Phần Thứ Hai.
Héclốc Sôm và Uynxơn người ở bên phải và bên trái lò sưởi lớn, chân duỗi gần ngọn lửa than ấm cúng.
Tẩu thuốc ngắn bằng thạch thảo, bịt bạc của Sôm tắt ngấm. Y dốc tàn ra, nhồi thuốc mới, châm lửa, kéo vạt áo ngủ lên đùi, rít mấy hơi thuốc dài rồi phả lên trần những vòng khói tròn.
Uynxơn nhìn y, cặp mắt không có hy vọng gì khác là phát hiện ra cử chỉ chờ đợi, như một con chó nằm cuộn khoanh trên thảm nhìn chủ với đôi mắt tròn, không chớp. Liệu chủ có phá vỡ bầu không khí yên lặng không? Liệu ông ta có lộ ra sự bí mật của điều ông đang nghĩ ngợi và cho phép vào vương quốc của sự suy ngẫm mà đối với Uynxơn, lối vào như bị cấm ấy không? Sôm vẫn yên lặng. Uynxơn liền nói:
- Tình hình yên ắng thật. Chẳng có vụ việc gì.
Sôm ngày càng lặng thinh đến sợ. Nhưng những vòng khói tròn ngày càng dầy. Chán nản, Uynxơn đứng dậy và tiến lại gần cửa sổ.
Đường phố buồn, kéo dài giữa những mặt tiền nhà ảm đạm, dưới bầu trời mưa rơi dữ dội, điên dại, tối đen. Một chiếc xe độc mã lao qua, lại một chiếc khác nữa. Uynxơn ghi các số xe vào sổ tay của mình. Biết đâu chả có lúc cần?
- Kia, y thốt lên, "người phát thư".
Người giúp việc dẫn ông ta vào.
- Thưa ông có hai lá thư bảo đảm... ông ký chứ ạ?
Sôm ký vào sổ, tiễn người phát thư ra tận cửa và trở vào, vừa bóc một trong hai lá thư.
- Anh có vẻ rất vui thích - một lát sau Uynxơn nhận xét.
- Lá thư này có một đề xuất rất thú vị. Anh thích có một vụ việc thì có một vụ đây: Anh đọc đi...
Uynxơn đọc:
"Thưa ngài,
Tôi đến xin ngài cứu giúp bằng kinh nghiệm của ngài. Tôi là nạn nhân của một vụ trộm quan trọng và đến nay công cuộc điều tra tiến hành hình như không có kết quả.
Theo thư này, tôi gửi tới ngài một số tờ báo sẽ nêu với ngài về vụ đó, nếu ngài chấp nhận điều tra hộ, tôi bố trí khách sạn để ngài sử dụng. Xin ngài ghi vào tờ séc tôi đã ký, số tiền ngài cần tiêu về chi phí đi lại.
Xin ngài vui lòng đánh điện trả lời cho tôi và tin ở lòng thành kính của tôi.
Nam tước Vichto Đanhblơvan - 18 phố Muyrilô”.
- Ê! Này! - Sôm réo lên, - một tin tuyệt diệu... một cuộc du lịch nhỏ đến Pari; chắc chắn thế, tại sao lại không nhỉ? Từ sau cuộc đấu tay đôi của tôi với Arxen Lupanh, tôi chưa có dịp trở lại đấy. Tôi không tức giận gì khi thấy thủ đô của thế giới trong những điều kiện hơi yên tĩnh quá.
Y xé chiếc séc ra làm tư, mở chiếc phong bì thứ hai trong khi Uynxơn, tay chưa bình phục hẳn, nguyền rủa Pari.
Ngay lập tức, y cau có, một nếp nhăn hằn trên trán trong suốt cả quá trình đọc thư rồi vo tròn tờ giấy, ném mạnh xuống sàn nhà.
- Sao? Có chuyện gì thế? - Uynxơn thốt lên, hoảng hốt.
“Ngài sẽ biết sự thán phục của tôi đối với ngài và sự thiện cảm của tôi đối với danh tiếng của ngài. Vậy thì, xin hãy tin tôi, xin đừng nhúng vào vụ việc mà người ta xin ngài tranh tài. Sự can thiệp của ngài gây nên nhiều điều xấu, mọi cố gắng của ngài chỉ đưa tới một kết quả đáng thương và ngài buộc phải công khai thú nhận thất bại.
Thành tâm mong tránh cho ngài một sự nhục nhã như thế, nhân danh tình bạn giữa chúng ta, tôi khẩn khoản xin ngài ngồi yên ở góc bếp của ngài.
Xin gởi ông Uynxơn những kỷ niệm tốt lành và ngài, thầy của tôi sự tôn kính chân thành.
Arxen Lupanh!”
- Arxen Lupanh! - Uynxơn nhắc lại, bối rối...
Sôm đấm tay lên bàn.
- A! Nhưng, con vật đó nó bắt đầu làm tôi bực mình. Nó chế tôi như một thằng nhãi ranh. Công khai thú nhận sự thất bại của ta à! Ta chẳng bắt nó phải hoàn lại viên kim cương xanh đó sao?
- Nó đã sợ, - Uynxơn nói chen vào.
- Anh thốt ra những lời dại dột đấy! Arxen Lupanh chẳng bao giờ sợ và bằng cớ là nó thách thức tôi đấy.
- Nhưng làm thế nào mà nó biết được lá thư nam tước Đanhblơvan gửi cho chúng ta?
- Làm sao tôi biết được chứ? Anh hỏi tôi những câu hỏi ngớ ngẩn, anh bạn thân mến ạ!
- Tôi nghĩ... tôi tưởng...
- Sao? Tôi là một tên phù thuỷ à?
- Không, nhưng tôi đã thấy anh làm những điều kỳ diệu như thế!
- Chẳng ai làm những điều kỳ diệu... tôi cũng chẳng hơn người khác. Tôi suy nghĩ, tôi suy đoán, tôi kết luận nhưng tôi không đoán mò. Chỉ có những tên ngu ngốc mới đoán mò...
Uynxơn giữ thái độ nhũn nhặn của một con chó bị đánh và cố gắng để không phải là một tên ngu ngốc, để không hề đoán mò tại sao Sôm bước những bước dài giận dữ trong phòng. Nhưng Sôm đã nhấn chuông gọi người giúp việc và bảo lấy vali. Uynxơn tin là hợp lý, vậy là có một số việc cụ thể để suy nghĩ, để suy đoán và để kết luận là thầy đi du lịch.
Cũng hoạt động trí óc đó cho phép anh khẳng định, chắc chắn không sợ nhầm lẫn.
- Héclốc, anh đi Pari?
- Có thể.
- Và anh đi đến đó để trả lời sự thách thức của Lupanh hơn là yêu cầu của nam tước Đanhblơvan.
- Có thể.
- Tôi sẽ đi cùng anh, Héclốc ạ.
- Chà chà! Ông bạn già ơi, Sôm vừa thốt lên vừa ngừng đi, vậy anh không sợ tay trái sẽ chung số phận như tay phải à?
- Điều gì xảy ra với tôi cơ? Anh sẽ ở đấy cơ mà.
- Tốt lắm, anh là một người táo bạo đấy! Và chúng ta sẽ thể hiện cho ngài đó biết ông ta có thể đã sai lầm khi thách thức chúng ta quá sỗ sàng như vậy. Nhanh lên Uynxơn, và hẹn gặp ở chuyến tàu thứ nhất nhé.
- Thế không đợi những tờ báo mà nam tước nói là sẽ gửi à?
- Cần gì!
- Tôi đánh điện chứ?
- Vô ích, Arxen Lupanh sẽ nắm được tôi đến. Tôi không để lộ ra. Uynxơn ạ, lần này phải tiến hành kín đáo.
Buổi chiều, hai người lên tàu ở Đuvrơ. Chuyến đi thật tuyệt vời. Trong tàu nhanh Cale đi Pari. Sôm ngủ rất say ba tiếng đồng hồ trong khi Uynxơn gác cẩn thận ở cửa phòng toa và suy ngẫm, mắt nhìn xa xôi.
Sôm tỉnh dậy sung sướng, khoan khoái. Viễn cảnh một cuộc đấu tay đôi mới với Arxen Lupanh làm y vui sướng và y xoa tay, dáng điệu của một người hài lòng, chuẩn bị hưởng những niềm vui tràn trề.
- Sắp đỡ tù cẳng rồi! - Uynxơn thốt lên.
Và hắn cũng xoa tay với cùng dáng điệu hài lòng.
Đến ga, Sôm mang áo tơi, và Uynxơn theo sau xách vali - ai mang dồ nấy, nhanh nhẹn ra cửa.
- Uynxơn này, trời đẹp... Có nắng! Pari mở hội để đón chúng ta.
- Đông người quá!
- Càng tốt Uynxơn ạ! Chúng ta đỡ bị nhòm ngó. Chẳng ai nhận ra chúng ta giữa sự hỗn độn như thế này!
- Ông Sôm đấy, có phải không ạ?
Y dừng lại, hơi sửng sốt. Ai có thể gọi đích danh y như vậy? Một bà hay là đúng hơn một cô gái đứng ngay cạnh họ, cách ăn mặc rất đơn giản làm nổi bật dáng người hiếm có và khuôn mặt xinh đẹp, lộ vẻ ngạc nhiên và đau đớn.
Nàng nhắc lại:
- Ngài có đúng là ông Sôm không ạ?
Do Sôm yên lặng vì vừa bối rối cũng như vì thói quen thận trọng, nàng hỏi lại lần thứ ba:
- Có đúng là tôi được hân hạnh nói chuyện với ông Sôm không ạ?
- Cô muốn gì ở tôi nào? - Y hỏi lại khá cục cằn vừa tin đây là một cuộc gặp gỡ đáng ngờ.
Nàng đứng thẳng trước mặt hắn.
- Ông hãy nghe tôi, rất là hệ trọng, tôi biết là ông đến phố Murilô.
- Cô nói gì?
- Tôi biết... tôi biết... phố Murilô... số nhà 18. Vậy thì, không nên... không, ông không được đến đó... Tôi bảo đảm là ông sẽ hối hận. Đừng nghĩ là nếu tôi nói với ông như vậy, tôi có một số lợi ích gì. Đó là vì lẽ phải, vì lương tâm thôi.
Y tìm cách tách khỏi nàng, nàng nói thêm:
- Ôi tôi xin ông, đừng ương bướng nữa... Chà! Tôi biết thuyết phục ông thế nào đây! Hãy nhìn kỹ tôi, nhìn kỹ mắt tôi, chúng thật thà... chúng nói lên sự thật.
Nàng ngước ngay mắt lên, đôi mắt trang trọng, trong sáng từ đó như toát lên chính tâm hồn nàng. Uynxơn lắc đầu:
- Cô có vẻ rất thật thà.
- Vâng, đúng thế - Nàng khẩn khoản - và phải có lòng tin.
- Tôi có lòng tin, cô ạ. - Uynxơn đáp lại.
- Ôi! Tôi sung sướng quá! Và cả bạn ông cũng thế phải không ạ? Tôi cảm thấy thế... tôi tin chắc thế! Hạnh phúc quá! Mọi chuyện sẽ đâu vào đấy!... Chà! Ý định của tôi tốt biết bao!... Này, ông ạ, hai mươi phút nữa có chuyến tàu đi Cale... Vậy các ông hãy đi... Nhanh lên hãy theo tôi... đường đi ở bên này và các ông chỉ còn thời gian...
Nàng tìm cách kéo Uynxơn, Sôm nắm tay hắn lại và y cố ý tìm cách nói cho thật dịu dàng.
- Cô tha lỗi cho tôi là đã không thể chấp nhận lòng mong muốn của cô, chẳng bao giờ tôi bỏ dở một công việc đã dự định cả...
- Tôi xin ông... tôi van ông... chà! Nếu ông có thể hiểu được nhỉ!
Y bỏ qua và đi rất nhanh. Uynxơn nói với cô gái:
- Hãy hy vọng... ông ấy sẽ giải quyết công việc đến nơi đến chốn... chẳng có gì thể hiện là ông ấy sẽ thất bại cả...
Và hắn chạy theo để đuổi kịp Sôm.
HÉC LỐC SÔM - ARXEN LUPANH
Vừa được vài bước, những tên đó nổi bật bằng những chữ đen lớn, đập vào mắt họ. Hai người tiến lại gần; một nhóm những người quảng cáo đi lang thang người nọ tiếp người kia, tay cầm những gậy sắt nặng gõ nhịp trên vỉa hè và lưng đeo những tờ quảng cáo lớn, có thể đọc thấy:
TRẬN ĐẤU HÉCLỐC SÔM - ARXEN LUPANH. NHÀ VÔ ĐỊCH TỪ ANH ĐẾN. NHÀ THÁM TỬ ĐẠI TÀI TẤN CÔNG VÀO BÍ ẨN CỦA PHỐ MUYRILÔ. ĐỌC TỪ CHI TIẾT TRONG BÁO "ECHO DE FRANCE".
Uynxơn lắc đầu:
- Anh Héclốc này, chúng ta tự phụ là làm việc bí mật. Tôi sẽ không ngạc nhiên khi đội cộng hoà vệ binh đợi chúng ta ở phố Muyrilô và có cuộc đón tiếp chính thức với tiệc rượu sâm banh ở đó.
- Khi anh hành động có suy nghĩ, Uynxơn ạ, anh giá trị bằng hai người đấy, - Sôm giận dữ nói.
Y tiến lại một trong số những người quảng cáo với ý định rất rõ rệt là dùng đôi tay mạnh mẽ tóm một tên và đập vụn hắn với biển quảng cáo ra thành từng mảnh. Tuy nhiên đám đông vây quanh các biển quảng cáo. Người ta nói giỡn và cười đùa.
Y kìm cơn giận dữ quá độ, hỏi một người:
- Người ta thuê anh hồi nào?
- Sáng nay.
- Anh mới bắt đầu đi à?...
- Một tiếng rồi.
- Nhưng các biển quảng cáo đều đã sẵn sàng cả à?
- Chà! Mẹ ơi, đúng thế... khi chúng tôi đến toà báo, chúng đã sẵn rồi.
Vậy Arxen Lupanh đã thấy trước hắn. Sôm sẽ nhận cuộc chiến đấu. Hơn thế nữa, lá thư Lupanh viết chứng tỏ hắn muốn cuộc chiến đấu này và một lần nữa bắt tay vào đọ sức với đối thủ. Tại sao? Lý do gì đã thúc đẩy hắn chiến đấu lại?
Héclốc chợt lưỡng lự. Rõ ràng là Lupanh tin chắc thắng lợi nên mới tỏ ra ngỗ ngược đến như thế và liệu có phải là rơi vào bẫy khi lao tới ngay từ tiếng thách thức đầu tiên như vậy không?
- Uynxơn! Ta đi thôi. Phu xe, đến số 18 phố Muyrilô, y lấy lại nghị lực, thốt lên.
Như sắp sửa lao vào cuộc tấn công, mạch máu nổi lên, tay nắm lại, y leo lên một chiếc xe.
Hai bên phố Muyrilô là những khách sạn đặc biệt sang trọng, mặt trước nhà trông ra công viên Môngxô. Một trong những mặt nhà đẹp nhất của những ngôi nhà đó mang số 18 và nam tước Đanhblơvan ở theo kiểu nghệ sĩ và triệu phú. Trước khách sạn là một sân lớn và hai bên nhà là những sân nhỏ. Đằng sau là một mảnh vườn, cây trong vườn giao cành với cây ở công viên.
Hai người Anh, sau khi kéo chuông báo, vượt qua sân và được người hầu đón vào phòng khách nhỏ ở mặt nhà đằng kia. Họ ngồi xuống, đưa mắt quan sát nhanh các báu vật ngồn ngộn trong phòng.
- Nhiều thứ đẹp, kiểu cách và phóng khoáng...- Uynxơn lẩm bẩm... - Có thể suy diễn là những ai rảnh rỗi để kiểm tra những vật này là những người đã đứng tuổi... có thể là năm mươi...
Hắn chưa nói hết, cửa mở và nam tước Đanhblơvan, theo sau Đơ Crôgiông vợ bước vào. Ngược với những điều suy diễn của Uynxơn cả hai vợ chồng đều còn trẻ, dáng điệu lịch thiệp, lời ăn tiếng nói rất nhẹ nhàng, cả hai đều nói lên những lời cảm ơn.
- Đối với một sự phiền nhiễu như thế này, các ngài thật quá tử tế! Chúng tôi thấy vui trong nỗi buồn xảy tới vì điều đó tạo ra sự thích thú...
- Những người Pháp này thật là quyến rũ! - Uynxơn nghĩ, hắn chẳng ngại gì đối với một ý nghĩ như thế.
- Nhưng thời gian là vàng bạc, - nam tước thốt lên... - nhất là đối với ngài, thưa ngài Sôm. Vì vậy xin đi thẳng vào vấn đề! Ngài nghĩ thế nào về vụ này? Ngài hy vọng thành công chứ ạ?
- Để thành công, trước tiên phải nắm vững đã.
- Ngài chưa nắm vững ạ?
- Chưa và xin ngài nên chi tiết vấn đề đồng thời đừng nhầm lẫn điều gì. Chuyện gì thế ạ?
- Đây là một vụ trộm.
- Xảy ra ngày nào?
- Thứ bảy trước, - nam tước đáp, - vào đêm thứ bảy rạng ngày chủ nhật.
- Thế là đã sáu ngày rồi. Bây giờ tôi xin nghe ngài.
- Thưa ngài, phải nói ngay là theo điều kiện phù hợp với cuộc sống của chúng tôi, nhà tôi và tôi ít ra ngoài. Dạy con cái, một số cuộc tiếp đón bạn bè và trang trí nội thất, đấy, sinh hoạt của chúng tôi như thế đấy! Tất cả các buổi chiều hay gần như thế, diễn ra ở đây, trong căn phòng này, khuê phòng của nhà tôi. Chúng tôi đã tập hợp một số đồ mỹ nghệ. Thứ bảy trước, khoảng mười một giờ, tôi tắt đèn, như thường lệ, nhà tôi và tôi về phòng chung.
- Ở đâu ạ?
- Ở bên cạnh, ngay chỗ cửa mà ngài thấy đó. Hôm sau, nghĩa là ngày chủ nhật, tôi dậy sớm. Vì Suydan - nhà tôi - còn ngủ, tôi sang khuê phòng hết sức nhẹ chân để không đánh thức cô ấy. Tôi vô cùng ngạc nhiên thấy chiếc cửa sổ này mở trong khi chiều tối hôm qua chúng tôi đã khép!
- Một người giúp việc...
- Buổi sáng không ai vào đây trước khi chúng tôi gọi. Ngoài ra tôi luôn luôn thận trọng chốt chiếc cửa thứ hai thông sang với phòng đợi này. Vậy thì rõ ràng cửa sổ đã bị mở từ bên ngoài. Thêm nữa, tôi đã có bằng chứng: ô cửa thứ hai của khung cửa kính bên phải - gần then cửa dọc - đã bị cắt.
- Và chiếc cửa sổ đó thế nào?
- Như ngài có thể thấy, cửa sổ đó nhìn ra một sân thượng có lan can bằng đá. Chúng tôi ở tầng một và chắc ngài thấy mảnh vườn ở sau khách sạn và hàng rào ngăn với công viên Môngxô. Vậy chắc chắn là thủ phạm đến công viên, đã vượt qua hàng rào bằng một cái thang và leo lên sân thượng.
- Có chắc chắn như ngài nói không?
- Đã thấy hai bên hàng rào, trên đất nhão của luống đất những lỗ của hai tay thang in lại và dưới chân sân thượng cũng có hai lỗ như vậy. Cuối cùng, bao lơn có hai vết xây xát nhẹ, tất nhiên do tay thang.
- Công viên Môngxô có đóng cửa ban đêm không?
- Đóng ấy ạ, không, nhưng dù sao đi nữa, ở số 14 có một khách sạn đang xây dở dang. Có thể dễ dàng đột nhập từ đấy.
Héclốc Sôm suy nghĩ một lát rồi hỏi:
- Chúng ta nói đến vụ trộm. Vậy là xảy ra ở gian chúng ta đang ngồi đây à?
- Vâng. Giữa tượng Đức Bà đồng trinh thế kỷ thứ 12 và chiếc tủ đứng này có một chiếc đèn Do Thái nhỏ. Nó đã biến mất.
- Chỉ có thế thôi à?
- Chỉ có thế thôi.
- Chà!... và ngài cho biết thế nào là một chiếc đèn Do Thái?
- Đó là những chiếc đèn bằng sừng gồm một thân đèn và một bầu chứa dầu mà người ta dùng trước kia. Từ bầu có hai hay nhiều ống muống để lồng bấc.
- Tóm lại, những đồ vật không có giá trị lắm.
- Đúng là không giá trị lắm. Nhưng nó là một chỗ giấu mà chúng tôi có thói quen cất một đồ trang sức cổ, đẹp, một tượng bằng vàng nạm hồng ngọc và ngọc bích rất đắt tiền.
- Tại sao lại có thói quen đó.
- Thưa ngài, quả thật, tôi cũng không biết nói sao. Có thể đó chỉ là vui mà dùng một chỗ giấu như thế thôi.
- Không ai biết chỗ giấu ấy chứ?
- Không ai cả.
- Tất nhiên trừ tên trộm bức tượng, - Sôm bẻ lại... – Nếu không nó chẳng tốn công lấy chiếc đèn Do Thái làm gì.
- Tất nhiên. Nhưng tại sao nó có thể biết được vì do tình cờ chúng tôi đã để lộ ra cơ cấu bí mật của chiếc đèn đó?
- Cũng sự tình cờ đó có thể lộ ra với ai đó... một người giúp việc... một người thân của gia đình. Nhưng báo nhà chức trách rồi chứ?
- Chắc thế ạ. Ông dự thẩm đã lập biên bản. Những ký giả điều tra của các báo lớn cũng đã ghi. Nhưng, như tôi đã viết tới ngài, hình như bài toán ít khả năng giải được.
Sôm đứng dậy, tiến lại cửa sổ, xem xét cửa kính, sân thượng, bao lơn, dùng kính lúp để nghiên cứu hai vết xây xát ở đá và nhờ ông Đanhblơvan dẫn xuống vườn.
Ở bên ngoài, Sôm chỉ ngồi trên chiếc bành bằng mây và nhìn mái nhà bằng con mắt mơ mộng. Rồi bất thình lình y tiến lại hai chiếc thùng gỗ nhỏ mà người ta đã dùng đậy lên những chỗ tay thang in ở lại chân sân thượng để giữ nguyên dấu vết. Y bỏ những thùng gỗ ra, quỳ trên đất, cong lưng, mũi chỉ cách mặt đất hai mươi centimet, y xem xét, đo kích thước. Cũng tiến hành như vậy dọc theo hàng rào nhưng ngắn hơn.
Thế là hết.
Cả hai người quay trở lại khuê phòng mà bà Đanhblơvan đang đợi.
Sôm yên lặng vài phút nữa rồi mới nói:
- Thưa nam tước, ngay từ đầu câu chuyện của ngài, tôi hơi choáng vì khía cạnh quá đơn giản của sự xâm nhập. Kê một cái thang, cắt một miếng kính, chọn một đồ vật và trốn đi, không, sự việc không diễn ra đơn giản như vậy. Tất cả những điều đó quá rõ, quá minh bạch.
- Đến nỗi sao ạ?...
- Đến mức là vụ trộm chiếc đèn Do Thái là do Arxen Lupanh chỉ đạo tiến hành.
- Arxen Lupanh! - Nam tước thốt lên.
- Nhưng hắn không trực tiếp tiến hành cũng như không có ai vào khách sạn này cả... Có thể là một người giúp việc từ cửa sổ trên gác nhỏ xuống sân thượng, theo ống máng mà ở vườn tôi đã nhận thấy.
- Nhưng dựa trên bằng chứng nào ạ?
- Arxen Lupanh sẽ không ra khỏi phòng tay không.
- Đôi tay không! Còn chiếc đèn?
- Cầm chiếc đèn không cản hắn lấy chiếc hộp đựng thuốc lá đầy những kim cương hay chiếc vòng ngọc cổ. Đối với hắn chỉ cần thêm động tác. Nếu hắn không làm là do hắn không thấy thôi.
- Tuy nhiên còn những dấu vết đã được phát hiện thì sao?
- Hài kịch thôi! Dàn cảnh ra để đánh lạc hướng!
- Những vết xây xát ở lan can thì sao ạ?
- Dối trá! Chúng được tạo ra bởi giấy ráp. Này, đây là mẩu giấy mà tôi đã thu được.
- Những vết do tay thang để lại thì sao?
- Trò đùa! Ngài hãy nghiên cứu hai lỗ vuông ở chân sân thượng và hai lỗ ở gần hàng rào. Hình dáng chúng như nhau nhưng ở đây thì song song còn ở đằng kia thì không. Hãy đo khoảng cách giữa hai lỗ: độ dài thay đổi tùy theo vị trí. Ở chân sân thượng là 23 centimét. Dọc theo hàng rào lại là 28 centimét.
- Và ngài kết luận ra sao?
- Vì hình dạng chúng giống nhau, tôi kết luận là cả bốn lỗ được tạo ra chỉ bằng một mẫu gỗ đẽo vừa đúng, duy nhất mà thôi. Chứng cớ hay nhất sẽ chính là cái mẫu gỗ đó. Nó đây, - Sôm nói, - tôi đã lượm được nó dưới cái két của một cây dâu.
Nam tước bái phục. Chỉ mới bốn mươi phút, người Anh vượt qua ngưỡng cửa của chiếc cửa này và tất cả những gì người ta tin dựa trên chứng cớ của chính những sự việc hiển hiện không còn đứng vững chút nào nữa. Thực tế, một thực tế khác dựa trên một số điều chặt chẽ sự biện luận của một Héclốc Sôm, toát lên.
- Thưa ngài, - Bà nam tước nói, - việc này kết tội đối với người giúp việc trong nhà chúng tôi thật là nặng. Những kẻ ăn người làm của chúng tôi đều là những người giúp việc lâu năm của gia đình và không ai trong số họ có thề phản chúng tôi cả.
- Nếu một người trong số họ không phản lại ông bà, thì giải thích thế nào đây về việc lá thư này lại có thể đến chỗ tôi cùng ngày và cùng chính với người đưa lá thư ông bà đã viết cho tôi.
Y đưa cho nữ bá tước lá thư của Arxon Lupanh đã viết.
Bà Đanhblơvan sửng sốt.
- Arxen Lupanh... làm sao hắn biết được?
- Ngài không cho ai hay về lá thư của ngài chứ?
- Không ai cả! - Nam tước đáp, - đó là một ý nảy ra trong chúng tôi ở bàn ăn chiều hôm trước ạ.
- Trước cả những người giúp việc à?
- Chỉ có hai đứa con chúng tôi thôi. Và thêm, không... Sôphi và Hăngriet không có mặt ở bàn ăn có phải không Suydan nhỉ?
Bà Đanhblơvan suy nghĩ và xác nhận:
- Thực thế, chúng đi theo cô giáo...
- Cô nào? - Sôm hỏi.
- Cô gia sư tên là Alixô Đơmun.
- Thế cô ấy có dùng bữa với ông bà không?
- Không, người ta dọn riêng ở phòng cô ấy.
Uynxơn có một ý kiến:
- Lá thư gửi cho bạn Héclốc Sôm của tôi đã bỏ ở bưu điện?
- Tất nhiên rồi.
- Ai mang thư đi?
- Đôminich, người hầu phòng đã hai mươi năm nay của tôi, - Nam tước đáp. - Mọi sự điều tra theo hướng đó sẽ mất thì giờ.
- Không bao giờ mất thời gian khi điều tra cả. - Uynxơn trịnh trọng nói.
Cuộc điều tra thứ nhất kết thúc. Sôm xin phép rút lui.
Một giờ sau, trong bữa ăn trưa, y thấy Sôphi, Hăngriet, hai đứa con của ông bà Đanhblơvan, hai con gái xinh đẹp tám và sáu tuổi. Người ta nói ít. Sôm đáp lại lòng mến khách của nam tước và vợ ông bằng một thái độ khó thương khiến họ quyết định lặng thinh. Người ta dọn cà phê, Sôm nuốt nhanh tách cà phê và đứng dậy.
Đúng lúc đó một người hầu bước vào mang một bức điện cho Sôm. Y mở và đọc:
“Gửi lời thán phục nhiệt liệt. Những kết quả ông đạt được trong ít thời gian như thế thật phi thường. Tôi thật hổ thẹn".
"Arxen Lupanh"
Y tỏ ra khó chịu và đưa cho nam tước xem bức điện.
- Chắc ngài bắt đầu tin là vách nhà ngài có mắt và tai rồi chứ.
- Tôi chẳng hiểu gì cả, ông Đanhblơvan choáng váng lẩm bẩm.
- Tôi cũng vậy. Nhưng điều tôi hiểu đó là không một cử chỉ nào tiến hành ở đây mà hắn không nhận thấy. Không lời nào nói ra ở đây mà hắn không nghe thấy cả.
Đêm đó Uynxơn đi ngủ với tâm hồn thư thái như một người đã hoàn thành nhiệm vụ mà chẳng có việc gì khác là ngủ. Vì vậy hắn ngủ rất nhanh và những giấc mơ đẹp đến. Trong mơ hắn thấy một mình đuổi bắt Lupanh, chính tay bắt được chàng trộm và cảm giác cuộc đuổi bắt đó rõ rệt đến mức hắn choàng tỉnh.
Có ai đấy sờ soạng giường hắn. Hắn vớ lấy khẩu súng lục.
- Chỉ một động tác nữa thôi, Lupanh, tao sẽ bắn.
- Đồ quỷ! Anh tưởng chuyện gì thế ông bạn già!
- Sao, anh đấy à Sôm! Anh cần tôi à.
- Tôi cần đôi mắt của anh. Dậy đi...
Y dẫn Uynxơn tới cửa sổ
- Hãy nhìn... phía bên kia hàng rào...
- Ở trong công viên ấy à?
- Phải. Anh không thấy gì cả à?
- Tôi không thấy gì cả.
- Có, anh có thấy một vài thứ.
- Chà! Quả nhiên, một bóng người... mà hai.
- Có đúng không nào? Giáp hàng rào... Kìa, chúng cử động. Đừng để mất thời gian.
Họ sờ soạng, vịn vào thành cầu thang, đi xuống và đến một phòng nhìn ra lối vườn. Qua kính cửa, họ nhìn thấy hai bóng đen ở cùng một chỗ.
- Thật kỳ lạ, - Sôm nói, - hình như tôi nghe thấy tiếng động ở trong nhà.
- Ở trong nhà ấy à? Không thể được! Mọi người đều ngủ.
- Tuy nhiên, hãy nghe...
Vừa lúc đó, một tiếng còi nhẹ rung lên ở phía hàng rào và họ nhìn thấy một luồng ánh sáng mờ ảo hình như từ phía khách sạn tới.
- Chắc vợ chồng Đanhblơvan bật đèn, - Sôm thì thầm. - Phòng của họ ở phía trên chúng ta.
- Thế thì không ngờ gì nữa chúng ta đã nghe thấy họ nói, - Uynxơn đáp. - Có thể họ cũng đang xem xét phía hàng rào.
Một tiếng còi thứ hai, kín đáo hơn.
- Tôi không hiểu, tôi không thể nào hiểu được, - Sôm khó chịu nói.
- Tôi cũng thế. - Uynxơn thú nhận.
Sôm vặn khoá cửa, rút chốt và đẩy nhẹ cánh cửa. Một tiếng còi thứ ba. Lần này mạnh hơn một chút và lại ngân nga nữa. Phía trên đầu họ tiếng động to thêm, dội tới.
- Có lẽ là ở trên sân thượng khuê phòng thì đúng hơn, - Sôm thì thào.
Y chui đầu qua khe cửa nhưng lùi lại ngay vừa rủa thầm. Riêng Uynxơn trố mắt nhìn. Ngay gần một chiếc thang dựng ở tường, tì vào bao lơn của sân thượng.
- Này! - Sôm nói, - đúng là có người trong khuê phòng! Có tiếng động đấy. Nhấc chiếc thang đi, nhanh lên.
Nhưng ngay lúc đó, một bóng người tụt từ trên xuống, thang được nhắc đi và người vác thang chạy rất nhanh ra phía hàng rào, đến vị trí có đồng bọn đợi. Sôm và Uynxơn nhẩy ngay tới. Họ lao theo người đàn ông trong khi người này để thang dựa vào hàng rào. Phía bên kia hai phát súng loé lên.
- Có bị thương không? - Sôm kêu lên.
- Không. - Uynxơn đáp.
Hắn ôm lấy thân người đàn ông và tìm cách làm cho tên này bất động. Nhưng người đàn ông quay lại, một tay siết chặt Uynxơn và tay kia phóng con dao vào giữa ngực. Uynxơn toát lên tiếng thở dài, lảo đảo và ngã xuống.
- Sát nhân! - Sôm thét lên, - nếu mày giết ông ấy, tao giết mày.
Y đặt Uynxơn trên bãi cỏ và nhảy bổ tới thang. Quá muộn rồi... người đàn ông đã trèo thang, được đồng bọn đỡ, trốn vào bụi.
- Uynxơn! Uynxơn, vết đâm không nặng đâu, hả? Chỉ sầy da thôi.
Các cửa khách sạn bất thình lình mở ra. Người đầu tiên, ông Đaiihbiơvan bất chợt đến rồi những người giúp việc, tay cầm nến.
- Sao! Chuyện gì thế. - nam tước kêu lên, ngài Uynxơn bị thương à?
- Không sao, chỉ sầy da thôi. - Sôm nhắc lại vừa tìm cách đánh trống lảng.
Máu chảy lênh láng và khuôn mặt Uynxơn nhợt nhạt. Hai mươi phút sau bác sĩ khám thấy mũi dao dừng cách tim bốn milimét.
- Cách tim bốn milimét! Tay Uynxơn này luôn luôn gặp may. - Sôm kết luận, giọng tỵ nạnh.
- Gặp may... gặp may... bác sĩ lẩm bẩm.
- Với thể trạng cường tráng, ông ấy sẽ khỏi...
- Sau sáu tuần điều trị và hai tháng hồi sức.
- Không hơn à?
- Không, nếu không biến chứng.
- Quỷ thần ơi! Ông lại muốn ông ấy bị biến chứng à?
Sôm hoàn toàn yên tâm đi theo nam tước lên khuê phòng. Lần này vị khách bí mật không phân biệt như trước. Hắn không hổ thẹn lấy chiếc hộp đựng thuốc lá đầy kim cương, chiếc vòng bạch ngọc và nói chung tất cả những gì cho được vào túi một tên trộm lương thiện.
Cửa sổ còn mở, một ô kính mới bị cắt và cuộc điều tra sơ bộ vào sáng Sôm xác định là chiếc thang thuộc khách sạn đang xây dựng, chỉ rõ lối tên trộm đã theo.
- Nói vắn tắt, đây là sự nhắc lại y nguyên việc lấy trộm chiếc đèn Do Thái, - ngài Đanhblơvan mỉa mai.
- Phải, nếu chấp nhận thuyết thứ nhất được luật pháp chấp thuận.
- Như vậy là ngài vẫn chưa chấp thuận nó à? Vụ trộm thứ hai này không lay chuyển ý kiến của ngài đối với vụ thứ nhất sao?
- Nó xác nhận ý kiến của tôi, thưa ngài.
- Tin được à! Ngài có bằng chứng rành rành là việc đột nhập đêm nay do một tên ở bên ngoài tiến hành và ngài khăng khăng bảo vệ là chiếc đèn Do Thái đó do một người trong nhà chúng tôi khử à?
- Do một tên nào đấy ở trong khách sạn kia.
- Thế ngài giải thích như thế nào?
- Thưa ngài, tôi không giải thích gì cả, tôi xác định hai sự việc chỉ có những quan hệ hình thức với nhau. Tôi xét đoán chúng riêng rẽ và tôi phát hiện mối liên kết chúng với nhau.
Sự thuyết phục của y tỏ ra rất sâu sắc, những phương thức hành động của y dựa trên những cơ sở mạnh mẽ khiến nam tước bị thuyết phục.
- Được. Chúng ta sẽ báo thanh tra.
- Không cần! - Ngài người Anh hăng hái gạt đi, - không cần! Tôi thỏa thuận chỉ báo những người đó khi tôi cần họ thôi.
- Tuy nhiên, những phát đạn thì sao?
- Không hề gì.
- Bạn của ngài thì sao?
- Bạn tôi chỉ bị thương xoàng... Hãy bảo bác sĩ im đi. Riêng tôi, tôi sẽ trả lời tất cả đối với pháp luật.
Hai ngày trôi qua, không có việc gì rắc rối, nhưng Sôm đã theo đuổi công việc một cách tỉ mỉ với lòng tự ái nổi xung lên vì nhớ lại cuộc đột nhập táo bạo, tiến hành ngay dưới mắt y, chẳng kể gì đến sự có mặt của y và khiến y không thể nào ngăn cản được. Y lục soát không mệt mỏi khách sạn, vườn tược, trao đổi với những người giúp việc và dừng lại rất lâu ở bếp và tàu ngựa. Dù không thu lượm được vết tích nào làm sáng tỏ vấn đề, y vẫn kiên trì.
- Ta sẽ phát hiện ra, y nghĩ, và chính ở đây ta sẽ phát hiện ra. Không phải là tiến hành một cách tuỳ tiện, theo những ngóc ngách xa lạ và nhằm một mục tiêu không rõ rệt như trong vụ người Đàn bà tóc hoe. Lần này, ta ở ngay trên chiến trường của cuộc chiến dấu. Kẻ thù không chỉ là tên vô hình vô ảnh Lupanh. Đó là đồng bọn bằng xương bằng thịt, sống và hoành hành trong giới hạn của khách sạn này. Chỉ cần chi tiết nhỏ thôi, ta sẽ quyết định.
Cái chi tiết mà y rút ra từ những hệ quả ấy, với một sự tài giỏi, phi thường mà người ta đã thấy trong vụ chiếc đèn Do Thái như một trong những vụ bùng ra huy hoàng nhất thiên tài trinh thám của y, chi tiết đó, sự may rủi sẽ đưa đến cho.
Buổi chiều ngày thứ ba, y gặp Hăngriet, cô gái út của gia đình Đanhblơvan, khi y bước vào một gian ở trên khuê phòng dùng làm phòng học cho trẻ. Cô bé tìm chiếc kéo.
- Bác biết không, - cô bé nói với Sôm, - cháu cũng làm những giấy như tờ bác nhận được chiều hôm trước ấy.
- Chiều hôm trước nào?
- Vâng, sau bữa ăn. Bác đã nhận được một tờ giấy với những băng ở trên ấy, một tờ điện... ôi, cháu cũng sẽ làm thế.
Cô bé đi xa. Những lời nói đó chẳng có ý nghĩa gì, chăng qua nó chỉ là suy nghĩ vô nghĩa của một đứa bé và chính Sôm đã nghe một cách lơ đãng và tiếp tục việc xem xét. Nhưng bất thình lình câu cuối cùng đập vào tai y, y liền chạy theo cô bé. Sôm đuổi kịp cô ở phía trên cầu thang và nói:
- Này, cháu cũng dán những băng trên giấy à?
Hăngriét rất hãnh diện đáp:
- Vâng, đúng rồi, cháu cắt các chữ và dán.
- Thế ai đã chỉ cho cháu trò chơi đó?
- Cô gia sư của cháu. Cháu cũng đã thấy cô ấy làm như thế. Cô ấy lấy những chữ trên báo và dán.
- Và cô ấy dùng chúng làm gì?
- Những bức điện, những lá thư mà cô ấy gửi đi.
Héc-lốc Sôm hết sức ngạc nhiên về lời tâm sự đó, y bước vào phòng học và cố gắng khai thác ra từ đó những điều suy diễn.
Có cả một bó báo trên lò sưởi. Y giở chúng ra và thấy ngay những nhóm chữ, hay những dòng thiếu đều đặn và mới lấy ra. Nhưng chỉ cần đọc những chữ trước hay những chữ sau là có thể thấy những chữ thiếu, tất nhiên do Hăng-ri-ét đã dùng kéo cắt hú họa. Có thể trong tập báo có một tờ do cô gia sư cắt, nhưng làm sao có thể bảo đảm thế được.
Héc-lốc lật một cách không chủ đích những trang sách học xếp trên bàn rồi những quyển khác để trên giá. Và bất chợt y bật lên một tiếng reo vui. Y tìm thấy trong một góc giá sách đó một quyển tranh cho trẻ, một quyển học vần có tranh dưới những chồng vở cũ và ở một trang của quyển tranh, y thấy có một chỗ trống.
Y xem xét lại. Đó là quyển danh mục những ngày trong tuần. Thứ hai, thứ ba, thứ tư v.v... Chỉ thứ bảy thiếu. Vậy mà, việc lấy trộm chiếc đèn Do Thái lại xảy ra đúng vào một đêm thứ bảy.
Héclốc cảm thấy tim hơi se lại, cái cảm xúc luôn luôn báo cho y một cách rõ ràng nhất là đã nắm được đầu mối của âm mưu rồi. Cái cảm xúc chắc chắn đó, việc nắm được sự thật đó không đánh lừa y bao giờ cả.
Y hăm hở, tự tin, vội giở tiếp quyển album. Thêm một vài tờ nữa, một sự bất ngờ khác đã đợi y. Đó là một trang có những chữ viết hoa tiếp đến là một hàng số. Chính trong số những chữ đó và ba trong số những số đó đã được lấy đi một cách thận trọng. Theo trình tự của chúng, Sôm ghi lại vào sổ tay của mình và thu được kết quả sau:
ITELNRGIVAAN - 237
- Kỳ quá, - Y lẩm bẩm, thoáng qua những chữ trên chẳng có ý nghĩa gì lắm.
Xáo trộn những chữ trên và dùng tất cả liệu có thể tạo thành một, hai hay ba chữ hoàn chỉnh không?
Sôm hoài công thử. Một lời giải độc nhất buộc hắn phải chấp nhận và thường hiện ra dưới bút chì đồng thời đối với hắn về lâu về dài tỏ ra đúng vì nó vừa phù hợp với tính lôgic của sự việc lại vừa khớp với hoàn cảnh chung nữa.
Có khả năng, có thể chắc chắn tìm thấy những chữ không đầy đủ và những chữ đó đã được hoàn chỉnh bằng những chữ lấy ở những trang khác do trang album chỉ có mỗi trang một chữ của toàn bộ chữ cái. Trong những điều kiện như thế là trừ trường hợp bị sai, điều bí ẩn chính là:
TRALI - IENGVAN - 237
Chữ thứ nhất đã rõ ràng: “trả lời” chữ Ơ thiếu vì chữ này đã dùng vào không có thêm. Còn chữ thứ hai giơ ra, không nghi ngờ gì cả, nó tạo thành cùng với số 237 địa chỉ mà người gửi báo cho người nhận thư. Người ta hãy ấn định ngày là vào thứ bảy và yêu cầu trả lời theo địa chỉ.
Hay IENGVAN - 237 là tên hòm thư lưu hay những chữ là thành phần một chữ không đầy đủ. Sôm giở tiếp album: những trang sau không có chỗ nào bị cắt cả. Vậy trước khi có phát hiện gì mới hãy chấp nhận điều giải thích trên.
- Trò chơi ấy vui đấy chứ, phải không bác? Hăngriet quay lại hỏi. Y đáp.
- Ồ, vui lắm! Tuy nhiên, cháu không có những tờ giấy khác à? Hay là những chữ đã cắt rời mà bác có thể dán ấy?
- Những tờ giấy khác à?.. Không... cô không bằng lòng.
- Cô không bằng lòng à?
- Vâng, cô ấy đã mắng cháu.
- Tại sao?
- Vì cháu đã nói với bác một số điều... và cô ấy dặn là không nên bép xép.
- Cháu nói hoàn toàn có lý.
Hăngriet tỏ ra rất sung sướng vì lời khen đến mức nó lấy ra từ trong chiếc túi vải nhỏ gài kim băng vào áo may mụn vải, ba cái cúc áo, hai miếng đường và cuối cùng, đưa cho Sôm một miếng giấy vuông.
- Đây, cháu cho bác đấy.
Đó là số của chiếc xe ngựa.
- Số này ở đâu ra, cháu?
- Ở trong ví của cô ấy rơi ra ạ.
- Lúc nào?
- Chủ nhật, trong buổi lễ ở nhà thờ, lúc cô ấy lấy tiền ra.
- Tốt lắm! Và giờ bác bảo cháu cách để không bị mắng. Nhớ đừng nói với cô là cháu đã gặp bác.
Sôm đi tìm ngài Đanhblơvan và tất nhiên là sẽ hỏi về cô giáo. Nam tước nhún vai:
- Cô Alixơ Đơmun! Ngài nghĩ sao về cô ấy?... không thể được.
- Cô ấy giúp việc dạy dỗ trẻ đã bao lâu rồi?
- Chỉ mới một năm thôi; nhưng chưa có người nào trầm tĩnh và tôi tin hơn được.
- Tại sao tôi lại chưa thấy cô ấy nhỉ.
- Cô ấy nghỉ hai ngày.
- Và bây giờ thì sao ạ?
- Ngay khi trở lại cô ấy muốn được ở cạnh giường để săn sóc bạn của ngài. Cô ấy có đầy đủ những đức tính của người trông nom người bệnh... dịu dàng... ân cần... Ông Uynxơn tỏ vẻ rất hài lòng.
- Chà! - Sôm thốt lên và đã quên hoàn toàn việc hỏi thăm ông bạn già.
Y suy nghĩ và hỏi:
- Thế sáng chủ nhật cô ấy đi à?
- Trước ngày xảy ra vụ trộm phải không ạ?
- Vâng.
Nam tước gọi phu nhân ra và hỏi. Bà ta đáp:
- Cô ấy đi ra như thường lệ để đi xem lễ với bọn trẻ vào lúc 11 giờ.
- Nhưng, trước đó có?
- Trước đó à? Không... Hay sớm hơn... nhưng tôi rất bàng hoàng vì vụ trộm này!... tuy nhiên tôi nhớ là buổi tối cô ây đã xin phép tôi đi sáng chủ nhật... để đến thăm người chị em họ ghé qua Pari, tôi tin là thế. Nhưng tôi không cho là ngài nghi cô ấy có phải không ạ?
- Chắc chắn không... Tuy nhiên tôi muốn được gặp cô ấy...
Y leo lên tận phòng của Uynxơn. Một phụ nữ vận một chiếc áo dài bằng vải xám giống như các y tá đang cúi xuống bệnh nhân và cho người này uống. Khi nàng quay lại, Sôm nhận ra đó là cô gái đã gặp y ở trước nhà ga phương Bắc.
Giữa họ không có lời giải thích nào cả. Alixơ Đơmun với đôi mắt đẹp và nghiêm trang, mỉm cười dịu dàng, không chút lúng túng, ông người Anh muốn nói, thốt ra vài tiếng rồi im bặt. Riêng cô ấy tiếp tục công việc, lắc những lọ con, tháo và cuốn băng lại, thao diễn bình thản dưới con mắt ngạc nhiên của Sôm và lại cười duyên với y. Sôm quay gót, đi xuống báo cho tài xế của ngài Đanhblơvan ở sân, ngồi vào xe và đi đến chỗ để xe ở Lơvalu mà địa chỉ được ghi vào giấy xe do Hăngriet đưa cho. Người đánh xe điều khiển chiếc số 8279 tên là Đuyprê, buổi sáng chủ nhật không có ở đấy. Y bảo xe hơi quay về và đợi đến giờ nghỉ.
Thực vậy người đánh xe Đuyprê kể lại là có "chở" một bà ở khoảng công viên Môngxô, một phụ nữ trẻ mặc đồ đen choàng khăn che mặt và tỏ ra nôn nóng.
- Chị ta có xách một gói không?
- Có ạ, một gói khá dài.
- Và anh chở chị ta đến đâu?
- Đến đường Tecnơ ở góc quảng trường Phecđinăng. Chị ấy dừng lại độ chục phút và rồi lại quay về công viên Môngxô.
- Anh có nhận biết ngôi nhà ở đường Tecnơ không?
- Tất nhiên! Có phải chở ngài đến không?
- Lát nữa. Hãy chở tôi đến số 36 bến cảng Oócphevrơ đã.
Ở đồn cảnh sát y may mắn gặp ngay ngài cảnh sát trưởng Ganimar.
- Ngài Ganimar, ngài không bận chứ ạ?
- Nếu về Lupanh thì không.
- Về Lupanh đấy.
- Thế thì tôi không làm gì đâu.
- Sao! Ngài từ chối...
- Tôi từ chối bất lực! Tôi mệt mỏi vì cuộc chiến đấu không cân sức trong đó chắc chắn chúng ta kém hơn. Thế là hèn, thế là vô lý. Ngài muốn nói gì thì nói... tôi mặc! Lupanh mạnh hơn chúng ta. Do đó, chỉ có bái phục.
- Tôi không bái phục.
- Nó sẽ làm ngài cũng như những người khác bái phục.
- Vậy đó là môt trò ngài không thích!
- Chà! Điều đó đúng, Ganimar thực thà đáp. - Và vì ngài không nhớ đòn, chúng ta đi.
Hai người lên xe ngựa. Theo lệnh người đánh xe dừng lại một chút trước ngôi nhà và phía bên kia đường Tecnơ, ngay tại một quán cà phê nhỏ có sân mà hai người vào ngồi giữa những cây nguyệt quế và cây than. Chiều bắt đầu đổ.
- Viết gì, - Sôm nói, - này bồi. Y viết và gọi người bồi. Hãy mang lá thư này cho người gác ngôi nhà trước mặt. Tất nhiên đó là người đội mũ kết, hút thuốc ở cổng chính ấy.
Người gác chạy đến và, sau khi Ganimar xưng danh là cảnh sát trưởng, Sôm hỏi sáng chủ nhật một phụ nữ trẻ vận đồ đen, có đến nhà không.
- Vận đồ đen phải không ạ? Có đến vào lúc chín giờ, chị ta lên tầng hai.
- Ông có thấy đến thường xuyên không?
- Không ạ, nhưng gần đây đến nhiều hơn... cuối tháng vừa rồi thì ngày nào cũng đến.
- Và từ chủ nhật thì sao?
- Chỉ một lần thôi... không kể hôm nay ạ.
- Sao? Chị ta đã đến rồi à?
- Cô ta đang ở đằng ấy. Độ mười phút rồi. Như thường lệ xe của cô ấy đợi ở quảng trường Xanh Phecđinăng. Tôi đã gặp cô ta ở cửa.
- Thế ai là chủ lầu hai?
- Có hai người, cô thợ mũ Lănggie và một ông có tên là Bretxông đã thuê hai phòng có đồ đạc từ một tháng nay.
- Sao ông lại nói là "có tên là”?
- Theo tôi nghĩ đó là một cái tên mượn thôi. Nhà tôi làm nội trợ cho ông ta. Ô, ông ấy không có đến hai chiếc sơ mi cùng ghi một tên.
- Ông ta sống ra sao?
- Ôi! Hầu như ở ngoài phố. Ba ngày rồi ông ta không về nhà.
- Đêm thứ bảy sáng ngày chủ nhật có về không?
- Trong đêm thứ bảy sang ngày chủ nhật à? Xem nào để tôi nghĩ. Có, tối thứ bảy ông ta về và ở yên tại nhà.
- Và đó là loại người như thế nào?
- Quả thật tôi không biết nói thế nào. Ông ta thay đổi luôn! Lúc to, lúc nhỏ, khi béo khi mảnh... lúc tóc hung khi tóc vàng. Tôi chẳng bao giờ nhận ra ông ta cả.
Ganimar và Sôm nhìn nhau.
- Chính hắn, cảnh sát trưởng nói nhỏ, đúng hắn không sai.
Ông cảnh sát có tuổi chắc chắn có lúc bối rối, thể hiện qua cái ngáp và hai tay nắm chặt, Sôm cũng vậy, dù tự chủ hơn vẫn thấy se lòng lại.
- Chú ý, cô gái kia kìa, - ông gác cửa nói.
Quả nhiên cô giáo hiện ra ở bực cửa và đi ngang quảng trường.
- Và kia là ông Bretxông
- Ông Bretxông à? Người nào?
- Người cắp một gói ở tay ấy.
- Nhưng hắn không quan tâm gì đến cô gái cả. Cô ấy ra xe một mình.
- Chà, về điều đó, chẳng bao gi tôi thấy họ đi cùng cả.
Hai nhà trinh thám vội đứng 1ên. Trong ánh đèn đường, họ nhận ra bóng dáng Lupanh khuất dần theo hướng đối diện với quảng trường.
- Ngài muốn theo dõi ai? - Ganimar hỏi.
- Hắn thôi! Đó là con mồi lớn.
- Thế thì tôi sẽ theo dõi cô gái, - Ganimar đề xuất.
- Không, không nên, - thám tử người Anh hăng hái nói và không muốn nêu lại sự việc về cô gái với Ganimar, - tôi biết cô ta ở đâu rồi. Đừng rời khỏi tôi đấy.
Họ tiến hành đuổi theo Lupanh, cách một đoạn và vừa sử dụng tạm thời chỗ ẩn là những người đi đường, những quán tạm. Tuy nhiên cuộc rượt đuổi dễ dàng vì hắn không quay lại, rảo bước, chân phải hơi tập tễnh, rất nhẹ đến mức phải có một con mắt điêu luyện của một người quan sát mới nhận ra được. Ganimar nói:
- Hắn giả vờ tập tễnh. Chà! Giá gì huy động được hai hay ba nhân viên cảnh sát và ập tới nó. Sợ nó thoát mất.
Nhưng ở trước cửa Tecnơ không có nhân viên cảnh sát nào cả và khi vượt qua tường thành họ tin là không nhờ được sự hỗ trợ của ai cả nữa.
- Chúng ta tách ra, - Sôm nói, - chỗ này vắng vẻ quá.
Đó là đại lộ Vichto Huygô. Mỗi người đi theo một bên hè phố và tiến theo hàng cây.
Họ cứ đi như vậy trong khoảng 20 phút đến khi Lupanh rẽ trái và đi dọc theo sông Xen. Ở đấy họ thấy Lupanh đi xuống bờ sông. Chàng ta đứng đấy một lát và họ không phân biệt được chàng làm gì. Rồi chàng lại leo lên và tiếp tục đi. Họ đứng dán người vào hàng cột một hàng rào. Lupanh đi qua trước mặt họ tay không còn ôm chiếc gói nữa. Khi chàng đi xa, một bóng người tách ra từ gốc tường nhà và lẩn giữa hàng cây.
Sôm trầm giọng nói:
- Tên kia như cũng có vẻ theo dõi Lupanh.
- Đúng, hình như tôi đã thấy hắn ban nãy.
Cuộc săn đuổi lại tiếp tục nhưng rắc rối hơn vì có mặt người mới. Lupanh vẫn theo đường cũ, lại qua cửa Tecnơ và vào ngôi nhà ở quảng trường Xanh-Phecđinăng.
Người thường trực vừa đóng cửa thì Gammar xuất hiện.
- Bác có thấy hắn phải không?
- Vâng, tôi vừa tắt đèn ở cầu thang, hắn đã đẩy chốt cửa phòng.
- Không có ai ở cùng với hắn à?
- Không, không có một người giúp việc nào cả... hắn không bao giờ ăn ở đây.
- Có cầu thang phụ nào không?
- Không ạ.
Ganimar nói với Sôm:
- Đơn giản nhất là tôi chắn ngay ở cửa phòng Lupanh còn ngài đi gọi nhân viên cảnh sát ở phố Đơniua. Tôi sẽ nói chuyện với anh ta.
Sôm phản đối:
- Thế nếu lúc đó hắn thoát mất thì làm thế nào?
- Tôi ở lại cơ mà!...
- Một chọi một, đối với hắn, cuộc chiến đấu không cân sức đâu.
- Tuy nhiên tôi không ập vào chỗ ở của hắn được, tôi không được phép, nhất là ban đêm.
Sôm nhún vai:
- Khi ngài túm được Lupanh, người ta không kiện cáo gì về điều kiện bắt giữ người nữa. Ngoài ra, sao nhỉ? Chỉ cần bấm chuông hỏi, chúng ta sẽ thấy những gì xảy ra.
Hai người lên thang gác. Một cửa ra vào với hai cánh cửa hiện ra ở bên trái đầu cầu thang, Ganimar bấm chuông. Không động tĩnh. Ông ta lại bấm lần nữa. Không có ai cả.
- Vào đi, - Sôm nói nhỏ.
- Ừ, vào nào.
Tuy nhiên cả hai cùng đứng yên, vẻ lưỡng lự. Họ ngại hành động, y hệt những người ngập ngừng khi tiến hành một việc quyết định. Và bất chợt họ thấy Arxen Lupanh không thể ở trong ấy, quá gần họ, chỉ sau bức vách mỏng manh mà một quả đấm có thể đánh đổ. Cả hai người đều biết cái nhân vật ma quái này quá rõ, nó không đời nào lại để bị tóm ngớ ngẩn như vậy. Không, không, nghìn lần không, nó không ở trong ấy. Chắc nó đã tẩu thoát sang các nhà kế bên, theo mái nhà, theo một lối đã chuẩn bị thích hợp và thêm một lần nữa chỉ sắp chộp được cái bóng của Lupanh thôi.
Họ rùng mình. Một tiếng động rất nhỏ vẳng từ phía bên kia cửa lại như chỉ làm thoáng vẩn sự yên lặng. Hai người có cảm giác, chắc chắn là dù sao đi nữa hắn vẫn ở đấy, chỉ khuất bởi bức vách gỗ và đang lắng nghe, đang theo dõi họ.
Làm gì đây? Hoàn cảnh thật bi thảm. Một sự xúc động như thế làm họ rối loạn - dù đều có lòng can đảm của những thám tử thành thạo, khiến họ như nghe rõ tim đập thình thịch, Ganimar đưa mắt thăm dò Sôm. Rồi ông ta lấy tay lay mạnh cánh cửa. Liền đó, có tiếng bước chân, một tiếng động không có ý giấu giếm gì cả. Ganimar lay cửa. Sôm nhô vai lên, lao mạnh, đẩy toang cửa và cả hai lao vào. Họ dừng ngay lại. Một tiếng súng vang lên ở phòng bên. Một tiếng nữa và có tiếng một xác người ngã vật xuống.
Khi bước vào, họ thấy một người đàn ông nằm sóng soài mặt úp vào đá lát lò sưởi. Xác người co quắp, khẩu súng lục tuột khỏi tay. Ganimar cúi xuống và xoay đầu người chết. Máu phủ kín mặt rỉ ra ở hai vết thương rộng, một ở má và vết kia ở thái dương.
- Bị hôn mê rồi, - trưởng thanh tra nói nhỏ.
- Ấy! - Sôm nói, - lại không phải hắn.
- Sao ngài lại biết? Ngài đã xem xét gì đâu.
Tay người Anh cười nhạo:
- Thế ngài nghĩ Arxen Lupanh là người tự bắn mình à?
- Tuy nhiên rõ ràng chúng ta đã tin là nhận ra hắn ở ngoài...
- Chúng ta đã tin vì chúng ta muốn tin. Người đó đã ám ảnh chúng ta.
- Vậy đó là một đồng bọn của hắn.
- Những đồng bọn của Arxen Lupanh không tự bắn mình.
- Thế thì đó là ai.
Hai người khám xét tử thi. Héelốc Sôm thấy một chiếc ví rỗng trong một túi quần và trong túi kia Ganimar thấy mấy đồng tiền. Áo quần trong, ngoài đều không có vết tích gì cả.
Trong một chiếc rương to và hai chiếc va li chỉ có quần áo. Trên lò sưởi có một gói báo. Ganimar giở chúng ra. Tất cả đều nói về vụ trộm chiếc đèn Do Thái.
Một tiếng sau, khi Ganimar và Sôm quay về, họ chẳng biết gì thêm về nhân vật kỳ lạ mà sự can thiệp của họ đã dồn người này tới chỗ tự tử.
Người đó là ai? Tại sao lại tự bắn mình? Có mối liên quan gì giữa người đó và chiếc đèn Do Thái? Ai đã theo dõi người đó trong cuộc đi dạo? Ngần ấy câu hỏi, câu nào cũng phức tạp cả... Ngần ấy điều bí mật. Héclốc Sôm đi ngủ, trong người rất bực bội. Thức dậy, y nhận được một lá thiếp lời lẽ như sau:
"Arxen Lupanh hân hạnh báo tin ngài hay về cái chết bi thảm của cá nhân ông Bretxông và mời ngài dự đám tang, tang lễ và mai táng sẽ tiến hành ngày thứ năm 25 tháng 6 bằng kinh phí nhà nước”.
- Thấy không, ông bạn già của tôi, - Sôm vừa nói với Uynxơn vừa chìa tờ thiếp của Arxen Lupanh ra, - điều làm tôi lộn tiết trong cuộc phiêu lưu này, đó chính là tôi luôn luôn thấy tên hào hiệp quỉ quái này để mắt vào tôi. Không một ý nghĩ bí mật nhất nào của tôi mà thoát khỏi hắn cả. Tôi hành động như một diễn viên mà tất cả các đường đi nước bước đều do một sự đạo diễn nghiêm khắc điều chỉnh theo một ý chí thượng đẳng... Uynxơn, anh có hiểu không?
Uynxơn chắc chắn sẽ hiểu nếu hắn không ngủ say như một người mà nhiệt độ cơ thể dao động giữa 40 và 11 độ. Nhưng hắn nghe hay không điều đó chẳng quan trọng gì đối với Sôm và y tiếp:
- Tôi phải dồn tất cả nghị lực và huy động tất cả mọi phương sách để không nản chí. Những trò chọc ghẹo nhỏ đó, cũng may đối với tôi tương tự như những vết kim kích thích mà thôi. Cái đau của kim đâm dịu xuống, vết thương tự ái kín miệng tôi đều tự nhủ được: "Cứ đùa đi chàng trai ạ. Một lúc nào đó chính mi sẽ tự hại mi". Vì, cuối cùng Uynxơn ạ, phải chăng Lupanh. qua bức thư đầu tiên và do suy nghĩ của Hăngriet, đã trao cho tôi điều bí mật thư từ của nó với Alixơ Đơmun? Anh quên chi tiết đó, bạn già ạ.
Y đi đi lại lại nặng chân trong phòng để liều đánh thức người bạn già.
"Cuối cùng! Điều đó không tiến triển quá tồi và nếu các con đường tôi theo không quá tối tăm, tôi bắt đầu khám phá ra. Trước tiên tôi để ý tới ông Bretxông. Ganimar và tôi đã hẹn nhau ở bờ sông Xen, ở chỗ Bretxông đã ném cái gói và vai trò của ông ta, chúng ta sẽ biết. Còn lại đó là ván bài giữa Alixơ Đơmun và tôi? Đối thủ tài trí tỏ ra thường thường thôi phải không Uynxơn? Anh không nghĩ là trước đó một ít tôi đã biết cái câu trong quyển album và các chữ rời rạc, các chữ IENG và VAN ấy có nghĩa là gì sao? Mọi chuyện đều ở đó cả, Uynxơn ạ".
Cùng lúc đó cô gia sư vào và khi thấy y hoa chân múa tay cô đã dịu dàng nói:
- Ông Sôm ạ, tôi sẽ phê bình nếu ông đánh thức bệnh nhân của tôi. Chắng hay gì khi quấy rầy ông ấy. Bác sĩ yêu cầu một sự yên lặng tuyệt đối đấy.
Y yên lặng ngắm nàng, ngạc nhiên như ngày đầu gặp nàng bình tĩnh đến khó hiểu.
- Có gì mà ngài nhìn tôi thế, ngài Sôm? Không có chuyện gì à? Nhưng có đấy... luôn luôn ngài có ẩn ý... Điều gì đấy ạ? Xin ngài cho biết.
Nàng hỏi y với cả khuôn mặt trong sáng. Với đôi mắt ngây thơ, với cái miệng mỉm cười và với tất cả thái độ nữa, - với đôi tay chắp lại, với thân hình hơi ngả ra phía trước. Người nàng toát lên biết bao sự trong trắng khiến thám tử Anh cảm thấy căm giận. Y tiến lại gần nàng và hạ giọng nói:
- Bretxông tự bắn mình chiều qua.
Có vẻ như không hiểu, nàng nhắc lại:
- Bretxông tự bắn mình chiều qua...
Thực tế không một sự phối hợp nào làm biến đổi khuôn mặt của nàng và cả không gì lộ ra nàng cô gắng nói dối nữa.
- Cô đã được báo trước rồi, hắn cau có nói với nàng... Nếu không, ít ra cô cũng phải rùng mình... Chà! Cô cương nghị hơn là tôi nghĩ đấy... Nhưng tại sao lại che giấu như vậy?
Y cầm quyển album mà y vừa để trên một chiếc bàn bên cạnh và mở trang bị cắt, hỏi:
- Cô có thể cho tôi biết người ta phải sắp xếp các chữ thiếu ở đây theo thứ tự nào để biết nội dung chính xác của tờ giấy cô gửi cho Bretxông bốn ngày trước khi xảy ra vụ trộm chiếc đèn Do Thái không?
- Theo thứ tự nào à?... Bretxông?... Vụ trộm chiếc đèn Do Thái nào?
Nàng nhắc lại các chữ, chậm rãi như để làm toát lên cái nghĩa của chúng.
Y nhấn lại:
- Đúng. Đấy là những chữ đã dùng... trên mẩu giấy này. Cô đã nói gì với Bretxông?
- Những chữ đã dùng... tôi đã nói gì...?
Bất thình lình nàng phá lên cười:
- A! Tôi hiểu rồi! Tôi là kẻ tòng phạm của vụ trộm! Có một ông tên Bretxông đ