu trông thấy ông già bấm đèn pin nhỏ trong tay, luồng sáng màu vàng dọi trên mặt đất, dừng lại trên một con dế to bự ở gốc cây ngô. Con dế màu đỏ tía, đầu vuông mắt lồi, đùi thô bụng bự, nó thở mạnh trong tư thê chuẩn bị nhảy. Ông già đưa vợt ra chụp rồi bắt bỏ lọ. Chẳng bao lâu, con dế sẽ dược chiên trong chảo mỡ, rồi chui vào bụng người nào đó.
Anh trinh sát chợt nhớ trong một tạp chí “Sành điệu” có một bài dài, giới thiệu chất bổ dưỡng ở con dế và nhiều cách ăn dế.
Ông già nhích lên bằng đầu gối. Đinh Câu xuyên của ruộng ngô, nhằm ánh đèn sáng trưng mà đi tời.
Đây là một đêm thơ mộng, lành mạnh và sống động, vì rằng trong cái đêm này, thăm dò và phát hiện tay nắm tay, học tập và công tác vai kề vai, tình yêu trai gái và cách mạng cùng kết hợp, ánh sao trên trời và ánh đèn dưới đất cùng nhau rọi sáng tấ; cả những xó xỉnh. Đèn thuỷ ngân hình cầu khiến đèn hêli hình ống càng toả sáng. Đinh Câu tay xách thùng, nheo mắt đọc dòng chữ phỏng Tổng viết bằng sơn đen trên nền trắng của tấm biển: TRUNG TÂM NGHIÊN cứu GÂY TRỔNG LƯƠNG THỰC ĐẶC CHỦNG.
Đây là một trung tâm nghiên cứu không lớn. Đinh Câu ngắm mấy ngôi nhà tầng xinh xinh và dãy lán rộng đèn đóm sáng trưng, bụng nghĩ. Một bảo vệ mặc đồng phục xanh, mũ kê pi, thắt lưng quân sự từ sau cổng hiện ra, hùng hổ:
- Làm gì ở đây? Anh ngó ngó nghiêng nghiêng cái gì ở đây? Thăm dò để trộm cắp phỏng?
Đinh Câu thấy cậu ta lưng cài súng xịt hơi cay, tay cầm dùi cui điện của cảnh sát, vênh váo ra vẻ ta đây thì nổi cáu, bèn nói:
- Lỏi con, nói năng lịch sự một chút!
- Mày nói gì vậy? - Cậu bảo vệ lớn tiếng quát, xông tới.
- Ta bảo Lỏi con nói năng lịch sự một chút! - Đinh Câu là đại bàng chính hiệu của công an, kiểm sát, toà án, xưa nay quen thói ngang tàng, hôm nay bị một tay bảo vệ hạch sách, bất giác thấy chân tay ngứa ngáy, cất tiếng chửi: “Đồ chó giữ nhà!”
“Chó giữ nhà” gầm một tiếng nhảy dựng lên, cách mặt đất đúng hai mươi xăngtimét, quát: “Thằng khốn dám chửi ông! Ông phải cho mày một trận!” - Anh chàng rút khẩu súng bắn hơi cay chĩa thẳng vào Đinh Câu.
Đinh Câu vừa cười vừa nói:
- Cẩn thận kẻo cậu ngã trước! Dùng loại súng này, người bắn phải đứng thuận chiều gió.
- Ơ kìa, không nhận ra. Thằng khốn này hoá ra người có nghề.
Đinh Câu nói:
- Ta vẫn dùng súng này để gãi đít!
- Đồ khốn kiếp!
- Lãnh đạo của cậu ra kia kìa! - Đinh Câu hất hàm bảo câhu bảo vệ.
Cậu bảo vệ quay lại nhìn. Đinh Câu thong thả giơ cái thùng sắt lên quật một phát trúng cổ tay cậu ta, khẩu súng bắn hơi cay văng đi. Tiếp theo anh tung chân đá một phát vào cổ tay bên kia, văng nốt chiếc dùi cui.
Cậu bảo vệ định cúi lượm súng, Đinh Câu giơ thùng sắt lên, quát:
- Cúi xuống là ta đập gãy cái lưng chó của ngươi!
Cậu bảo vệ biết là gặp của không vừa, bèn quay người chạy về ngôi nhà tầng. Đinh Câu mỉm cười bước qua cổng.
Một toán mặc đồng phục như cậu bảo vệ từ ngôi nhà tầng chạy ra, trong số đó có một người miệng ngậm còi, thổi lanh lảnh. “Nó đấy nó đấy!” Cậu bảo vệ ăn đòn ban nãy chỉ vào Đinh Câu, nói to: “Đánh chết thằng chó đẻ này đi!” Bọn bảo vệ ùa tối, hơn chục chiếc dùi cui vung lên, hơn chục khuôn mặt hầm hầm như một đàn chó dại.
Đinh Câu thong thả quài tay ra sau, chỗ thắt lưng. Chết cha! Súng để trong xà cột, xà cột để trên ca bin.
Một tên đeo băng đỏ, hình như là tiểu đầu mục, chĩa dùi cui vào mặt Đinh Câu, quát:
- Mày là thằng nào?
Đinh Câu nói:
- Tao là lái xe - Anh giơ chiếc thùng sắt lên.
- Lái xe? - Tiểu đầu mục ngờ vực hỏi - Mày vào đây làm gì?
- Tìm nước. Két nước cạn sạch!
Tình hình đỡ căng, vài chiếc dùi cui hạ thấp xuống.
- Hắn không phải lái xe - Cậu bảo vệ bị ăn đòn nói to - Thằng cha đánh đấm lợi hại kinh khủng.
- Điều ấy chứng tỏ cậu chỉ là đồ vô tích sự - Đinh Câu nói.
- Mày là lái xe của đơn vị nào? - Tiểu đầu mục căn vặn.
Đinh Câu nhớ lại cái tên trên cánh cửa xe tải, trả lời trôi chảy:
- Đại học Nấu nướng.
- Chạy từ đâu về?
- Mỏ than.
- Chứng minh thư đâu?
- Trong túi áo ngoài.
- Áo ngoài để đâu?
- Để trên xe.
- Xe ở đâu?
- Trên quốc lộ.
- Tren xe còn ai nữa?
- Một tiểu thư xinh đẹp.
Tiểu đầu mục cười hì hì:
- Lái xe của Đại học Nấu nướng các người đều là bọn đĩ đực.
- Đúng, đều là bọn đĩ đực.
- Đi đi đi! Tiếp tục làm nhiệm vụ! - Tiểu đầu mục nói - Chỗ nhà tầng có nước, còn đứng đực ra đấy làm gì?
Đinh Câu đi theo bọn bảo vệ đến ngôi nhà tầng. Anh nghe thấy tiểu đầu mục lên lốp cho cậu bảo vệ: “Cậu là thằng đụt! Một thằng lái xe mà không địch nổi, giả dụ có bốn mươi tên cướp thì chúng sẽ thiến dái cậu!”
Bước vào ngôi nhà tầng, ánh đèn sáng quắc khiến Đinh Câu bị choáng. Hành lang trải thảm ni lông hoa, trên tường treo ảnh màu cỡ lớn chụp cây lương thực: ngô, lúa nước, tiểu mạch, cao lương. Còn có mấy loại không giống cây gì, Đinh Câu đoán đây là cái món tả pí lù mà mấy nhà khoa học của Trung tâm vắt óc lai tạo ra. Tiểu đầu mục rất nhiệt tình chỉ cho Đinh Câu đến nhà vệ sinh. Anh ta nói nhà vệ sinh có vòi nước. Đinh Câu cảm ơn anh ta.
Anh trông thấy anh ta cùng những người khác chui vào một căn phòng, lúc mở cửa từ trong; bay ra mùi khói thuốc. Anh đoán họ đang chơi tú lơ khơ hoặc xoa mạt chược, đương nhiên cũng có thể đang học tập văn kiện gì đấy, anh nhếch mép cười tủm, xách thùng rón rén đi về phía nhà vệ sinh, vừa đi vừa đọc những tấm biển treo trước các phòng: Phòng kỹ thuật, Phòng sản xuất, Phòng thống kê, Phòng tài vụ, Phòng dự án, Phòng Hồ sơ, Phòng thực nghiệm, Phòng băng hình. Phòng băng hình cánh cửa khép hò, có người đang làm việc.
Anh xách thùng lặng lẽ tiến vào, thấy một nam một nữ đang xem băng hình. Một chiếc tivi khổng lồ khiến anh sững sờ về kích thước của nó. Màn hình hiện lên dòng chữ Lệ rất đẹp: SẢN PHẨM QUÝ HIẾM - GẠO ĐẦU GÀ.
Nhạc phim du dương, lòng người ngây ngất, bản “Mây vàng đuổi bóng trăng” của Quảng Đông. Anh vốn không định xem, nhưng băng rất hay, rất hấp dẫn, hình ảnh sinh động, màu sắc đẹp. Một dây chuyền giết gà tự động, Hàng loạt sỏ gà liên tiếp rơi thành dãy, đâu ra đấy. Lời thuyết minh: Đông đảo cán bộ, quần chúng của Trung tâm nghiên cứu gây trồng cây lương thưc dưới sự thúc đẩy của… đồng tâm hiệp lực, huy động trí tuệ tập thể, phát huy tinh thần không sợ khó không sợ khổ, ngày đêm phấn đấu… Một đám người mặt mày vàng võ, nhưng đầu thì to đùng, mặc áo bờ-lu trắng đang bày biện hàng lô những ống nghiệm, bình hóá nghiệm gì đấy. Một lô phụ nữ xinh đẹp, tóc cuốn gọn trong mũ công tác, trước ngực khoác tạp dề, dùng panh gắp từng hạt thóc giống nhét vào trong đầu gà. Một lô phụ nữ khác ăn mặc như lô trước, xinh đẹp như lô trước, vùi những đầu gà đã được cấy thóc giống vào chậu. Chuyển cảnh. Hạt thóc trong chậu đã nảy mầm. Mấy chục bình bơm đang tưới cho cây. Cuối cùng là mấy bát cơm bốc hơi nghi ngút, màu đỏ như tiết, hạt nào cũng trong suốt, trong như ngọc, bày trên chiếc bàn phủ khăn hoa. Các vị lãnh đạo hoặc khôi ngô tuấn tú hoặc ục ịch béo phì đang ngồi quanh bàn thưởng thức món lương thực quí hiếm, người nào cũng bằng lòng ra mặt. Đinh Câu cảm động rất mực, mới biết mình là loại ếch ngồi đáy giếng, tri thức nông cạn. Băng chưa chiếu hết, đôi nam nữ đã nói chuyện, Đinh Câu sợ phiền, bèn vội xách thùng nước ra về, đến cổng bắt gặp ánh mắt thù địch của cậu bảo vệ, lưng anh bị những tia mắt của cậu ta đâm thủng lỗ chỗ. Mắt anh mọng nước vì quệt phải lá khi chui qua ruộng ngô. Ông già bắt dế đã đi nơi khác. Khi còn cách ô tô một quãng xa, anh đã nghe thấy tiếng rủa của nữ xế:
- Đ. mẹ, anh lên Hoàng Hà hay xuống Trường Giang lấy nước mà lâu thế?
Đặt thùng nước xuống, anh vẩy tay cho đỡ mỏi, nói:
- Đ. mẹ cô, tôi lên tận con sông Alusarigpu lấy nước đấy!
- Đ. mẹ, tôi tưởng anh chết đuối dưới sông rồi!
- Đ. mẹ cô, không chết đuối mà còn xem băng!
- Đ. mẹ, băng đánh đấm hay trên giường?
- Đ. mẹ cô, không đánh đấm không trên giường mà là gạo đầu gà - lương thực quí hiếm.
- Gạo đầu gà thì có gì lạ! Đ. mẹ, anh cứ luôn miệng đ. mẹ cô đ. mẹ cô là làm sao?
- Đ. mẹ cô, nếu không muốn đ. mẹ cô thì chỉ có cách bịt miệng cô lại!
Đinh Câu lôi cô lại, hai tay ôm chặt eo, gắn cái miệng ngọt bùi cay đắng của anh lên miệng cô.
2
Kính gửi thầy Mạc Ngôn,
Trò đã nhận được thư của thầy.
Ở chỗ “Quốc dân văn học” vẫn không có tin tức gì. Trò sốt ruột quá, nhờ thầy nhắc hộ giáo sư Châu Báu hoặc Lý Tiểu Bảo, để họ trả lời sớm.
Đêm trước trò lại viết một tiểu thuyết, có tên là “Phố Lừa”. Trong truyện này, trò có vận dụng một số kỹ xảo của tiểu thuyết võ hiệp, nhờ thầy xem hộ. Bản thác truyện này gửi nơi nào thì hợp, cũng nhờ thầy định đoạt.
Tư liệu về rượu, trò gửi cùng với thư này. Ba mươi bình rượu ngon thì khi nào có xe đi Bắc Kinh, trò sẽ gửi cho thầy. Thầy nhận rượu của trò là hợp lẽ, ngày xưa đức Khổng tử mồ lớp thu nhận học trò, còn bắt mỗi người nộp một gói thịt kia mà!
“Quốc dân văn học” không có tin gì khiến trò nản quá, hồn vía như bay đâu mất, thầy là người thông hiểu mọi sự, chắc chắn rất hiểu tâm trạng của trò.
Kính chúc thầy xuôi xẻ trong sáng tác.
Trò: Lý Một Gáo
3
Một Gáo huynh,
Thư và bản thảo đều đã nhận được. Tư liệu thì chưa, ấn phẩm thường chậm hơn thư.
Tôi hoàn toàn thông cảm tâm trạng của huynh. Tôi cũng từng chờ đợi gian nan như thế. Nói thật với huynh, để văn học biến thành con chữ in tipô, tôi đã làm hoặc định làm tất cả mọi việc. Nhận được thư huynh, tôi liên hệ ngay với Châu Báu qua điện thoại. Anh ta nói, anh ta đã đọc ba truyện của huynh, hơn nữa đọc tới ba bốn lượt. Anh ta nói, bản thân anh ta cũng chưa biết quyết định thế nào, nhất thời chưa thể rạch ròi được. Anh ta nói, đang suy nghĩ cẩn thận. Anh ta đã chuyển tiểu thuyết của huynh cho Lý Tiểu Bảo, bảo Lý đọc gấp rồi trao đổi quan điểm. Cuối cùng anh ta nói rằng, trong ba truyện này đương nhiên có những vấn đề cần trac đổi, nhưng tài hoa của tác giả là điều không cần bàn cãi! Đọc đến đây chắc huynh nhẹ người rối chứ? Với người viết văn, tài hoa quan trọng hơn hết. Có người cả đời là nhà văn, viết rất nhiều, cũng biết “bùa phép” để trở thành nhà văn lớn, vậy mà rốt cuộc không thành danh. Những người này không thiếu thứ gì, chỉ thiếu tài hoa hoặc tài hoa không đủ độ chín.
“Phố Lừa” tôi đã đọc ba lượt, ấn tượng chung là tương đối thoáng, mạnh dạn, thẳng ruột ngựa. Nói gọn một câu: Bạo! Phải chăng truyện được viết sau khi uống “Bờm tía ngựa hồng”?
Một số chỗ tôi không rõ lắm cùng với một số ý chưa chín, cứ nêu để huynh tham khảo:
1) Trong truyện, thằng nhỏ da vẩy cá, cưỡi lừa đen, bay mái vượt tường như đi trên đất bằng là hiệp khách hay tên đạo tặc? Nó từng xuất hiện trong “Trẻ thịt” và “thần đồng” (có phải là một hay không?), gần như không có ai xuất hiện một cách bất bình thường, vậy mà trong tác phẩm này lại biến thành siêu nhân nửa thần tiên nửa yêu quái, như vậy có quá đáng không? Đương nhiên huynh chưa nói với tôi những tác phẩm này là tác phẩm chị em có liên quan với nhau về nội dung. Còn nữa, chúng có quan hệ thế nào với tên tiểu yêu quần áo màu đỏ? Trong “Thần đồng” hình như huynh nói thằng tiểu yêu chính là thằng vẩy cá.
Tôi xưa nay chưa hề đánh giá thấp tiểu thuyết võ hiệp (truyện Chưởng). Tiểu thuyết võ hiệp lôi cuốn nhiều độc giả đến thế cũng đã nể rồi. Vụ hè năm ngoái, tôi có đọc mấy chục bộ, quên ăn quên ngủ. Đọc xong, ngay bản thân tôi không còn biết tối là ai. Thừa biết đó là chuyện tào lao, nhưng sao mà say sưa mê mẩn! Có người bảo tiểu thuyết võ hiệp là chuyện đồng thoại cho người lớn. Có lý lắm. Đương nhiên, sau khi đọc xong mấy chục bộ, tôi phát hiện trình độ mô thức hoá của tiểu thuyết này rất đậm nét, viết đại một bộ không khó, nhưng mà viết được như Kim Dung, Cô Long không dễ dàng chút nào. Trong tiểu thuyết của huynh có trưng một số “tạp giao” để cho thiên hạ nhấm nháp, thành công hay không khoan hẵng bàn, chỉ riêng cái ý tưởng đã rất có ý nghĩa. Hiện nay có một nhà văn nữ theo chủ nghĩa tiên phong, họ Hoa tên Đại Thư thử nghiệm “tạp giao” rất hiệu quả, nếu huynh không ngán thì tìm đọc một số tác phẩm của nhà văn đó. Người này hình như cư trú tại huyện Thất Tinh (nơi đây có một Huyện trưởng thân bại danh liệt vì chuyện buôn thuốc chuột), cách thành phố Rượu không xa. Khi nào rỗi và nếu không ngại, huynh đến thăm nhà văn “tạp giao” đó một tí.
Tôi nghe Triệu To Mồm nghiên cứu sinh Viện văn học Lỗ Tấn nói, “Long phượng trình tường” là món ăn kinh điển của Quảng Đông, nguyên liệu chính là rắn độc và gà rừng (Tất nhiên trong thời buổi ăn bớt ăn xén này, rất có khả năng được thay thế bằng thịt lươn và gà nhà). Món “Long phượng trình tường” của các hạ lại dùng phần lộ ra ngoài của bộ máy sinh dục lừa đực và lừa cái làm nguyên liệu chính, không hiểu có ai dám đụng đũa? Tôi e rằng món ăn này sẽ không được các nhà phê bình văn nghệ tiếp nhận vì khuynh hướng tự do hoá tư sản quá lộ liễu. Thời nay đắc ý cho một số anh hùng hào kiệt, những người này mũi khuyển mắt diều, tay cầm kính lúp, chuyên bới “câu chữ bẩn thỉu” trong tác phẩm, tránh né được họ quả không dễ, nó như quả trứng vỡ khó mà tránh lũ nhặng đến đẻ trứng. Tôi viết “Hoan lạc” và “Châu chấu đỏ” nên mấy năm nay bị họ nhổ nước bọt đầy người, thôi tắc mũi! Họ vận dụng cách đánh thời “Bè lũ bốn tên”, bớt đầu xén đuôi, chỉ cần chộp lấy một cái, không cần biết đến những cái khác, không cần biết cái “chi tiết bẩn thỉu” đó nằm trong vần cảnh như thế nào, không dùng quan điểm văn học, mà lại dùng quan điểm sinh lý học và luân lý học thuần tuý mà công kích không thương tiếc, lại còn không cho giải thích. Do đó, theo kinh nghiệm của tôi, huynh nên đổi món đi thì hơn.
3) Về Dư Một Thước, tôi rất thích nhân vật này, dù rằng huynh viết về anh ta không nhiều. Hình tượng người lùn trong tác phẩm văn học, nước ngoài và Trung Quốc đều có, nhưng được coi là điển hình thì không nhiều. Tôi mong huynh phát huy tài năng, dựng bia lập truyện cho người lùn này. Chẳng phải anh ta yêu cầu huynh viết “truyện ký” về anh ta đó sao? Tôi tin rằng “truyện ký” về anh ta sẽ rất hay. Một anh lùn con nhà dòng dõi, đọc thiên kinh vạn quyển, đầy bụng kinh luân., nhẫn nhục mấy chục năm, một buổi phong vân gặp hội, một bước lên tận trời xanh, có tiền, có danh, có địa vị, giờ đây thề sẽ “Đ. suốt lượt gái đẹp thành phố Rượu”, đằng sau lời lẽ hùng hồn ấy ẩn chứa động cơ tâm lý nào? Trong khi thực hiện lời lẽ hùng hồn ấy, tâm lí anh ta có gì thay đổi? Sau khi thực hiện lời lẽ hùng hồn ấy trạng thái tinh thần của anh ta sẽ ra sao? Đằng sau mỗi dấu hỏi sẽ có bấy nhiêu áng văn đẹp đẽ, sao huynh không thử thi thố một chút trong cái khả năng vĩ đại của huynh?
4) Phần mở đầu của tiểu thuyết, xin thứ lỗi cho tôi nói thẳng, gần như lải nhải những lời thừa, không có ý nghĩa thực tế. Nếu như cắt bỏ toàn bộ phần nói trên, văn chương sẽ súc tích hơn.
5) Trong truyện, huynh thiết kế ông thân sinh cặp người lùn đó là một lãnh đạo cấp quốc gia. Nếu như ca ngợi chính diện, đương nhiên càng cao cấp càng có lợi, nhưng trong tác phẩm của huynh thường xuyên dè bỉu ông cốp này, vậy là rách việc, vì rằng xã hội như cái hình tháp, càng lên trên càng nhọn, cũng có nghĩa là phạm vi càng nhỏ, một khi người trên đỉnh tháp đã chiếu tướng anh thì còn nguy hiểm hơn bị cảm cúm. Do vậy tôi đề nghị huynh nên hạ thấp bớt dòng dõi của cặp người lùn, làm nhỏ lại cái mũ ô sa trong tác phẩm của huynh.
Dài dòng văn tự quá rồi, nghĩ sao viết vậy, đầy mâu thuẫn, huynh đọc rồi quên luôn, đừng nghiêm chỉnh quá. Trên đời sợ nhất hai chữ “nghiêm chỉnh”, người nào nghiêm chỉnh người ấy thiệt!
Truyện “Phố Lừa” cứ gửi cho “Quốc dân văn học”, nếu “Quôc dân văn học” không dùng, ta sẽ kiếm cách giới thiệu chỗ khác.
Truyện dài “Tửu quốc” của tôi đã viết được mấy chương, vẫn tưởng chỉ vài trận say là có thể viết về rượu, ai ngờ bắt tay vào viết mới cảm thấy khó khăn chồng chất, rối rắm quá. Trong mối quan hệ giữa nhân loại và rượu, gần như bao gồm toàn bộ mâu thuẫn trong quá trình sinh tồn và phát triển của nhân loại và về phương diện mâu thuẫn, nếu như tài cao, có thể viết một tác phẩm vĩ đại về đề tài này. Nhưng tôi tài sơ trí thiển, chỗ nào cũng vấp, giật gấu vá vai. Rất mong huynh nói nhiều về rượu một tí khi viết thư cho tôi, may ra đem lại cho tôi đôi chút linh cảm.
Chúc may mắn!
Mạc Ngôn
4
Phố Lừa
Các bạn thân mến, cách đây ít lâu, các bạn đã đọc “Rượu cồn”, “Trẻ thịt”, “Thần đồng” của tôi. Giờ ấy cho phép tôi giới thiệu “Phố Lừa” với các bạn, mong các bạn hết sức thông cảm, hết sức chiếu cố. Những lời linh tinh trên đây, theo cách nhìn của những nhà phê bình văn học, tuyệt đối không được đưa vào tiểu thuyết vì nó phá hoại tính thống nhất và hoàn mĩ của tiểu thuyết. Nhưng bởi vì tôi là Tiến sĩ nghiên cứu về rượu, hàng ngày trông thấy rượu, ngửi rượu, uống rượu, ôm rượu, hôn rượu, xoa má sờ vai, ngay cả hít thở không khí cũng sặc mùi rượu, tôi đúng là có phẩm cách rượu, tính tình rượu. Bợm rượu là gì? Bợm rượu là đây. Rượu đã khiến tôi thần hồn điên đảo, không sao sống có qui củ. Phẩm cách của rượu là bừa bãi lung tung, tính tình của rượu là huyên thuyên xích đế!
Các bạn thân mến, kể từ khi tôi bước ra khỏi vòm cổng hình parabôn đẹp đẽ nguy nga của trường đại học Nấu nướng, là tôi bỏ lại sau lưng tất tật. Bỏ lại sau lưng giảng đường cao to hình nậm rượu, bỏ lại sau lưng toà nhà thực nghiệm hình chiếc cốc, bỏ lại sau lưng xưởng rượu của trường; với ông khói toàn hơi rượu, “trút bỏ gánh nặng, thanh thản tiến lên”, hãy đi theo tôi, sáng mắt sáng lòng, không lạc mất hướng, bước trên cây cầu bằng gỗ sam bắc qua dòng sông rượu ngọt, nước chảy lững lò, sen ngủ trên mặt nước, bướm đậu trên sen, vịt trắng rỡn nước, cá bơi trong hồ, cảm giác của cá bơi, tình cảm của vịt trắng, tư tưởng của bèo lục bình, tiếng nói mơ của dòng sông… Xin chú ý, cái cổng sực nức nùi thơm của Học viện Nấu nướng đang vẫy gọi chúng ta. Mẹ vợ tôi công tác ở Học viện này. Gần đây bà bị điên, ẩn trong căn buồng cửa sổ hai lần rèm, ngày đêm viết đơn tố cáo. Chúng ta tạm thòi cứ để bà ở đấy, càng không đếm xỉa đến mùi thơm từ Học viện bay ra. “Người tham của mà chết, chim tham mồi tử vong”, đó là chân lý không thể chối cãi. Trong những năm tháng hỗn loạn và tồi tệ này, con người cũng như con chim, thoạt nhìn, tưởng có vẻ tự do tự tại, trên thực tế chỗ nào cũng có cạm bẫy, chỗ nào cũng bủa lưới, cung tên và súng đạn. Được, mũi chúng ta đã bị ngộ độc vì mùi vị thì ta bịt mũi lại, mau chóng gạt Học viện Nấu nướng sang một bên, cùng tôi đi tắt, xuyên qua phố Hươu chật hẹp, nghe tiếng hươu kêu ò ò mà tưởng tượng ra chúng đang ăn bèo tấm. Nhìn thấy các cửa hiệu hai bên đường treo đầy sừng hươu, ngổn ngang như rừng gươm bể kiếm. Chân bước trên con đường già nua lát đá xanh mọc đầy rêu, cỏ non nhú ra từ kẽ đá. Mặt đường trơn tuột, chú ý dưới chân kẻo ngã. Chúng tôi thận trọng dò từng bước, quanh co một hồi mới đến phô Lừa. Con đường dưới chân vẫn lát đá xanh, từng trải phong sương, gió mưa vùi dập, chịu bao dẫm đạp nhọc nhằn, cạnh đá nhẵn nhụi, mặt đá bóng như gương đồng. Phố Lừa to hơn phố Hươu đôi chút, mặt đường đầy vết máu, trên phủ những tấm da lừa đen. Phố Lừa trơn hơn phố Hươu, trên đường những con quạ đen như mun nhẩy nhót, kêu quà quà! Đường rất khó đi, nhắc để mọi người cảnh giác mà tuân thủ qui phạm đi đường: Người thẳng, dưới chân như mọc rễ, không được vừa đi vừa ngó ngược ngó xuôi như mấy các vị nhà quê ra tỉnh. Đi kiểu ấy là bị ngã, ngã thì không đẹp mắt, ngã thì lôi thôi to, bẩn quần bẩn áo là chuyện nhỏ, gãy xương trẹo vai là chuyện lớn. Tóm lại, ngã là rách việc. Vì hạnh phúc của độc giả, ta cứ đi tà tà.
Thành phố Rượu chứng tôi có những anh hùng hào kiệt nghìn chén không say, bi ca khẳng khái, cũng có những bợm thó tiền của vợ đi đổi rượu, còn có những kẻ bắt gà trộm chó, bọn vô lại lưu manh đâm thuê chém mướn, chuyên nghề lừa đảo. Năm xưa, bọn Thanh Thảo Xà Trương Tam, Bát Bì Ngưu Nhị ăn quả thụi của Hoa hoà thượng, xơi Lưỡi đao của Thanh Diện Thú, đều để lại con cháu ở thành phố Rượu, cái nòi gian ác vẫn tiếp nối, hỏi nghìn năm nữa chưa chắc đã tuyệt diệt. Loại người này tụ tập ở phố Lừa, là một cảnh quan của thành phố Rượu chúng tôi. Bạn trông thấy người nao đứng tựa cửa, miệng ngậm thuốc rê, người nào tay cầm chai rượu, miệng nhai thịt nhồm nhoàm, người nào miệng huýt sáo tay xách lồng chim, thì chính là bọn ấy. Các bạn phải nhìn cho kỹ, đừng có trêu vào chúng, người tử tế không nên dây vào bọn ác ôn, giầy mới không nên để dính cứt. Phố Lừa là nỗi nhục và cũng là nỗi vinh của thành phố Rượu chúng tôi. Chưa đến phố Lừa coi như chưa đến thành phố Rượu. Cả phố có hai mươi bốn nhà mổ thịt lừa, hành nghề từ triều Minh, mổ một triều Minh cộng với một Trung Hoa Dân quốc. Đảng Cộng sản đến, lừa trở thành tư liệu sản xuất, giết lừa là phạm pháp, phố Lừa trở nên tiêu điều.
Những năm gần đây cải cách mở cửa hướng ra nước ngoài, mức sống của dân ngày càng cao, cần phải ăn thịt để nâng cao chất lượng nòi giống, phố Lừa lại trở nên nhộn nhịp. “Trên trời có thịt rồng, dưới đất có thịt lừa”, thịt lừa thơm, thịt lừa đậm, thịt lừa là mĩ vị chốn trần gian. Độc giả nhìn các quan chức, các vị khách hàng, các vị bằng hữu, các nữ sĩ, các tiên sinh, những mixtơ và mix ấy leo lẻo “Ăn thì phải Quảng Châu”. Láo toét! Bịp! Nghe tôi nói đây, nói gì nhỉ? Nói tới những món ăn nổi tiếng của thành phố Rượu, kể một sót mười là khó tránh khỏi, xin châm chước! Đứng trên phố Lừa nhìn ra thành phố Rượu, đúng là món ăn ngon chồng chất như mây trên trời, mắt không lúc nào rỗi: Phố Lừa giết lừa, phố Hươu thịt hươu, phố Trâu mổ trâu, ngõ Dê thịt dê, Lò mổ giết lợn, hẻm Ngựa thịt ngựa, chợ Chó, chợ Mèo giết chó giết mèo… không sao đếm xuể, khiến người tâm phiền ý loạn, mồm miệng khô ráp. Tóm lại, phàm là trên quả đất có những gì ăn được, sơn hào hải vị, thú chạy chim bay, vây cá giới trùng, đều có thể ăn ở thành phố Rượu. Những gì nơi khác có, chúng tôi có, nơi khác không có, chúng tôi có. Không những có, mà quan trọng nhất, đáng nể nhất là rất đặc sắc, có phong cách có lịch sử có truyền thống có tư tưởng có văn hoá có đạo đức. Thoạt nghe tưởng nói khoác, thực ra không nói khoác. Trong cao trào làm giầu trên cả nước, riêng lãnh đạo thành phố Rượu chúng tôi có con mắt tinh đời, đi con đường riêng, tìm ra con đường làm giầu độc đáo của mình. Chư vị bằng hữu, chư vị tiên sinh, chư vị nữ sĩ, người ta ở đời, không gì quan trọng hơn chuyện ăn. Vì sao phải có cái miệng? Là để ăn uống. Phải để những người đến thành phố Rượu chúng tôi được ăn uống ngon miệng. Phải để họ ăn ra ăn, vui thú mà ăn, nghiện ăn. Phải cho họ uống ra uống, vui thú mà uống, nghiện uống. Phải cho họ hiểu rõ, ăn không chỉ duy trì sự sống, mà còn thông qua ăn uống; mà thể nghiệm mùi vị thật sự của cuộc đời, cảm nhận được triết học của cuộc sống. Cho họ hiểu rằng, ăn và uống không chỉ là quá trình hoạt động sinh lý mà còn là quá trình đào thải tinh thần, quá trình thưởng thức cái đẹp.
Đi chậm thôi, phải nhìn ngắm. Phố Lừa dài hai dặm, các quán thịt lừa hai bên đường. Cơm, rượu chín mươi quán, quán nào cũng dùng thịt lừa làm nguyên liệu. Mỗi quán một vẻ, tranh khéo tranh khôn, quả là nơi tập đại thành về trí tuệ trong chuyện ăn thịt lừa. Ăn hết chín mươi quán thì có thể suốt đời không thèm ăn thịt lừa nữa. Và chỉ có sau khi đã ăn hết chín mươi quán thì mới có thể vỗ ngực mi, nói rằng: “Tôi đã ăn thịt lừa!”
Phố Lừa như một đại từ điển phong phú, cái miệng của tôi dù có sắc bén, dù nói chắc như đanh đóng cột thì cũng không bằng, không hết, không thấu. Nói không tốt là nói mò, nói không hay là nói bậy, xin thứ lỗi, xin bỏ qua, cho phép tôi được uống một chung rượu “Bòm tía ngựa hồng” để tinh thần phấn chấn. Vài trăm năm nay, phố Lừa chúng tôi đã hoá kiếp bao nhiêu con lừa, quả thực không thể thông kê cho chính xác, có thể nói ngày cũng như đêm hàng đàn oan hồn của những con lừa đi diễu trên đường, có thể nói, mỗi phiến đá lát đường đều thấm đẫm máu lừa, có thể nói mỗi một gốc cây ngọn cỏ ở phố Lừa đều được tưới tắm bằng tinh thần của lừa, có thể nói, mỗi nhà xí ở phố Lừa đều lố nhố những linh hồn của lừa, có thể nói tất cả những người đã đến phố Lừa hoặc ít hoặc nhiều mang chất lừa. Các bạn thân mến, chuyện lừa như đám khói, trùm lên phố Lừa, làm yếu đi ánh sáng mặt trời, chúng ta chỉ cần nhắm mắt lại, là trông thấy từng đàn từng lũ những con lừa chạy như điên, kêu ầm ĩ.
Ở đây có một truyền thuyết mang dáng dấp thần thoại: mỗi khi đêm khuya thanh vắng là có một con lừa tơ màu đen cực kỳ linh lợi, cực kỳ đẹp mã, chạy như bay trên đường lát đá xanh, từ đầu đông chạy sang đầu tây. Bộ vó của nó như khắc bằng mã não nện ròn rã trên những phiến đá, nghe như những nốt nhạc từ trên cao giội xuống, cho ta cảm giác ròn rợn, pha chút thần bí dịu dàng, nghe mà muốn khóc, mà ngẩn ngơ, mà say mê, mà tự nhiên thở dài. Nếu như vào một đêm trăng sáng…
Đêm ấy, Dư Một Thước chủ quán rượu người lùn uống rốn mấy chén rượu tăm, bụng nóng ran, bèn đánh trần, bụng tròn như cái trống chầu, chống cây gậy trúc ra hóng mát ở gốc cây thạch lựu. Ánh trăng tràn xuống đất, những phiến đá lái; đường sáng như gương. Đã là tiết cuối thu, gió bắt đầu lạnh, những người hóng mát đều đã về nhà, nếu không tại rượu phát tác thì Dư Một Thước cũng không ra ngoài làm gì. Ban ngày người đông như kiến cỏ, giờ đây vắng vẻ, côn trùng kêu ran từ các xó xỉnh, tiếng kêu sắc nhọn như mũi tên, gần như có thể xuyên thủng tường đồng vách sắt. Gió lạnh mơn man da bụng, khoan khoái vô cùng. Một Thước ngẩng nhìn những đoá hoa thạch lựu chúm chím như môi son, chợt ngứa ran, khắp người nổi da gà, cơn buồn ngủ theo gió bay đi, người cứng đờ y như bị một cao thủ võ lâm điểm huyệt, tuy nhiên đầu óc thì sáng suốt, mắt tinh. Anh trông thấy một con lừa đen như từ trên trời rơi xuống xuất hiện trên đường phố. Con lừa to béo, toàn thân bóng loáng như đắp bằng sáp. Nó tắm khan, lăn mấy vòng trên đường phố rồi đứng lên, rùng mình như để rũ bụi thực ra không có bụi trên người, rồi nó nhảy dựng lên một cái rất cao, cong đuôi chạy trên đường phố, từ đầu đông chạy sang đầu tây, rồi lại từ đầu tây chạy sang đầu đông, chạy đi chạy lại như vậy ba lượt như một làn khói. Tiếng vó nện trên đường át hẳn tiếng côn trùng, đến khi nó dừng lại trên phố thì bọn côn trùng mới lại rộ lên. Dư Một Thước còn nghe thấy tiếng sủa gâu gâu trên chợ Chó, tiếng kêu nghé ọ trên chợ Trâu, tiếng be be của một con dê cỏn trong ngõ Dê, tiếng hí hí của ngựa con trong ngõ Ngựa, và tiếng gáy râm ran xa gần của gà trống: Ò… ó… o. Con lừa đen đứng giữa phố như đang chờ đợi cái gì đấy, cặp mắt đen láy tròn như hai chiếc đèn lồng tí hơn. Dư Một Thước nghe chuyện về con lừa đã từ lâu, hôm nay mới đích mục sở thị không khỏi bàng hoàng, vỡ lẽ ra rằng những chuyện truyền thuyết trên đời không phải bịa đặt. Giờ đây hắn cố thu mình lại, bất động như cây gỗ mục, mắt mở thao láo mà chứng kiến chuyện con lừa đen.
Không biết mấy khắc đã trôi qua, Dư Một Thước thấy cay mắt, con lừa đen vẫn đứng bất động giữa phố như một pho tượng. Chính lúc đó, tất cả chó của thành phố Rượu sủa như điên - tất nhiên là rất xa, Dư Một Thước chợt tỉnh, thấy tiếng động trên mái ngói từ xa đến gần, liền đó hắn trông thấy một bóng đen từ nóc nhà bay xuống, không chệch không trượt, rơi đúng lưng lừa. Con lừa tung vó, vọt đi như một làn khói, trên lưng chở con người từ trên trời rơi xuống. Dư Một Thước do lùn không đến trường, nhưng vốn xuất thân con nhà khoa bảng, cha là giáo sư, ông đỗ Tú tài, ngược lên mấy thế hệ có người còn đỗ Tiến sĩ Hàn lâm gì đấy. Nhìn mãi nên nhớ, Dư Một Thước biết được mấy ngàn chữ, cảnh tượng vừa được chứng kiến hồi nãy khiến hắn nhớ tới chuyện các hiệp khách ẩn hiện như thần trong truyện truyền kỳ của người đời Đường, hắn lại nghĩ, dù khoa học phát triển như vũ bão, nhưng vẫn còn vô số những chuyện không thể giải thích nổi. Hắn thử trên người: tuy đờ đẫn nhưng vẫn có thể hoạt động. Sờ bụng: ướt đẫm mồ hôi. Qua ánh trăng, Dư Một Thước nhìn thấy cái bóng đen hình như vừa lùn vừa nhỏ người, là một thiếu niên, mình có vẩy như vẩy cá phản quang lấp lánh, miệng ngậm con dao lá liễu, bọc quần áo trên lưng…
Chư vị khán quan, các vị có lẽ sẽ chửi: thằng cha này nói nhiều quá, không dẫn bọn tớ đến quán rượu, lại cứ loay hoay ở phố Lừa. Các vị chửi là phải, là tuyệt cú mèo, là đích đáng, nào ta hãy nhanh chân, nhanh như sao băng, thứ lỗi cho tôi không giới thiệu từng tên quán lướt qua hai bên đường, cố nhiên quán nào cũng có sự tích riêng, quán nào cũng có tuyệt chiêu riêng, tôi đành bấ