← Quay lại trang sách

TƯỜNG LẠC ĐÀ (tt) 12

Tường muốn tìm chỗ nào đó ngồi xuống, nghĩ kỹ lại đầu đuôi một lượt, dù cho nghĩ xong chỉ có khóc thôi, thì cũng còn biết khóc vì cái gì. Sự việc diễn ra nhanh quá, đầu óc anh ta theo không kịp. Không có chỗ nào ngồi được cả, khắp nơi đều là tuyết trắng. Các quán nước đã đóng cửa cả, hơn mười giờ rồi. Mà dù mở chăng nữa, anh ta cũng chẳng buồn vào; anh ta muốn kiếm một chỗ nào yên tĩnh. Anh ta biết, nước mắt đã lưng tròng, chưa biết lúc nào sẽ rơi xuống.

Không có chỗ nào ngồi thì đành chậm rãi mà bước đi vậy. Nhưng mà, đi đâu bây giờ? Trong cái thế giới trắng toát này, không có chỗ nào để anh ta ngồi, cũng không có nơi nào để anh ta đi đến; cả một vùng trắng toát, chi có con chim đói meo và con người cùng đường mới hiểu thế nào là đau thương.

Đi đâu bây giờ? Ngay chuyện đó cũng làm anh ta bối rối chứ chưa cần phải nghĩ đến chuyện khác! Vào quán trọ chăng? Không ổn, quần áo thế này, đêm có gì mất hết, ấy là chưa nói đến khoản rệp ở nhà trọ, ghê lắm! Vào nhà trọ sang hơn một chút chăng? Không có tiền, trong tay chỉ có năm đồng bạc, và đó là toàn bộ tài sản của anh ta. Vào nhà tắm chăng? Mười hai giờ là đóng cửa, không ngủ lại được. Chẳng có chỗ nào cả.

Vì không biết đi đâu nên anh ta càng cảm thấy cái quẫn bách của mình. Lăn lộn ở thành phố mấy năm nay rồi, chỉ còn độc mỗi bộ quần áo, và năm đồng bạc. Chăn đệm cũng chẳng còn! Từ chỗ đó, anh ta nghĩ đến ngày mai, ngày mai biết làm thế nào đây? Kéo xe vẫn kéo xe, hừ, kéo xe, kết quả chỉ là tìm không ra được một chỗ trú chân, dành dụm được ít tiền cũng lại bị cướp mất! Buôn vặt, nhưng lại chỉ có năm đồng bạc vốn, lại quang gánh cũng phải mua, huống chi buôn cái gì kiếm cho ra được cơm ăn bây giờ? Kéo xe thì còn từ chỗ không có gì kiếm ra ba bốn hào, chứ buôn bán, đã phải có vốn, lại chưa chắc kiếm đủ ba bữa ăn. Đợi đến khi ăn hết vốn rồi mới lại đi kéo xe, thế thì có khác gì tụt quần đánh rắm, bỗng dưng mất toi năm đồng? Năm đồng này thì không dễ dàng buông ra một hào một xu nào cả. Đó chính là niềm hy vọng cuối cùng! Đi ở, không quen, hầu hạ, không biết; không biết thổi cơm nấu nước giặt giũ quần áo! Không ổn, gì cũng không biết, thật đúng là đồ ngốc nghếch, to xác mà vô dụng.

Anh ta tới Trung Hải lúc nào không biết. Lên tới cầu hai bên quang đãng, nhìn thấy toàn là tuyết. Lúc bấy giờ hình như anh ta mới thấy tuyết vẫn rơi không ngừng, sờ lên đầu, chiếc mũ len đã ướt đẫm. Trên cầu không có ai, cả tay cảnh sát đứng gác cũng rúc vào đâu chẳng biết. Mấy ngọn đèn, tuyết bay táp vào trông như những con mắt đang nhấp nháy. Tường nhìn cảnh tuyết rơi tứ phía, lòng buồn thiu.

Anh ta đứng trên cầu rất lâu. Thế giới dường như chết rồi, không một âm thanh, không một động tĩnh. Những bông tuyết trắng nhờ nhờ như được dịp, nhẹ nhàng rơi tới tấp, muốn âm thầm chôn vùi mọi cảnh vật. Trong lúc vắng lặng đó, Tường nghe lương tâm mình khẽ lên tiếng: đừng vội nghĩ tới mình, hãy về xem gia đình ông Tào ra sao đã. Cả nhà chỉ có bà Tào và vú Cao, không có người đàn ông nào! Năm đồng bạc cuối cùng kia, chẳng phải là ông Tào cho đấy ư? Không dám suy nghĩ thêm nữa, anh ta vội vàng quay về, đi rất nhanh.

Ngoài cổng có mấy vết chân, trên đường có vết bánh ô tô mới lăn. Bà Tào đi rồi hay sao? Cái thằng Tôn kia sao không bắt bà ta?

Anh ta không dám đến đẩy cổng, sợ lại bị tóm cổ. Nhìn quanh nhìn quẩn mãi, chẳng thấy ai cả, trống ngực anh ta nổi lên. Cứ thử xem nào, cũng chẳng còn nhà cửa đâu mà về nữa, tóm thì tóm. Anh ta khẽ đẩy cánh cổng. Cánh cổng mở. Men theo chân tường bước được hai bước, anh ta thấy đèn trong buồng mình còn sáng. Buồng riêng của mình! Anh ta muốn khóc òa lên. Anh ta lom khom bước tới, đến bên cửa sổ, nghe ngóng, thấy trong buồng có tiếng ho. Tiếng vú Cao! Anh ta đẩy cửa.

- Ai đấy? Ôi chao! Anh đấy à! Làm tôi sợ hết hồn!

Vú Cao ôm lấy ngực, định thần, ngồi xuống giường:

- Anh Tường, có chuyện gì thế?

Tường không nói được, chỉ cảm thấy hình như hàng bao năm qua không được thấy mặt vú, trong lòng ấm áp hẳn lên.

- Sao thế hở? - Vú Cao đường như cũng sắp khóc - Anh chưa về đến nơi thì ông gọi điện thoại về nhà, bảo bà và tôi đưa em đến nhà ông Tả, và nói anh sẽ về ngay đây. Thế rồi anh về, tôi chả mở cửa cho anh là gì? Tôi thấy anh đi với một người lạ mặt nữa. Tôi không nói gì cả, liền quay vào với bà cùng thu xếp các thứ. Mãi chả thấy anh vào. Đêm hôm khuya khoắt, bà và tôi sợ hết hồn hết vía, chú bé thì đang ngủ say cứ thế là bế ra khỏi chăn ấm. Gói ghém xong, lại vào buồng hạ mấy bức tranh xuống. Ấy thế mà vẫn chả thấy mặt mũi anh đâu cả. Anh làm sao thế hừ? Thu xếp qua loa tạm xong, tôi xuống tìm anh, thì chẳng thấy anh đâu nữa! Bà vừa giận vừa lo, người cứ run bắn lên. Tôi đành quay điện thoại gọi xe vậy. Nhưng chẳng lẽ lại bỏ nhà trống không, đi cả, tôi thưa với bà là tôi ở lại trông nhà cho, bà cứ việc đi đi, anh Tường về, tôi sẽ đến nhà ông Tả ngay; anh ta không về thì có chuyện gì tôi sẽ liệu vậy. Thế nào ấy nhỉ, anh làm sao vậy hử, nói đi xem nào?

Tường vẫn chẳng nói chẳng rằng.

- Nói đi, định cứ đứng ì ra đó là xong chuyện à? Thế nào vậy hử?

Mãi Tường mới bật ra một câu:

- Vú đi đi! Cứ đi đi!

Vú Cao đã bớt bực:

- Thế anh coi nhà à?

- Gặp ông, vú nói rằng, mật thám bắt tôi, nhưng rồi, nhưng rồi lại không bắt được!

Bực quá, nhưng suýt nữa vú Cao bật cười:

- Nói thế là thế nào?

Tường cũng cáu:

- Vú hãy nghe đã! Nói với ông rằng: ông phải trốn cho nhanh, tên mật thám nói là thế nào cũng bắt ông. Nhà ông Tả cũng chẳng phải là nơi yên ổn đâu! Phải chạy cho nhanh! Vú đi rồi, tôi sẽ sang bên nhà ông Vương, ngủ nhờ một đêm, cổng ngõ sẽ khóa lại. Ngày mai tôi sẽ đi tìm việc làm. Thật là không phải với ông quá!

Vú Cao thở dài:

- Càng nói càng vớ vẩn, chẳng hiểu ra sao cả! Được rồi, tôi đi đây, chú bé rét cóng lên mất, phải đến ngay xem sao. Gặp ông, tôi sẽ thưa lại là anh Tường anh ấy nói rằng, ông phải trốn cho nhanh. Đêm nay, anh Tường anh ấy khóa cổng lại, sang bên ông Vương ngủ nhờ, ngày mai anh ấy đi tìm việc làm. Thế phải không?

Tường ngượng ngùng, khẽ gật đầu.

Vú Cao đi rồi, Tường khóa cổng lại, quay vào buồng. Con lợn đất vỡ toang nằm dưới đất. Anh ta nhặt mảnh vỡ lên nhìn, rồi lại quăng xuống. Trên giường, chăn đệm vẫn còn nguyên. Quái lạ, thế là thế nào nhỉ? Hay thằng Tôn không phải là mật thám thật? Không thể thế được. Ông Tào, nếu không thấy nguy hiểm gì cả, thì lẽ nào lại phải bỏ nhà chạy trốn? Không hiểu! Không hiểu ra làm sao! Anh ta ngồi xuống giường lúc nào không biết, vừa ngồi xuống lại đứng phắt dậy, như có điều gì kinh sợ. Không thể ngồi lâu ở đây được! Nhỡ cái thằng Tôn kia nó quay lại thì làm sao? Một ý nghĩ thoáng hiện trong óc anh ta: Thật là không phải với ông Tào, nhưng vú Cao đã đưa tin hộ, bảo ông ta phải mau mau trốn đi thật xa, như vậy cũng được rồi. Cứ xét lương tâm, thằng Tường này cũng chẳng phải là cố ý lừa người, vả lại chính mình cũng chịu oan, mất toi cả tiền, chẳng còn cách nào mà lo cho ông ấy được nữa. Cứ thế, anh ta lẩm bẩm một mình, vừa thu xếp chăn nệm.

Vác bọc chăn nệm trên vai, tắt đèn, anh ta chạy băng qua sân sau, đặt bọc chăn nệm xuống đất, hai tay bám lấy bờ tường khẽ gọi:

Anh Trình! Anh Trình à!

Trình là người kéo xe nhà ông Vương. Không có tiếng trả lời. Tường định bụng cứ nhảy sang, rồi sẽ nói chuyện sau. Anh ta vứt bọc chăn nệm sang trước, rơi xuống tuyết, không một tiếng động. Trống ngực anh ta nổi liên hồi. Anh ta dún người lên bờ tường rồi nhảy qua. Nhặt bọc chăn nệm lên, anh ta rón rén đi tìm Trình. Anh ta đã biết chỗ Trình nằm. Cả nhà chắc đã ngủ cả. Trong sân im phăng phắc. Tường cảm thấy đi ăn trộm không phải là chuyện khó lắm. Anh ta mạnh dạn lên, dấn bước; tuyết cứng, kêu lạo xạo. Tìm đến buồng Trình, anh ta đằng hắng. Chừng như Trình vừa đặt mình nằm xuống:

- Ai thế?

- Tôi. Tường đây! Mở cửa với!

Tường nói rất tự nhiên, rất dịu dàng, anh ta nghe tiếng Trình như được lời an ủi vỗ về của người thân.

Trình bật đèn, khoác chiếc áo bông rách mở cửa:

- Cái gì thế, anh Tường? Đêm hôm khuya khoắt?

Tường bước vào, đặt bọc chăn nệm xuống đất, ngồi lên trên, chẳng nói chẳng rằng.

Trình vào trạc ngoài ba mươi, trên mặt, trên người thớ thịt cứ nổi lên, rắn chắc, trông có góc cạnh. Thường ngày, Tường và anh ta không chơi bời gì với nhau cả, có điều gặp nhau thường cũng gật đầu chào hỏi. Có khi, bà Vương và bà Tào cùng lên phố, Tường và Trình lại có dịp ngồi uống nước, nghỉ ngơi với nhau. Tường không phục Trình lắm. Trình chạy nhanh, nhưng vẫn có luông cuống như không cầm vững được càng xe hay sao ấy. Tuy rất tốt bụng, nhưng vì có cái tật ấy, cho nên Tường không phục.

Nhưng lúc này, Tường thấy Trình đáng yêu lắm. Anh ta ngồi đó, không nói được câu nào, nhưng trong lòng thì thấy rất cảm động, thân thiết. Vừa ngồi, đứng trên cầu Trung Hải, bây giờ lại được ngồi với người quen ở trong nhà, sự việc thay đổi nhanh quá, khiến anh ta thấy trong lòng trống trải, đồng thời cũng lại thấy êm ấm.

Trình lại chui vào chăn, chỉ chiếc áo gi-lê cũ:

- Hút thuốc đi, trong túi ấy, "Biệt dã" đấy!

Thuốc lá "Biệt thự" từ khi ra đời, đã bị các anh em phu xe đổi ra là "Biệt dã”[*] Tường vốn không quen hút thuốc, nhưng lẩn này hầu như không thể chối được, liền lấy một điếu, đưa lên môi, châm hút.

[*]Chu thich: Chữ Trung Quốc, “thự” và “dã” viết gần giống nhau, nên đọc nhầm (ND).

- Sao thế? Thôi việc rồi à?

- Không - Tường vẫn ngồi trên bọc chăn nệm - Có việc lôi thôi xảy ra. Cả nhà ông Tào bỏ trốn rồi. Tôi không dám ở lại trông nhà một mình.

Trình lại nhổm dậy:

- Chuyện gì thế?

- Cũng không rõ lắm, nhưng không phải là chuyện thường đâu. Cả vú Cao cũng đi rồi!

- Cửa ngõ mở toang, không ai coi cả à?

- Tôi khóa lại rồi!

- Hừ - Trình suy nghĩ một lát - Để tôi lên thưa với ông Vương biết qua tí nhá!

Nói xong, anh ta định khoác áo vào.

- Mai hẵng hay! Cũng chưa biết rõ ra sao cả mà!

Tường sợ ông Vương lại căn vặn anh ta.

Chuyện mà Tường không rõ vốn là như thế này: ông Tào có dạy mấy giờ ở một trường đại học nọ. Cấp trên không vừa lòng lắm, định trị ông ta, nói rằng ông ta có tư tưởng quá khích! Ông Tào cũng có nghe phong thanh, nhưng thấy nực cười. Ông ta biết rõ cái tư tưởng mới đó của ông ta chẳng có gì là triệt để cả, đồng thời ông ta cũng hiểu rằng, lòng đam mê mỹ thuật truyền thông kia của ông ta đã ngăn trở những hành động mạnh mẽ như thế nào rồi. Ấy thế mà lại mang tiếng là cách mạng! Thật là nực cười! Vì nực cười, cho nên cũng chẳng cần đê ý đến lắm, tuy học sinh và bạn đồng nghiệp đều khuyên ông ta nên cẩn thận. Trong thời buổi loạn lạc này, cẩn thận cũng không chắc an toàn được.

Nghỉ đông là một dịp tốt để thanh toán các phần tử cách mạng trong nhà trường, bọn mật thám bắt đầu bận rộn theo dõi điều tra, bắt bớ. Ồng Tào có nhiều lần cảm thấy có người theo dõi mình. Bóng người phía sau lưng khiến ông ta từ vui cười chuyển thành lo sợ. Ông ta đến tìm ông Tả.

Theo ý ông Tả thì:

- Lúc đầu, cứ dọn đến nhà tôi. Bọn chúng chẳng đến nỗi lục soát nhà tôi đâu!

Ông Tả quen biết nhiều, mà những người đó thì pháp luật mạnh sao bằng được!

- Bác cứ dọn đến đây ở mấy ngày, tránh cho qua đi đã. Coi như là chúng ta sợ chúng nó vậy. Rồi tìm cách giải quyết. Có lẽ cũng phải tiêu ít tiền. Bọn chúng nó được đẹp mặt, lại được tiền, lúc đó bác về nhà chẳng sao nữa đâu.

Tôn - tay mật thám kia - biết ông Tào thường đi lại nhà ông Tả, và cũng biết truy gấp thì ông ta nhất định sẽ đến nhà ông Tả. Bọn chúng không dám động đến ông Tả, có dọa dẫm thì dọa dẫm được ông Tào kia thôi. Làm mạnh cho ông ta chạy đến nhà ông Tả, bọn chúng mới có hy vọng vơ ít tiền, và cũng giữ được sĩ diện. Còn chuyện bóp nặn Tường, vốn không ở trong kế hoạch hành động của bọn mật thám, có điều đã trông thấy Tường, tiện tay như thế, tội gì không kiếm chác lấy tám chín đồng một chục trước đã!

Đúng rồi, ai cũng có cách cả, đâu cũng có khe hở, chỉ Tường là chạy không thoát, bởi vì anh ta là một anh phu xe. Làm cái thân anh phu xe, ăn thì cơm hẩm ngô khoai, làm thì sặc máu ra, mà kiếm thì chẳng được mấy đồng. Họ phải đứng vào chỗ thấp nhất trong xã hội, chờ đợi, chịu đựng sự đả kích của mọi người, của mọi thế lực, của mọi nỗi khốn khổ.

Đốt hết một điếu thuốc, Tường vẫn chưa nghĩ ra cách gì. Anh ta giống như con gà trong tay người đầu bếp, chỉ thấy thở được một chút là tốt rồi, chứ chẳng có ý định gì cả. Anh ta rất muốn chuyện trò với Trình, nhưng không biết nói gi. Anh ta không thể dùng lời để diễn đạt ý nghĩ của anh ta. Anh ta đã phải chịu đựng mọi nỗi khổ sở, nhưng anh ta không mở miệng nói ra được, như người câm. Mua xe, mất xe; dành dụm được ít tiền, tiền cũng đi tong. Cố gắng chịu thương chịu khó thì kẻ khác đến nạt nộ cướp đoạt hết, không dám trêu ghẹo ai, đến con chó hoang cũng phải tránh, ấy thế mà cuối cùng vẫn bị đè nén, thở không ra hơi.

Tạm gác chuyện đã qua, ngày mai sẽ ra sao đây? Nhà ông Tào thì không quay về được nữa rồi? Đi đâu bây giờ?

- Mình ngủ nhờ một đêm, có được không?

Anh ta hỏi, như con chó hoang tìm được nơi tránh gió, hãy tạm nương thân một lát, thế mà ngay cái chuyện cỏn con ấy cũng vẫn cứ phải hỏi han cho rõ, liệu có phiền đến ai chăng.

- Cứ ở đây thôi, tuyết lạnh như thế này đi đâu? Nằm dưới đất có được không? Hay là lên đây, chật tí cũng được!

Tường không muốn lên giường chen chúc nhau. Nằm dưới đất này cũng tốt lắm rồi.

Trình ngủ rồi, Tường vẫn cứ trằn trọc mãi, không sao chợp mắt đi được. Hơi lạnh ở đất xông lên làm cho tấm nệm lạnh như phiến sắt. Anh ta co chân lại, ấy thế mà vẫn cứ lên gân. Gió từ khe cửa lùa vào, như một nắm kim đâm vào đầu, vẫn không ngủ được, nghe Trình ngáy, anh ta thấy bứt rứt khó chịu, chỉ muốn dậy nện cho anh ta một trận mới hả. Trời mỗi lúc một lạnh, lạnh đến nỗi cổ họng như ngứa ngáy, anh ta sợ bật ho lên, làm Trình thức giác.

Ngủ không được, anh ta rất muốn rón rén dậy, trở về nhà ông Tào xem sao. Dù thế nào thì thế cũng là hỏng rồi, nhà lại không có ai cả, sao chẳng vơ vét một vài thứ gì đó? Ít tiền dành dụm khó nhọc được, bị nó cướp đoạt mất, chính là vì việc của nhà ông ta mà bị liên lụy, vậy thì sao lại không sang đánh cắp lấy ít đồ đạc. Vì ông ta mà mất tiền, nay lấy đồ đạc của ông ta bù vào lại không phải hay sao? Nghĩ thế, mắt anh ta sáng lên, quên cả lạnh. Đi nào! Số tiền khó nhọc mới dành dụm được, nay mất rồi. Bây giờ có dịp bù lại dễ dàng, sang lấy đi thôi!

Đã ngồi dậy, nhưng anh ta lại vội vàng nằm xuống, hình như Trình đang nhìn anh ta, trống ngực anh ta nổi lên. Không, không thể làm thằng ăn trộm được. Không thể được. Lúc này, vì thoát lấy thân, mà không làm theo lời ông Tào dặn dò, đã là không phải với người ta rồi; sao bây giờ lại có thể lấy đồ đạc của người ta? Không thể được! Nghèo, chết thì thôi, không thể làm cái trò trộm cắp.

Biết đâu kẻ khác lại không lấy rồi? Thằng cha Tôn kia quơ đi một ít; thì ai biết? Anh ta lại nhổm dậy. Xa xa có tiếng chó sủa. Anh ta lại nằm xuống. Không thể thế được. Ai ăn cắp thì ăn cắp, mình không thể thẹn với lương tâm. Đã nghèo khổ đến bước này, đừng để lòng phải mang thêm một vết nhơ nữa!

Huống hồ, vú Cao đã biết anh ta sang bên này ngủ nhờ, ban đêm nhà ông Tào mất mát cái gì, thì chỉ có anh ta mà thôi! Không phải anh ta, cũng nghi cho anh ta. Ấy thế là, anh ta không nghĩ đến chuyện ăn trộm nữa, mà lại còn sợ có người vào nhà ông Tào. Nếu quả đêm nay bên ấy có mất mát gì, thì dù cho có nhảy xuống sông Hoàng hà cũng không thể rửa sạch được tiếng. Anh ta không thấy lạnh nữa, lòng bàn tay lại nhơm nhớp mồ hôi. Làm thế nào bây giờ? Lại nhảy sang nhà ông Tào để canh à? Không dám thế, đã phải đem tiền ra mà chuộc mạng rồi, không thể tự dưng đâm đầu vào lưới nữa. Không sang, nhỡ mất cái gì thì sao?

Không biết nên thế nào, anh ta lại nhổm dậy, ngồi chồm hổm, đầu cúi gần sát đầu gối. Đầu nặng, mắt díp lại, nhưng không dám ngủ.

Đêm dài thế mà Tường không lúc nào chợp mắt đi được.

Ngồi không biết bao nhiêu lâu, ý kiến cũng không biết thay đổi bao nhiêu lần, anh ta bỗng vụt thấy đầu óc sáng ra, liền đưa tay lay Trình:

- Anh Trình! Anh Trình! Dậy, dậy đi

- Gì thế? - Trình không muốn mở mắt ra chút nào - Có đái thì gầm giường có bô đấy!

- Dậy bật hộ cái đèn tí!

Trình nhỏm dậy, còn ngái ngủ, hỏi:

- Có trộm à?

- Tỉnh ngủ chưa?

- Rồi!

- Này, anh xem hộ đây nhé! Đây là chăn đệm của tôi, đây là quần áo của tôi, đây là năm đồng ông Tào cho tôi. Không có gì khác nữa cả đấy nhé!

Trình ngáp:

- Ừ, mà làm sao cơ?

- Anh đã tỉnh ngủ hẳn chưa? Đồ đạc của tôi chỉ có thế, tôi đã không lấy qua một thứ gì của nhà ông Tào đấy!

- Ừ, đúng rồi! Bọn mình ăn cơm nhà người ta mãi, nay lại còn vơ vét chấm mút sao đành? Làm được thì làm, không được thì thôi! Không thể lây đồ đạc của người ta! Chỉ có việc ấy thôi phải không?

- Anh đã nhìn rõ hộ chưa?

Trình cười:

- Rõ rồi! Không thấy lạnh à?

- Thôi được!

13

Vì có ánh tuyết, nên trời sáng sớm hơn ngày thường một chút. Sắp hết năm, nhiều người mua gà về nuôi, tiếng gà gáy cũng nhiều gấp mấy lần ngày thường. Khắp nơi rộn tiếng gà, rõ ra vẻ tuyết lành được mùa. Nhưng Tường suốt đêm chẳng ngủ được. Nửa đêm về sáng, anh ta chợp đi được một tí, mơ mơ màng màng, ngủ chẳng ra ngủ, y như đang bập bềnh trên mặt nước, lòng dạ bồi hồi. Càng nằm càng thấy lạnh, nghe gà gáy bốn xung quanh, anh ta thấy không thể chịu được nữa. Không muốn làm Trình thức giấc, anh ta nằm co tròn lại, lấy chăn bịt lấy miệng mà ho, nhưng vẫn không dám trở dậy. Cố nhẫn nại chờ đợi, rất sốt ruột. Mãi trời mới sáng, ở ngoài phố có tiếng bánh xe bò lăn qua, và tiếng người đánh xe hò hét. Tường liền ngồi dậy, ngồi vẫn thấy lạnh, anh ta đứng lên, cài khuy áo, hé cửa nhìn ra ngoài. Tuyết không dày lắm, chừng như vào quãng nửa đêm thì không rơi nữa. Trời có vẻ tạnh ráo, nhưng xám ngắt, trông mờ mờ, ngay cả mặt tuyết dường như cũng xám nhàn nhạt. Thoáng nhìn, anh ta thấy ngay những vết chân to tướng của mình in lại từ tối qua, tuy đã bị tuyết phủ, nhưng từng vết từng vết một, trông rất rõ.

Một là để cho có việc làm, hai là để xóa sạch vết chân, anh ta lẳng lặng sờ lấy chiếc chổi ở góc nhà, đem ra quét tuyết. Tuyết nặng, khó quét, lại không tìm được chổi tre lớn, anh ta đành phải cúi thật thấp, ra sức quét, lớp trên bị quét đi, nhưng sát mặt đất vẫn còn, dường như tuyết đã bám chặt cả vào đây rồi.

Phải vươn thẳng lưng cho đỡ mỏi tới hai lần, anh ta mới quét sạch được cái sân ngoài, vun tuyết thành đống dưới gốc hai cây liễu nhỏ. Anh ta thấy ấm lên, ra mồ hôi, khoan khoái dễ chịu. Giậm giậm chân, anh ta thở một hơi rõ dài, trắng xóa.

Vào nhà, để chổi vào chỗ cũ, anh ta định đến thu xếp chăn nệm. Trình đã dậy, ngáp dài, miệng chưa ngậm lại đã hỏi luôn:

- Sáng rõ rồi à?

Giọng nói nghe chẳng rõ gì cả.

Nói xong, anh ta dụi mắt, rồi tiện tay với lấy điếu thuốc trong túi áo gi-lê, châm hút hai hơi, lúc đó mới tỉnh ngủ hẳn.

- Tường này, hẵng rồi đi! Để mình đi lấy ít nước sôi, pha ấm trà uống đã. Đêm qua, chắc cậu sợ lắm đấy nhỉ!

- Để tôi đi cho!

Tường nói, giống vui vẻ. Nhưng vừa nói xong nghĩ đến chuyện khủng khiếp đêm qua, anh ta thấy tim như thắt lại.

- Thôi, để mình đi cho. Mình mời cậu mà!

Nói xong, Trình mặc quần áo rất nhanh; cúc chẳng cài, chỉ khoác ngoài chiếc áo gi-lê rách một chiếc thắt lưng, miệng ngậm điếu thuốc lá, chạy đi:

- Ô kìa! Sân quét rồi à? Cậu này khá thật! Ngồi đây tớ đi kiếm cái gì ngồi ăn với nhau nhé!

Tường thấy vui vui.

Một lát, Trình quay về, bưng hai bát cháo đường, một ít bánh nướng, và dìu cháo quẩy[*].

[*]Chu thich: Một thứ bánh làm bằng bột mì rán, người Trung Quốc thường ăn với cháo đường hay sữa đậu (ND).

- Chưa pha được trà, ăn tí cháo đã. Nào, ăn đi! Hết lại mua thêm; không có tiền thì mua chịu; làm khó nhọc, tội gì mà bóp mồm bóp miệng. Nào!

Trời sáng hẳn, trong nhà cũng sáng rõ, giá lạnh, hai người bưng cháo húp sụp soạt, ngon lành lắm. Không ai nói gì cả, ăn một lèo hết nhẵn cả.

Trình lấy tăm gẩy một hạt vừng ở kẽ răng, hỏi:

- Thế nào?

Tường nhìn bọc chăn nệm dưới đất:

- Đi thôi!

- Cậu kể lại chuyện cho mình nghe tí nào, mình chưa hiểu đầu đuôi ra sao cả.

Trình đưa cho Tường điêu thuốc, Tường lắc đầu.

Nghĩ một tí, Tường thấy không kể hết cho Trình nghe thì không tiện. Anh ta ấp a ấp úng kể lại một lượt việc tối qua, tuy khó nhọc, nhưng có gì nói hết.

Trình mím môi lại một hồi lâu, như muốn tìm trong đó một chút ý vị:

- Theo mình thì cậu cứ đi tìm ông Tào đi. Công việc không thể thế là xong được, tiền cũng không thể để mất được! Vừa rồi cậu chẳng nói là ông Tào dặn cậu, thấy tình hình bất lợi là chuồn đó sao? Cậu vừa xuống xe một cái, liền bị mật thám tóm cổ, như vậy còn trách ai được! Không phải cậu không hết lòng, nhưng vì tình thế nguy ngập quá, không thể không lo lấy thân trước! Theo mình, như vậy chẳng có gì là không phải cả. Cậu đi tìm ông Tào đi, kể lại đầu đuôi cho rõ ràng. Mình chắc ông ta nhất định không trách cậu đâu, không khéo lại còn đền tiền cho cậu nữa cũng nên! Thôi đi đi, để chăn nệm đây. Đi tìm ông ta sơm sớm một chút. Ngày ngắn, mặt trời lên là tám giờ rồi đây! Mau đi đi thôi!

Tường mừng thầm, nhưng vẫn thấy không phải với ông Tào, có điều Trình nói thì cũng rất có tình lý - tên mật thám rút súng ngăn lại, làm sao có thể còn lo việc cho nhà ông ấy được?

Trình lại giục:

- Đi đi! Mình thấy tối qua thế là cậu hơi luẩn quẩn đấy. Kể ra thì gặp việc cấp bách, ai cũng chẳng tránh khỏi rối trí. Mình chỉ cho cậu con đường ấy, nhất định không sai. Mình hơn tuổi cậu, dù sao cũng đã từng trải hơn ít nhiều. Thôi đi đi, mặt trời lên rồi kia kìa!

Một chút ánh nắng buổi sớm, nhờ có tuyết, đã chiếu sáng cả toàn thành. Trời xanh, tuyết trắng; trời sáng, tuyết cũng sáng, giữa màu xanh và màu trắng lấp lánh ánh vàng, làm người ta khoan khoái, mắt cứ lim dim. Tường sắp đi thì có người gõ cổng. Trình ra xem, rồi đứng ở cổng gọi:

- Tường à! Có người hỏi cậu đây này!

Nhị, người nhà ông Tả, rét quá chảy cả nước mũi, đang đứng ở cổng, giậm chân cho sạch tuyết. Trình thấy Tường đi ra, liền nói:

- Vào cả trong nhà ngồi đi!

Cả ba người cùng vào.

Nhị xoa xoa tay nói:

- Ờ... Tôi đến coi nhà, làm sao vào được nhỉ?... Cổng khóa... ờ... tuyết xuống... rét... rét quá! ơ... ông Tào... bà Tào... đi từ sáng sớm rồi. Đi Thiên Tân, hoặc Thượng Hải gì đấy, chẳng biết nữa. Ông Tả bảo đến để trông nhà... ờ... rét quá!

Tường bỗng muốn òa lên khóc. Đang định theo lời Trình, đi tìm ông Tào, thì ông ấy lại đi mất rồi! Thẫn thờ hồi lâu, anh ta mới hỏi một câu:

- Ông Tào không nhắc gì đến tôi à?

- Á... không... Trời chưa sáng đã đi rồi, chẳng kịp dặn dò gì cả. Tàu chạy vào lúc... ờ... bảy giờ bốn mươi... ờ... làm thế nào sang được sân bên kia nhỉ?...

Nhị muốn sang gấp bên kia.

- Nhảy qua tường!

Tường có ý nhìn Trình, như có ý giao Nhị cho anh ta, rồi cuộn chăn nệm lại.

Trình hỏi:

- Đi đâu đấy?

- Chẳng còn nơi nào khác nữa, đến hãng Nhân Hòa vậy!

Câu nói đó tỏ rõ mọi nỗi đau khổ, ngượng ngùng bất đắc dĩ của Tường. Không còn cách nào khác, anh ta phải đầu hàng! Mọi con đường đã đều bị chặn cả rồi, anh ta đành phải đi tìm ả Nĩu, đen như cột nhà cháy giữa vùng tuyết trắng vậy. Anh ta có lòng tự trọng, có chí làm ăn, trung thực, nghĩa khí, nhưng tất cả những cái đó đều vô dụng, bởi vì số anh ta là số "con chó”!

Trình tiếp lời:

- Thôi, cậu đi thì đi đi! Có mặt anh Nhị đây này! Nhà cửa đồ đạc ông Tào còn nguyên cả đấy, cậu chẳng tơ hào một chút nào cả. Thôi, đi đi! Dịp nào về qua cái phố này, rẽ vào đây nói chuyện chơi nhé. Nghe được tin gì hay, mình sẽ mách với cậu. Cứ đi đi, mình sẽ đưa anh Nhị sang bên kia. Có than đấy chứ?

- Than, củi chẻ sẵn, đều trong gian buồng ở sân sau ấy!

Tường vác bọc chăn nệm lên vai. Ngoài phố tuyết không trắng lắm, trên mặt đường, vết bánh xe còn hằn xuống, làm lộ màu băng giá. Trên những con đường đất, vó ngựa giẫm, chỗ đen chỗ trắng loang lổ, trông thảm hại. Tường chẳng nghĩ ngợi gì cả, cứ vác bọc chăn nệm, dấn bước, thẳng một mạch đến tận hãng Nhân Hòa. Anh ta không dám dừng lại, biết rằng chỉ dừng lại một chút thôi là không đủ can đảm đi tới nữa. Anh ta bước thẳng vào phía trong, mặt nóng ràn rạt. Anh ta đã chuẩn bị sẵn một câu để nói với ả Nĩu: "Tôi đến đây. Thế nào cũng được cả, tôi chẳng biết xoay xở ra sao nữa!".

Khi gặp ả, anh ta loay hoay mãi với câu đó, rút cục vẫn không sao nói ra được, miệng thấy ngượng nghịu thế nào ấy.

Ả Nĩu vừa dậy, đầu tóc bù xù, mí mắt hùm hụp, mặt đen sần sùi, y như con gà chết rét vặt trụi lông.

- A! Anh đã đến đấy à?

Ả nói, giống thân thiết lắm, mắt tươi cười, sáng ngời.

Tường cúi xuống nhìn mũi giày chưa rũ sạch tuyết.

- Cho tôi thuê một cái xe.

- Vào nói với ông cụ ấy!

Ả khẽ trả lời rồi hất hàm về phía gian phòng bên tay phải.

Lão Tư Lưu đang ngồi uống trà ở bên đó, trước mặt đặt một cái hỏa lò to trắng tinh ngọn lửa bốc cao có đến nửa thước[*]. Thấy Tường vào, lão liền nửa mừng nửa giận nói:

[*]Chu thich: Nửa thước Trung Quốc, gần bằng 20 cm (ND).

- Vẫn còn sống đấy à? Quên rồi sao? Tính xem bao nhiêu lâu không lại đây rồi? Làm ăn thế nào? Đã mua được xe chưa?

Tường lắc đầu, lòng đau như cắt:

- Lại đến nhờ cụ cho thuê cái xe.

- Hừ! Lại mất việc rồi à! Thôi được, vào chọn lấy một cái! - Lão rót một chén trà - Này, uống chén đã!

Tường đỡ lấy chén, đứng cạnh hỏa lò, uống một ngụm lớn. Trà rất nóng, lửa cũng rất ấm, anh ta thấy hơi buồn ngủ. Đặt chén xuống, vừa định bước ra, thì lão Tư Lưu gọi giật lại:

- Hượm đã, đi đâu vội thế! Này, anh đến thật vừa khéo, hăm bảy này là sinh nhật tôi. Tôi muốn dựng cái rạp, mời ít khách khứa, anh giúp cho mấy hôm, đừng đi kéo xe vội. Chúng nó - lão Tư Lưu chỉ tay ra sân - không tin được, tôi không muốn làm họ nháo nhào cả lên đâu, anh giúp một tay, thế là tốt rồi. Nên làm thế nào thì cứ việc mà làm, không phải đợi tôi bảo nữa. Bây giờ, đi quét tuyết đi đã, trưa nay ở đây ăn món dúng với tôi.

- Vâng ạ.

Tường nghĩ ra rồi, đã quay về đây, mọi việc đành mặc kệ hai bố con ông ta sắp đặt vậy, họ muốn xoay vần anh ta thế nào cũng được, anh ta xin chịu tất.

Ả Nĩu nhằm đúng dịp đó, đến gần, nói:

- Đấy thầy xem, con nói đúng không? Anh Tường vẫn hơn, mấy người kia lờ phờ thế nào ấy!

Lão Tư Lưu cười, Tường lại cúi đầu xuống thấp hơn.

Ả Nĩu ra ngoài, gọi:

- Này, anh Tường! Tiền đây, anh đi mà mua chổi, chổi tre ấy, quét tuyết cho dễ. Phải quét gấp mới được, hôm nay dựng rạp đấy!

Vào đến phòng riêng, ả vừa đếm tiền cho anh ta, vừa khẽ nói:

- Tươi tỉnh lên một tí nào! Làm cho ông cụ vui lòng, việc của chúng ta có hy vọng đấy!

Tường không nói năng gì cả, và dường như cũng chẳng còn chút sinh khí nào. Anh ta như đã chết hẳn cõi lòng rồi, không muốn nghĩ gì nữa, sống ngày nào hay ngày ấy thôi. Có ăn thì ăn, có uống thì uống, có việc gì thì làm, chân tay không để rỗi, quanh quẩn qua lại được một ngày. Phải bắt chước con lừa kéo cối mới được, chẳng biết gì cả, cứ việc kéo xoay vòng quanh.

Nhưng anh ta thấy dù thế nào cũng không thể vui lên được. Tuy không muốn nghĩ, không muốn nói, không muốn bực dọc giận dữ, nhưng hình như cứ có cái gì chẹn ngang cổ họng, lúc làm việc tạm thời quên đi, nhưng hễ cứ ngơi tay ngơi chân một tí là lại cảm thấy vật đó mềm nhũn, to lắm, không có mùi vị gì nhất định, nhưng nuốt không trôi, y như một miếng bọt bể vậy. Anh ta muốn phấn chấn lên mà làm việc, cho mệt nhoài ra, rồi ngủ thiếp đi. Ban đêm, mọi việc phó thác cho giấc mộng, ban ngày mọi việc phó thác cho tay chân, anh ta giống như một người chết biết làm việc. Anh ta quét tuyết, đi mua sắm các thứ, thuê đèn đất, lau xe, khuân dọn bàn ghế, ăn cơm lão Tư Lưu đãi, rồi ngủ, chẳng biết đến chuyện gì cả; không nói năng, mà cũng chẳng suy nghĩ, chỉ phảng phất cảm thấy một cái vật y như miếng bọt bể kia chẹn lấy cổ họng.

Tuyết trong sân đã quét dọn sạch, tuyết trên mái nhà dần dần tan hết, anh em thợ dựng rạp hò nhau leo lên mái, dựng khung. Đã định sẵn là rạp rộng bằng cả cái sân, ba mặt có rèm treo, có lan can, có cửa kính. Trong rạp có vách ngăn, gắn kính, treo tranh, họa, gặp chỗ gỗ thì bọc vải đỏ. Cửa giữa, cửa bên đều phủ giấy ngũ sắc. Nhà bếp dựng ở sân sau. Vì đây là ngày lễ mừng "lẻ chín”[*], lão Tư Lưu muốn làm cho linh đình, nên trước hết cần dựng một cái rạp cho ra trò. Ngày ngắn, anh em thợ mới chỉ dựng xong thân rạp, lắp lan can và bọc vải, còn trang trí bên trong rạp, treo giấy ngũ sắc ở các cửa thì phải để đến sáng hôm sau. Lão Tư Lưu vì thế mà phát cáu với anh em thợ dựng rạp, mặt mũi đỏ gay gắt. Cũng chính vì chuyện ấy mà lão thúc Tường phải đi giục nhà cho thuê đèn đất, nhà bếp, không được để chậm trễ. Kỳ thực, hai việc đó không sao chậm được, nhưng lão không yên tâm. Tường vừa chạy về đến nơi thì lão sai đi mượn bài mạt chược, mượn ba bốn cỗ, để đến hôm đó chơi cho thỏa thích. Mượn được mạt chược về, lại sai đi mượn máy hát, ăn lễ mừng sinh nhật, nhất định phải ồn ào náo nhiệt chứ! Hai chân Tường không được nghỉ chút nào, cứ thế cho đến mười một giờ đêm. Kéo xe quen, nay đi tay không, anh ta thấy mệt hơn là chạy. Lượt cuối cùng về tới nơi, đến như anh ta mà cũng không còn nhấc chân lên được nữa.

[*]Chu thich: Năm ấy lão Tư Lưu 69 tuổi. Theo tục lệ cũ thì 49, 59, 69 đều ăn mừng (ND).

- Khá lắm! Tôi mà có đứa con giai như anh thì trời có bắt giảm thọ đi mấy năm cũng được. Thôi, đi nghỉ đi, mai còn bận nữa kia!

Ả Nĩu đứng cạnh, đưa mắt nhìn Tường.

Sáng hôm sau, anh em thợ rạp đến làm nốt. Dán giấy màu, treo tranh, toàn là cảnh đánh nhau trong chuyện Tam quốc: nào là "Tam chiến Lã Bố" "Cầu Trường Bản", "Hỏa thiêu liên doanh".v.v. Các vai tướng đều cưỡi ngựa cầm thương. Lão Tư Lưu ngẩng cổ lên xem một lượt, thấy vừa ý lắm. Tiếp sau đó, nhà hàng cho thuê bàn ghế, chở đồ đạc đến: trong rạp kê tám bộ, bọc ghế; đệm ghế đều bằng sa tanh đỏ chói thêu hoa. Một bàn mừng thọ kê chính giữa, lư hương đèn nến cảnh toàn là Cảnh thái lam[*] cả, trước bàn trải bốn tấm thảm đỏ. Lão Tư Lưu bảo Tường đi mua ngay một làn táo. Ả Nĩu ngầm đưa cho anh ta hai đồng bạc, bảo mua lấy ít miến và đào để mừng thọ, đào nhất định phải có thêm hình bát tiên, gọi là của Tường đem mừng. Táo mua về rồi, thì bày ngay; một lát sau, miến, đào mừng thọ cũng mua về, bày ở phía sau táo; đào to mà điểm má hồng, thêm hình bát tiên, trông rất lịch sự.

[*]Chu thich: Một kiểu đồ sứ làm theo mẫu người Ả Rập đưa vào, đời Minh, niên hiệu Cảnh Thái (1450 – 1458), nghề làm đồ sứ kiểu đó rất thịnh hành ở Bắc Kinh, gọi là Cảnh thái lam.

Ả Nĩu ghé sát tai bố thì thầm:

- Của anh Tường mừng đấy. Thầy xem, anh ấy tốt đấy chứ!

Lão Tư Lưu nhìn Tường, cười.

Giữa bàn mừng thọ còn thiếu một chữ "Thọ" lớn nữa, theo lệ thường là do bạn hữu đem đến mừng, chứ mình không cần sắm. Đến lúc này mà vẫn chưa thấy ai đưa đến. Lão Tư Lưu tính nóng, lại cáu:

- Việc hiếu hỉ của nhà nào, mình cũng chạy đến trước, thế mà đến việc của mình, thì để cái bàn trơ ra thế, đù mẹ chúng nó chứ!

Ả Nĩu vội can:

- Mai hăm sáu, mới sắp đặt xong, đã vội gì, thầy!

- Tao muốn bày biện cho xong ngay một lúc, cứ linh tinh lang tang thế này, khó chịu lắm! Anh Tường này, đèn đất hôm nay phải có đấy nhé, bốn giờ mà chưa thấy đem đến thì lột da chúng nó ra!

- Anh Tường, anh đi giục lần nữa xem!

Ả Nĩu cố ý nhờ cậy anh ta, trước mặt bố, ả luôn luôn nhờ Tường làm việc này việc nọ.

Tường chẳng nói chẳng rằng, nghe xong, liền đi ra.

Ả Nĩu trề môi:

- Thầy ạ, chẳng phải con hay nói đâu! Có con trai thì không được như con, cũng phải được như anh Tường! Tiếc con lại đầu thai nhầm làm gái, đành chịu vậy. Thực ra có người con nuôi như anh Tường cũng tốt rồi! Đấy, thầy xem, anh ấy chạy ra chạy vào, không lúc nào nghỉ chân nghỉ tay, làm được bao nhiêu là việc!

Lão Tư Lưu không trả lời, trầm ngâm một lúc, rồi nói:

- Cái máy hát đâu ấy nhỉ? Cho nó chạy đi chứ!

Chẳng hiểu cái máy hát thổ tả mượn đâu ra, eo éo như mèo bị giẫm đuôi. Lão Tư Lưu cứ mặc kệ, miễn có hát hỏng một tí là được rồi.

Đến chiều, mọi việc đều xong xuôi đầy đủ cả, chỉ chờ ngày mai nhà bếp đến bày biện cỗ bàn. Lão Tư Lưu đi xem xét khắp một lượt, đâu cũng thấy xanh xanh đỏ đỏ, lão gật gù đắc ý lắm. Đến tối, lão đi mời ông Phùng chủ hiệu than Thiên Thuận đến để ghi chép hộ sổ sách các thứ. Ông ta người Sơn Tây, làm việc đó rất cẩn thận.

Ông Phùng sang xem qua tình hình, bảo Tường đi mua hai tờ giấy in sẵn màu đỏ, và một tờ giấy hồng điều. Ông ta cắt tờ giấy hồng điều ra, viết một ít chữ thọ, rồi dán lên các nơi.

Lão Tư Lưu thấy ông ta là người cẩn thận, lúc bấy giờ liền cho mời hai người nữ, muốn cùng ông ta đánh mấy ván mạt chược. Ông Phùng biết lão là tay lợi hại, không dám nhận lời.

Không đánh được mạt chược, lão hơi bực, liền tìm mấy anh phu xe:

- Xóc đĩa, có dám đánh không nào?

Các anh em đểu muốn chơi cả, nhưng không dám chơi với lão. Ai chẳng biết lão ta đã từng mở sòng.

- Cái đồ các anh!... Thế mà cũng sống được? - Lão lại phát cáu - Lúc tôi bằng tuổi các anh túi chẳng có xu nào mà vẫn cứ chơi, thua sẽ hay! Nào!

Một anh phu xe hỏi dò:

- Đặt cửa một xu nhé?

- Thôi, giữ lây đồng xu của nhà anh, đây ai thèm chơi trò trẻ con - Lão làm một ngụm hết cả chén trà, xoa cái đầu hói - Thôi được rồi, mời ta cũng chẳng chơi đâu! Này, các anh ra bảo với anh em, mai nhà có việc, chiều có bà con bạn bè đến chơi, phải cho xe về trước bốn giờ, không được kéo ra kéo vào nhộn cả lên! Ngày mai không lấy thuế. Bốn giờ phải cho xe về đấy. Cho các anh kéo không một ngày, rồi chúc mừng cho ta thêm mấy câu. Phải ăn ở cho có tình, thế là được rồi! Ngày kia, chính là ngày ăn mừng, không ai được kéo xe cả. Tám rưỡi sáng, sẽ dọn cơm mời các anh ăn, sáu bát lớn, hai đĩa lớn, bốn đĩa nhỏ, một nồi dúng, thế là tươm lắm rồi! Tất cả đều phải đóng áo dài vào, ai ăn mặc cũn cỡn sẽ tống ra khỏi cửa. Ăn xong, thì về để cho ta tiếp đãi bạn bè thân thích. Các vị đó ăn cỗ ba bát đại, sáu món nguội, sáu món xào, bốn đĩa lớn, một nồi dúng. Nói để các anh biết trước, không có trông thấy lại tối con mắt. Bạn bè thân thích đi đằng bạn bè thân thích, ta không lấy gì của các anh cả. Ai có lòng mang lễ mừng, dù nhỏ mọn ta cũng không chê ít. Đến tay không, chỉ vái ta ba vái, ta cũng nhận. Cốt là cho có lễ phép, nghe chưa? Buổi tối, ai muốn ăn nữa, quá sáu giờ tối, cứ việc đến, còn thừa bao nhiêu phần các anh cả. Đến sớm hơn là không được đâu! Đã nghe rõ chưa?

Một bác phu xe đứng tuổi hỏi:

- Cụ Tư, ngày mai có người kéo xe đêm đấy, sao lại bôn giờ chiều đã thu xe?

- Kéo đêm thì quá mười một giờ hãy về! Đang có khách khứa trong rạp, đừng có chen bừa vào đấy! Các anh kéo xe, chứ ta đây không phải là đồng nghiệp của các anh nghe chưa?

Mọi người không biết nói thế nào, không có đường rút lui, mà đứng đó thì thấy khó chịu quá; lời lão Tư nói làm ai nấy có vẻ bất bình. Tuy không phải nộp một ngày thuế, cũng bở đấy, nhưng ai lại vác mồm đến ăn không? Ít nhất, cũng phải biện cái lễ bốn hào trở lên. Huống chi lão nói khó nghe quá, làm như lão ăn mừng sinh nhật thì anh em phải trốn như chuột cả không bằng! Lại nữa, ngày hăm bảy không cho kéo xe, đang lúc giáp tết kiếm khá tiền, lão chịu thiệt thu nhập một ngày còn được, chứ anh em mất toi một ngày thì chết! Mọi người bực tức nhưng cứ đứng đực ra đó, chẳng dám nói năng gì cả, trong bụng tất nhiên chẳng ai cầu chúc phúc lành cho lão Tư Lưu.

Ả Nĩu kéo tay Tường, anh ta theo ả đi ra. c

Cơn giận dữ của mọi người dường như đã tìm được đường thoát. Ai nây trừng mắt nhìn theo Tường. Hai ngày nay, họ thấy Tường đúng là tay sai của lão Tư Lưu, cố sống cố chết bám lấy lão, chịu thương chịu khó hầu hạ. Tường thì không hay biết gì cả. Anh ta làm giúp lão Tư cốt để quên nỗi buồn trong lòng; tối đến, không chuyện trò gì với anh em, là vì anh ta vốn chẳng có chuyện gì mà nói. Anh em không biết nỗi đau khổ của anh ta, cứ cho rằng anh ta bám được lão Tư Lưu, nên không thèm trò chuyện với anh em. Ả Nĩu để ý đến Tường, lại càng làm cho họ tức tối hơn. Họ nghĩ đến chuyện vừa rồi, lão Tư Lưu không cho họ bén mảng đến nhà rạp ăn mừng, còn Tường nhất định sẽ được chén đầy bụng cả ngày; cùng là kéo xe với nhau cả, sao lại người thế này, người thế nọ? Xem kìa, ả Nĩu gọi Tường đi ra rồi! Anh em mắt nhìn theo Tường, chân cũng muốn bước. Họ lững thững đi ra.

Ả Nĩu và Tường đang đứng nói chuyện dưới ngọn đèn đất. Anh em nhìn nhau, gật gù.

14

Tiệc mừng ở nhà lão Tư Lưu làm linh đình lắm. Lão rất bằng lòng vì có nhiều người đến chúc thọ lão. Một điều khiến lão càng đắc ý là có rất nhiều bạn cũ cũng đến mừng. Nghe lời những người bạn cũ này nói, lão thấy lễ mừng thọ lão không những tổ chức linh đình mà còn lại "cải lương" nữa. Cách ăn mặc của những người kia có phần lạc lõng, còn lão thì đánh một cái áo dài, áo khoác ngoài bằng da lót lông, mới tinh. Về mặt làm ăn mà nói, có mấy ông bạn ngày trước giàu hơn lão nhiều, nhưng bây giờ, qua hai ba chục năm, họ càng ngày càng sa sút, có người không kiếm đủ ăn. Nhìn họ, rồi lại nhìn cái rạp ăn mừng, cái bàn thọ, bức tranh vẽ cảnh cầu Trường Bản, mâm cỗ ba bát đại, lão thấy rõ ràng lão hơn hẳn họ, lão đã "cải lương" rồi. Ngay đến cả việc bài bạc, lão cũng chỉ định đánh mạt chược thôi, so với cái trò đánh xóc đĩa, lịch sự thanh cao hơn nhiều.

Thế nhưng, giữa cảnh tưng bừng náo nhiệt đó, lão thấy hơi buồn. Quen sống một thân một mình, lão cứ tưởng khách khứa đến mừng chẳng qua chi là ông chù hiệu, ông quàn lý, và những tay anh chị thường ngày lão vẫn hạ cố giao du. Ngờ đâu, lại có cà các bà các cô nữa. Tuy ả Nĩu có thế tiếp đãi chào mời thay lão, nhưng lão bỗng thấy cánh cô đơn của lão, không vợ, được mỗi mụn con gái, trông lại cứ y như đàn ông ấy. Giả dụ, ả Nĩu là con trai, tất nhiên đã sớm có vợ con rồi, dù cho lão góa vợ chăng nữa, cành nhà chắc cũng chẳng đến nỗi vắng vé như thế này. Đúng thế, lão chẳng thiếu gì sất, chỉ thiếu mỗi đứa con trai. Tuổi ngày càng cao, thì hy vọng có con trai càng mong manh. Mừng thọ vốn là việc vui, ấy thế mà lại đâm ra ủ dột âu sầu. Mặc dù đã "cải lương", nhưng không có con nối nghiệp thì tất cả chẳng phải đểu là công toi hay sao?

Buổi sáng, lão vui lắm, mọi người chúc mừng lão, lão trịnh trọng nhận lễ, dường như mình là một vị lão anh hùng, hơn hẳn ngày thường. Buổi chiều, lão đã ỉu đi một phần. Trông thấy các bà dắt theo con cháu, lão vừa thèm, vừa ghen, cũng không dám gần gũi vuốt ve bọn trẻ nhò, cũng chính vì thế lão cảm thấy ngượng nghịu. Lão nổi giận đến nơi, nhưng rồi cũng lại không dám cáu gắt ngay lúc ấy; lão biết, mình là người giao thiệp rộng, không thể lòi mặt xấu ra trước bạn hữu được. Lão mong sao chóng hết ngày đi, đế khỏi phải chịu những nỗi bực dọc dó.

Trong ngày vui mừng của lão, cũng lại còn một điều không vui nữa là, buổi sáng, lúc dọn cơm cho anh em phu xe suýt nữa Tường đánh nhau với người ta.

Hơn tám giờ, bắt đầu dọn cơm. Anh em phu xe ai nấy đều có vẻ không bằng lòng. Tuy hôm qua không phải nộp thuế, nhưng hôm nay không ai đến ăn không cả; năm xu một hào, kẻ ít người nhiều, ai cũng góp tiền mừng. Ngày thường, anh em là những người nghèo khổ, lão Tư Lưu là chủ; hôm nay, theo anh em nghĩ, họ là khách không nên đối đãi với nhau như thế mới phải. Huông chi, ăn xong là phải đi ngay, không cho kéo xe ra nữa. Năm hết tết đến! Tường biết rõ mình không ở trong số những người ăn rồi phải đi, nhưng anh ta muốn cùng ngồi ăn với anh em. Một là, ăn xong tiện đi làm việc, hai là để cho thân mật. Nhưng cùng ngồi với anh em, thì anh em có bao nhiêu bực dọc với lão Tư Lưu lại đem trút cả lên đầu anh ta. Vừa ngồi yên chỗ, đã có người lên tiếng:

- Ái chà, ông là khách quý cơ mà, sao lại ngồi cùng với cánh chúng tôi đây?

Tường cười xoà, không thấy ý nghĩa sâu xa của câu nói. Mấy ngày nay, anh ta không hề nói những lời dông dài, không cần thiết, vì thế óc anh ta hầu như cũng chẳng chú ý đến chuyện gì cả.

Anh em phu xe không dám nổi nóng với lão Tư Lưu, nhưng, lão ta thết, thì ăn được chừng nào cứ ăn. Món ăn không thêm, còn rượu thì không hạn chế, rượu mừng cơ mà! Anh em không ai hẹn ai, đều cùng có ý mượn hơi men để khuây nỗi buồn bực. Người thì cứ uống tì tì, người thì uống thi với nhau. Lão Tư Lưu không tiện ngăn. Tường thấy mọi người uống, cũng không tiện không theo họ, cũng uống hai cốc. Uống mãi, uống mãi, mắt ai nấy đã đỏ lên, không giữ nổi miệng nữa. Có người nói:

- Này anh Tường “lạc đà", công việc đầu sai của anh khá đấy chứ! Đủ ăn một ngày, hầu cụ rồi lại hầu cô! Mai kia chẳng phải kéo xe nữa đâu, tốt hơn cả là cứ bám lấy đây!

Tường nghe, biết họ châm chọc nhưng cũng chẳng để tâm. Từ khi quay về hãng Nhân Hòa đến nay, anh ta đã nhất quyết không cần phải tỏ mặt anh hùng hảo hán gì nữa, mọi việc đều phó thác cho số mệnh. Ai muốn nói thế nào cứ việc nói, anh ta cố nhịn. Lại có người lên tiếng:

- Người ta đi theo đường khác. Anh em ta bán sức kiếm tiền, chứ anh Tường anh ấy chơi cái trò "nội công" cơ!

Mọi người cười ầm lên. Tường thấy rõ là họ "xỏ" minh, nhưng bao nhiêu nỗi uất ức khổ cực còn chịu được, hà tất phải để ý đến mấy lời nói vớ vẩn đó. Anh ta vẫn làm thinh. Bàn bên, có người hùa theo, gân cổ lên nói:

- Này, anh Tường, mai kia lên làm ông chủ hãng, chớ có quên anh em đấy nhé!

Tường vẫn không trả lời. Ngay bàn anh ta lại có người nói:

- Nói đi, “lạc đà”!

Tường đỏ ửng mặt lên, khẽ nói:

- Tôi thì làm gì mà lên chủ hãng được?

- Hừ, sao lại không được, sắp "tùng tùng xòe”[*] đến nơi rồi còn gì!

[*]Chu thich: Đám cưới Trung Quốc thường có cử nhạc, trống, thanh la, não bạt, đánh rầm rĩ. “Tùng tùng xoè” nhại theo điệu trống chiêng, có ý nói đến chuyện “cưới xin” (ND).

Tường không hiểu "tùng tùng xòe" là nghĩa gì, nhưng anh ta cảm thấy họ muốn nói chuyện anh ta và ả Nĩu. Mặt anh ta đang đỏ cứ dần dần trắng bợt ra. Ngay lúc đó, anh ta nghĩ đến tất cả mọi nỗi đau khổ uất ức phải chịu đựng từ trước tới nay, chứa chất đầy cả trong lòng. Nhẫn nhục mấy ngày nay, bây giờ hầu như không thể nhẫn nhục thêm được nữa, giống như nước mưa khi đầy ắp, thấy có lỗ thoát là ào ào tuôn ra. Ngay giữa lúc ấy, một anh phu xe lại chỉ thẳng vào mặt anh ta mà nói:

- Này, Tường này, anh đúng là "chịu đấm ăn xôi", trong bụng đã có chủ ý rồi. Có đúng thế không nào?

Tường đứng phắt dậy, mặt tái xanh, hỏi thẳng người vừa nói:

- Ra kia nói chuyện, có dám không nào?

Mọi người đều ngớ ra. Họ quả thực có ý muốn "xỏ" Tường, trêu chọc nhau tí chơi, chứ không ai muốn đánh nhau cả.

Tất cả bỗng im bặt, như bầy chim rừng thoáng thấy bóng diều hâu. Tường đứng sững ở đó, cao vượt hẳn mọi người. Anh ta thấy mình cô độc, nhưng cơn giận đang bốc lên, anh ta như tin chắc rằng, dù cho tất cả bọn họ có sấn vào, cũng chẳng phải là đối thủ của anh ta. Anh ta lại nhắc lại:

- Thằng nào có gan thì ra đây!

Mọi người bỗng thấy mình đùa quá trớn, hầu như cùng nói một lúc:

- Thôi mà, anh Tường, đùa anh tí thế cho vui thôi!

Lão Tư Lưu trông thấy, nói:

- Ngồi xuống đi, Tường!

Rồi quay về phía mọi người:

- Đừng thấy nó thật thà mà bắt nạt! Làm ồn lên, ta tổng cổ ra đây! Thôi ăn nhanh đi!

Tường bỏ bữa. Mọi người liếc nhìn lão Tư Lưu, rồi xới cơm. Một lát sau, họ lại cười cười nói nói ồn ào, như bầy chim rừng qua cơn nguy hiểm, lại bắt đầu ríu rít.

Tường ngồi xổm ở cổng một hồi lâu chờ bọn họ. Giả dụ trong đám anh em phu xe có ai còn dám trêu chọc anh ta, thì anh ta sẽ đánh liền. Thân mình chẳng có quái gì hết, đến đâu thì đến.

Nhưng anh em, cứ năm ba người một, kéo nhau đi ra, và cũng chẳng thấy ai gây chuyện với anh ta nữa. Tuy không đánh được ai, nhưng anh ta cũng đã hả giận một phần. Sau đó, anh ta nghĩ, thế là hôm nay đã làm mếch lòng bao nhiêu người. Ngày thường, mình vốn đã không có bạn thân, vì thế nên có những chuyện buồn bực đau khổ, không biết kể với ai, sao bây giờ lại làm mất lòng người ta như thế nữa? Anh ta hơi hối hận. Lúc nãy ăn được một tí, bây giờ nó cứ nằm ngang trong dạ dày, thấy hơi tức tức. Anh ta đứng dậy, mặc mẹ nó, người ta ba ngày hai trận đánh nhau, đói meo, ấy thế mà vẫn chẳng vui vẻ đó sao? Thật thà, vào khuôn phép, liệu có nhất định sẽ được sung sướng không? Nghĩ thế, anh ta tự vạch cho mình một con đường, khác hẳn với lòng hy vọng mong ước của anh ta bấy lâu nay. Tức là gặp ai cũng đàn đúm, đến đâu lợi dụng đấy, hút ghẹ thuốc, vay tiền chẳng trả, thấy ô-tô không thèm tránh, bạ chỗ nào cũng đái, suốt ngày sừng sộ với bọn cảnh sát, có bị tóm cổ bỏ bót hai ngày cũng chẳng coi vào đâu. Đúng thế, những anh em phu xe như vậy cũng vẫn cứ sống, vẫn vui vẻ, ít nhất cũng vui vẻ hơn thằng Tường này! Thôi được, thật thà, khuôn phép, có chí, đã không ăn thua gì, thì làm thằng lưu manh như thế lại hóa hay cơ đây! Tường nghĩ tiếp, không những hay, mà lại còn có khí khái anh hùng hảo hán nữa kia. Trời chẳng sợ, đất chẳng sợ, nhất định không chịu cúi đầu ngậm miệng chịu thiệt thòi. Đúng rồi! Phải thế mới được! Những tên khốn nạn trước kia cũng là người tốt cả!

Anh ta lại tiếc lúc nãy không đánh nhau đi! Nhưng không đi đâu mà vội, từ nay về sau, không chịu nhịn thằng nào con nào nữa!

Mắt lão Tư không để sót một việc. Qua những điều mắt thấy tai nghe, lão đã hiểu chín phần mười câu chuyện. Mây ngày nay, con gái lão ngoan ngoãn lắm. Hừ! Vì thấy thằng Tường quay về mà! Trông hai con mắt nó, cứ nhìn theo cái thằng ấy! Để ý đến chuyện này, lão lại càng thấy buồn phiền. Nghĩ mà xem, không có con trai thì không gây dựng được gia đình êm ấm. Con gái, rồi đây nó sẽ theo người ta, thế là cả đời coi như uổng phí tâm cơ. Thằng Tường kể cũng khá đấy, nhưng nhận nó làm rể thì không xứng với con mình. Một thằng phu xe nghèo kiết xác! Mình cả đời lăn lộn khó nhọc, đã từng kéo bè kéo đảng đánh nhau, đã từng vào tù ra tội, ấy thế mà rút cục lại để cho cái thằng quê mùa kia nó cuỗm mất cả con gái lẫn cơ nghiệp à? Đâu có dễ thế! Dù có thế cũng đừng hòng lấy được tiền của thằng Tư Lưu này! Thằng Tư Lưu này từ nhỏ đến giờ chẳng kiêng nể thằng nào con nào cả!

Ba bốn giờ chiều vẫn có người đến mừng, lão đã ngán lắm rồi. Khách càng tâng bốc lão giỏi lão tài, thì lão càng thấy nhạt nhẽo vô vị.

Sau lúc lên đèn, khách lục tục ra về, chỉ còn lại mươi mười lăm người ở quanh đấy, hoặc là bạn thân thiết, họp nhau đánh mạt chược. Nhìn cái rạp trống không giữa sân, ánh đèn đất chiếu trắng xanh, bàn ghế thì bóc bỏ đệm lót, lão Tư Lưu buồn thỉu, dường như lão nhìn thấy, sau khi lão chết đi, có lẽ rồi cũng đến thế này, chẳng qua rạp mừng thọ đổi thành rạp đám ma mà thôi, trước quan tài không có con cháu mặc sô gai quỳ lạy, chỉ có những người dưng nước lã đến ngồi đánh mạt chược canh đêm. Lão chỉ muốn tống mấy người khách kia về; còn sống ở đây thì ra oai cho chúng biết tay! Nhưng rút cục, chẳng thể trút giận lên đầu bạn bè được. Nỗi bực dọc của lão lại thoát ra phía khác, càng nhìn con gái, lão càng thấy nghịch mắt quá. Tường thì ngồi trong rạp, người với ngợm! Cái sẹo bên má dưới ánh đèn trông y như một viên đá cuội. Càng nhìn hai người, lão càng thấy khó chịu.

A Nĩu xưa nay vân quen thói thô kệch, sỗ sàng, nhưng hôm nay, từ đầu đến chân, trông ả chải chuốt đáo để. Ả lại làm duyên làm dáng tiếp đãi khách khứa, một là để lấy tiếng khen, hai nữa cũng là cốt để cho Tường biết tay. Buổi sáng, ả thấy cái trò đó cũng hay hay, đến quá trưa, hơi mệt, ả đã thấy chán, ả cũng muốn tóm được ai chửi một hồi cho hả. Đến tối, ả không thể chịu đựng được nữa, lông mày lúc nào cũng cứ dựng ngược lên.

Bảy giờ hơn, lão Tư đã hơi buồn ngủ, nhưng vẫn không nhận mình là già yếu, không chịu vào đi ngủ sớm. Mọi người mời lão đánh vài ván mạt chược, lão không nói là mệt mỏi, mà lại nói đánh mạt chược không thú, phải "xóc đĩa" hay "tài sửu" mới hợp khẩu vị lão. Không ai muốn thay đổi giữa chừng, lão đành ngồi chầu rìa vậy. Để cho tỉnh táo, lão lại uống mấy chén rượu nữa nói là ăn chưa no, và trách đầu bếp, tiền thì lấy nhiều mà thức ăn không đủ. Từ chuyện này bắt sang chuyện kia, lão chê tất cả những cái mà ban ngày lão thấy bằng lòng: rạp, bàn ghế, bát đĩa, đầu bếp. Tất cả, không cái nào đáng tiền, người ta đã bóp nặn lão, thật là oan uổng!

Ồng Phùng coi việc sổ sách lúc đó đã tính toán xong xuôi: hăm nhăm bức trướng, ba cỗ đào và miến, và khoảng hai chục đồng tiền mặt. Số người mừng thì không ít, nhưng phần nhiều chỉ năm xu, một hào.

Nghe nói thế, lão Tư Lưu lại càng cáu tợn. Biết thế thì chỉ dọn món "miến xào rau" thôi! Mâm cao đĩa đầy chén sạch, mà chỉ bỏ ra được hào chỉ! Như thế là chúng nó cho thằng già này ngốc nghếch, d?