TRĂNG NON 1
Đúng thế tôi lại trông thấy trăng non, một lưỡi câu vàng nhàn nhạt phủ chút hơi lạnh. Bao nhiêu lần rồi, tôi nhìn thấy trăng non giống như vầng trăng non lúc này, đã bao lần rồi. Mỗi lần mang một tình cảm, một cảnh vật khác nhau, khi tôi ngồi im lìm ngắm nó, bao giờ nó cũng treo chênh chếch trên đám mây xanh ký ức của tôi. Nó thức tỉnh ký ức trong tôi như một cơn gió đêm thổi tung đóa hoa ngái ngủ của tôi.
2Lần thứ hai ấy, vầng trăng non mang hơi lạnh, quả thực là mang hơi lạnh. Vầng trăng non đầu tiên trong đám mây của tôi thật là chua xót và đau đớn, quầng sáng vàng nhạt yếu ớt ấy chiếu lên nước mắt của tôi. Khi ấy tôi chưa đến bảy tuổi chứ bao, một cô bé mặc chiếc áo bông ngăn ngắn màu đỏ, đội chiếc mũ bé xíu mẹ may cho, bằng vải xanh, bên trên in bông hoa nho nhỏ, tôi vẫn còn nhớ rõ. Tôi tựa vào bậu cửa gian phòng chật hẹp ấy ngắm trăng non. Trong phòng là mùi thuốc uống, thuốc lá, nước mắt của mẹ, bệnh tật của cha; tôi lủi thủi một mình ngắm trăng non trên bậc thềm. Chẳng ai hỏi han tôi, chẳng ai lo cơm tối cho tôi. Tôi hiểu được không khí buồn thảm trong phòng, vì mọi người nói về bệnh của cha. Nhưng tôi, tôi thấm thía nỗi tủi thân của mình hơn, tôi lạnh, đói, chẳng ai ngó ngàng gì đến tôi. Tôi đứng mãi, đứng mãi cho đến khi trăng non lặn mất. Chẳng còn cái gì nữa rồi, tôi không thể khóc. Nhưng tiếng khóc của tôi bị mẹ át đi, cha, im lìm, mặt phủ lên một tấm vải trắng. Tôi muốn giật mảnh vải trắng ra nhìn cha một lần nữa, nhưng tôi không dám. Gian phòng chỉ là mỗi một khoảng bé tí tẹo đã bị cha chiếm mất. Mẹ mặc áo trắng vào, bên ngoài chiếc áo bông đỏ của tôi cũng trùm thêm một cái áo dài trắng không có đường may ở hai bên, tôi nhớ mà, vì tôi cứ rứt rứt mãi cái sợi vải trắng trên vạt. Mọi người đều bận rộn, tiếng kêu gào rầm rĩ, khóc lóc thảm thiết, nhưng việc thì không nhiều cho lắm, mà dường như cũng chẳng đáng phải lao xao. Cha được đặt vào một chiếc quan tài bốn mảnh ván mỏng ghép lại, chỗ nào cũng có kẽ hở. Sau đó bốn năm người nhấc ông lên và đưa đi. Mẹ và tôi theo sau mà khóc. Tôi còn nhớ cha, nhớ chiếc hòm gỗ của ông. Chiếc hòm gỗ đó đã kết thúc mọi thứ về cha: Mỗi lần nghĩ đến cha, tôi liền nhớ đến chiếc hòm gỗ không thể mở ra, không nhìn được ông kia. Rồi, chiếc hòm gỗ được chôn thật sâu thật sâu vào lòng đât, tôi biết rõ cái nơi đã chôn nó ở ngoài thành ấy, nhưng lại giống như một giọt mưa rơi xuống đất, hình như chẳng bao giờ tìm thấy được.
3Mẹ và tôi vẫn mặc áo trắng, tôi lại nhìn thấy trăng non.
Đó là một hôm trời lạnh, mẹ dắt tôi ra ngoài thành, đến mộ cha. Mẹ cầm một xấp giấy mỏng lèo tèo. Hôm đó, mẹ chiều tôi lắm, tôi đi không nổi, mẹ liền cõng tôi một đoạn, đến cổng thành còn mua cho tôi ít hạt dẻ rang. Mọi thứ đều lạnh, chỉ có nhúm hạt dẻ rang ấy là nóng thôi, tôi không nỡ ăn, lấy chúng để ủ tay cho ấm. Đi được bao xa rồi, tôi chẳng nhớ rõ nữa, chỉ biết là rất xa rất xa. Hôm đưa tang cha, hầu như tôi chẳng cảm thấy xa đến như thế này, hoặc là vì hôm đó có đông người; lần này chỉ có hai mẹ con tôi, mẹ lẳng lặng không hé lời, tôi cũng lười mở miệng, tất cả đều im lìm, con đường đất vàng ấy tĩnh mịch đến lạnh người. Ngày thì ngắn, tôi vẫn nhớ ngôi mộ: Một nắm đất toen hoẻn, xa xa là mấy ngọn đồi đất vàng, mặt trời chiếu xiên xiên trên ngọn đồi ấy. Mẹ dường như không để ý đến tôi nữa, bà đặt tôi sang một bên, ôm nấm mộ khóc nấc lên.
Tôi ngồi cạnh mộ, nghịch mấy hạt dẻ trong tay. Mẹ khóc một chặp, đốt hết chỗ giấy đó, đám tro cuộn mấy vòng lơ lửng trước mặt tôi, rồi uể oài rơi xuống đất; gió nhẹ tênh, nhưng lạnh thấu xương. Mẹ lại bật khóc. Tôi cũng nhớ cha lắm, nhưng tôi không định khóc vì ông, tôi trào nước mắt vì mẹ khóc dữ quá. Tôi chạy tới lôi tay mẹ: "Mẹ, đừng khóc! Đừng khóc!". Mẹ khóc càng xót xa hơn. Mẹ ôm tôi vào lòng. Mặt trời sắp lặn xuống, xung quanh không một bóng người, chỉ có hai mẹ con tôi. Hình như mẹ cũng thấy hơi sợ, rưng rưng nước mắt, kéo tôi đi, đi một đoạn xa, mẹ quay đầu nhìn, tôi cũng ngoảnh người lại: Đã không còn phân biệt được đâu là mộ cha nữa; phía đồi đất toàn chỉ mộ là mộ, từng nắm từng nắm đất nhỏ, rải tít đến tận chân đồi. Mẹ thở dài. Chúng tôi bước thấp bước cao, vẫn chưa đến cổng thành, tôi nhìn thấy trăng non. Bốn bề đen đặc, lặng ngắt, chỉ có vầng trăng non tỏa ra một tia sáng lành lạnh. Tôi mệt rồi, mẹ bế tôi lên. Làm sao vào được thành, tôi không biết nữa, chỉ nhớ rằng trên bầu trời chập chờn chập chờn có một vầng trăng non.
4Mới tám tuổi, tôi đã học thuộc cách đi cầm đồ. Tôi biết, nếu không đem được tiền về, hai mẹ con chúng tôi khỏi ăn cơm tối luôn; vì mẹ đã có một quyết định nào đó, cũng chẳng muốn bảo tôi đi. Tôi biết chắc mỗi bận mẹ đưa cho tôi một cái túi nhỏ, hẳn trong nồi đến một giọt cháo cũng sạch không. Cái nồi của chúng tôi nhiều lúc sạch sẽ như một bà quả phụ đầy tự trọng. Hôm ấy, tôi cầm một chiếc gương đi. Chỉ có món đồ này như thể không cần thiết lắm, tuy mẹ phải dùng đến hàng ngày. Đó là một ngày mùa xuân, áo bông của chúng tôi vừa rời người đã chui tọt vào hiệu cầm đổ. Tôi cầm chiếc gương, biết phải cẩn thận ra sao, cẩn thận mà vẫn phải đi cho nhanh, hiệu cầm đồ thường đóng cửa sớm lắm. Tôi sợ cái cửa đỏ to tướng, cái quầy cao ngất ở hiệu cầm đổ. Hễ nhìn thấy cánh cửa đó, tim tôi lại thót lên, nhưng tôi phải vào, gần như trèo vào, và phải hét: "Cầm cầm!", được tiền và phiếu cầm đổ, tôi biết phải cầm cẩn thận như thế nào, tôi mau mau về nhà, vì biết mẹ không yên tâm. Nhưng lần này, hiệu cầm đố không cần chiếc gương và bảo tôi thêm một món nữa. Tôi hiểu cái gì gọi là "một món". Ôm chặt cái gương trước ngực, tôi chạy thục mạng về nhà. Mẹ khóc, mẹ tìm không ra món đồ thứ hai. Tôi đã sống quen trong gian phòng nhỏ ấy, cứ ngỡ đồ đạc cũng nhiều nhiều, đến khi giúp mẹ tìm món nào có thể đem cầm, trái tim non nớt của tôi mới hiểu rằng, đồ đạc nhà chúng tôi rất ít, cực ít. Mẹ không bảo tôi đi nữa. Nhưng "Mẹ, chúng ta ăn gì đây?", mẹ khóc đưa tôi chiếc trâm bạc gài trên tóc mẹ - có mỗi vật này là bằng bạc. Tôi biết, mẹ từng rút xuống mấy lần, song không nỡ đưa cho tôi đi cầm. Đây là trang sức khi mẹ lấy chồng, bà ngoại cho mẹ làm hổi môn. Giờ mẹ đưa cho tôi vật bằng bạc cuối cùng này, bảo tôi để chiếc gương lại. Tôi ráng hết sức lao đến hiệu cầm đổ, nhưng cánh cửa to tướng ấy đã đóng chặt rồi. Tôi ngồi trên bậc cửa, nắm chặt chiếc trâm bạc. Không dám khóc to, tôi nhìn lên trời, a, lại là ánh trăng non chiếu vào nước mắt tôi! Khóc hổi lâu, mẹ xuất hiện từ trong bóng đêm, bà kéo tay tôi, ồ, bàn tay nóng hôi hổi, tôi quên hết thảy mọi nỗi khổ sở, quên cả đói, chỉ cần có bàn tay ấm áp này của mẹ dắt tôi đi là được rồi. Tôi ríu rít nói:
- Mẹ! Chúng ta về nhà ngủ đi. Sáng mai lại đến!
Mẹ không nói gì. Lại đi một lúc nữa.
- Mẹ! Mẹ nhìn trăng non kìa, hôm bố chết, nó cũng nghiêng nghiêng thế này. Tại sao chị trăng kia cứ nghiêng mãi thế hả mẹ?
Mẹ vẫn im lặng, tay mẹ hơi run.
5Cả ngày mẹ giặt quần áo cho người ta. Tôi chỉ muốn giúp mẹ, nhưng không xen vào được. Tôi đành đợi mẹ, mẹ chưa xong việc, tôi chưa ngủ. Có lúc trăng non đã mọc rồi, mẹ vẫn xoàn xoạt xoàn xoạt đống tất thối rình ấy, cứng hệt như da bò, đều do mấy người giúp việc ở các cửa hàng đưa tới. Mẹ giặt xong đám "đa bò" ấy thì nuốt không nổi cơm nữa. Tôi ngồi bên mẹ, ngắm trăng non, đám dơi cứ lượn qua lượn lại hoài dưới vệt sáng đó, giống như sợi dây bạc xâu một củ ấu to, rồi rơi tõm vào vùng tối mịt mùng. Tôi càng thương mẹ thì càng yêu vầng trăng non, vì ngắm nó khiến lòng tôi nhẹ nhõm chút ít. Trăng non mùa hạ càng đáng yêu hơn, nó luôn có một chút hơi man mác, như một dải băng tuyết vậy. Tôi yêu cái bóng nó in trên mặt đất, một thoáng lại biến mất, mờ mờ ảo ảo không rõ rệt, đến khi cái bóng biến mất, mặt đất tối om, các vì sao lấp lánh, hoa thơm ngào ngạt - gần chỗ ở của chúng tôi có vô số cỏ hoa, cây hòe tây cao vun vút luôn rắc hoa sang nhà chúng tôi, giống như một lớp tuyết.
6Tay mẹ mọc lên một lớp vảy, khiến mẹ phải xoa xoa cho bớt ngứa. Nhưng tôi không dám phiền mẹ, tay mẹ thô đi vì giặt. Mẹ gầy, bị tất thối ám mùi đến nỗi thường xuyên bỏ cơm. Tôi biết mẹ muốn tìm cách khác, tôi biết mà. Mẹ thường gạt đống quần áo sang một bên, thừ ra. Mẹ lẩm bẩm một mình. Mẹ nghĩ ra cách gì vậy nhỉ? Tôi đoán mãi không ra.
7Mẹ dặn dò tôi không được bướng bỉnh, phải ngoan ngoãn gọi "bố": Mẹ lại tìm được cho tôi một "bố" nữa. Đó là một bố khác hẳn. Tôi biết, vì một bố đã bị chôn chặt trong mộ rồi. Khi mẹ dặn tôi đôi mắt nhìn ra chỗ khác. Mẹ ngân ngấn nước mắt, nói:
- Không thể để con chết đói!
À, hóa ra là để tôi khỏi chết đói, mẹ mới tìm bố cho tôi! Tôi không hiểu được bao nhiêu chuyện, tôi hơi sợ, song cũng có chút hy vọng - nếu đúng là sẽ không phải nhịn đói nữa. Thật trùng hợp biết bao, khi chúng tôi rời căn phòng nhỏ ấy, trên trời lại lơ lửng treo vầng trăng non. Trăng non lần này rõ hơn hẳn, đáng sợ hơn hẳn những lần trước đó; tôi sắp phải xa ngôi nhà nhỏ quen thuộc rồi. Kiệu kẽo kẹt phía đằng trước, tôi và một người đàn ông đi theo sau, ông ta kéo tay tôi. Vầng trăng non đáng sợ ấy tỏa ra một chút ánh sáng, dường như đang run rẩy trong gió lạnh. Trên phố chẳng có ai, chỉ có đám chó hoang đuổi theo cắn nhóm gõ chiêng trống, kiệu đi rất nhanh. Đi đâu vậy nhỉ? Có phải khiêng mẹ ra ngoài thành, đưa đến khu nghĩa địa ấy không? Người đàn ông đó lôi tôi đi, tôi hổn hển thở, muốn khóc mà không khóc nổi. Lòng bàn tay người đàn ông đó vã đầy mồ hôi, lạnh như một con cá vậy, tôi muốn gọi "mẹ", nhưng không dám. Một lát sau, trăng non giống như một đường chỉ mắt lớn sắp nhắm chặt lại, kiệu rẽ vào ngõ nhỏ.
8Ba bốn năm liền hầu như tôi không trông thấy trăng non. Bố mới đối xử với chúng tôi rất tốt, ông có hai gian phòng, ông và mẹ ở gian trong, tôi ngủ trên ván lát gian bên ngoài. Thoạt đầu, tôi vẫn muốn ngủ với mẹ, nhưng qua vài hôm, tôi đã thấy yêu căn phòng nhỏ "của tôi" rồi. Phòng có bức tường trăng trắng, còn kê một chiếc bàn dài, một chiếc ghế. Những thứ này như thể là của tôi hết. Chăn của tôi dày và ấm hơn trước. Mẹ cũng dần dần béo lên, mặt đã có sắc hồng, từng lớp vảy trên tay dẩn dần bong sạch. Lâu lắm rồi, tôi không đi "cẩm đồ" nữa. Bố mới cho tôi đi học. Có lúc, ông còn đùa với tôi một lát. Tôi không hiểu vì sao không thích gọi ông ấy là "bố", tuy tôi biết ông rất đáng yêu. Hình như ông cũng biết điều này, ông thường mỉm cười với tôi, khi cười đôi mắt ông thật đẹp. Nhưng mẹ lén bảo tôi gọi bố, tôi cũng không muốn quá bướng bỉnh. Trong lòng tôi biết rõ, giờ đây mẹ tôi và tôi có cái ăn cái uống là nhờ có người bố này, tôi hiểu chứ. Đúng vậy, trong ba bốn năm ấy, tôi không nhớ ra mình đã từng thấy trăng non khi nào; có lẽ cũng đã thấy rồi nhưng không nhớ lắm. Vầng trăng non khi bố chết, trăng non trước kiệu của mẹ, tôi mãi mãi không bao giờ quên được. Chút ánh sáng nhờn nhợt, chút hơi lành lạnh ấy, đọng mãi trong tim tôi, sáng rõ hơn, lạnh lẽo hơn mọi thứ, giống như viên ngọc, nhiều khi nghĩ đến, tưởng như có thể dùng tay sờ thấy được.
9Tôi thích đi học lắm. Tôi luôn có cảm tưởng trường có cơ man nào là hoa, kỳ thực chẳng bao giờ có; có điều hễ nghĩ đến trường là tôi nghĩ ngay đến hoa, giống như nghĩ về mộ cha, tôi liền nhớ ngay đến vầng trăng non ngoài thành - nghiêng nghiêng trong làn gió nhẹ trên cánh đồng. Mẹ rất yêu hoa, tuy không mua nổi, nhưng có ai tặng mẹ chỉ một bông thôi, mẹ liền thích thú cài hoa lên tóc. Có cơ hội là tôi ngắt vài bông cho mẹ; gài đóa hoa tươi lên, nom dáng mẹ vẫn trẻ trung lắm. Ở trường, tôi cũng rất thích. Có lẽ vì điều này mà hễ nghĩ đến trường học, tôi liền liên tưởng đến hoa chăng?
10Năm sắp tốt nghiệp tiểu học, mẹ lại bảo tôi "cầm đồ".
Tôi không biết tại sao bố lại đột ngột bỏ đi. Ông đi đâu, dường như mẹ cũng không hiểu nổi. Mẹ vẫn cho tôi đi học, mẹ nghĩ ít hôm nữa bố sẽ trở về. Nhiều ngày qua đi, ông chưa quay về, đến một bức thư cũng không. Tôi nghĩ mẹ lại phải đi giặt tất thối rồi, điều này khiến tôi ray rứt vô cùng. Nhưng mẹ không dự tính như vậy. Mẹ vẫn trang điểm, vẫn thích cài hoa; lạ thật! Mẹ không rớt nước mắt, ngược lại còn nhoẻn cười; vì sao thế nhỉ? Tôi không hiểu! Mấy lẩn liền, tan học về đến nhà tôi thấy mẹ đang đứng tựa cửa. Rồi chẳng bao lâu sau, tôi đi trên đường, có người "ê" tôi:
- Ê! Nhắn tin cho mẹ em đi!
- Ê! Em có bán không? Chanh cốm ghê!
Mặt tôi nóng bừng như bốc lửa, cúi gằm đầu đến mức không thể cúi thấp hơn được nữa. Tôi hiểu, nhưng bất lực. Tôi không thể hỏi mẹ, không thể. Mẹ rất tốt với tôi, có lúc, bà trịnh trọng bảo tôi rằng: "Học đi! Học đi!". Mẹ là người không biết chữ, tại sao thúc tôi học hành như vậy? Tôi nghi ngờ rồi thường tự hoài nghi mà nghĩ rằng mẹ tôi vì tôi nên mới làm chuyện đó. Mẹ không còn cách nào hon. Khi nghi ngờ, tôi hận không thể mắng mẹ một trận. Nghĩ lại, tôi muốn ôm chặt mẹ, khẩn khoản nài xin mẹ đừng làm chuyện đó nữa. Tôi hận bản thân không thể giúp đỡ được mẹ. Cho nên tôi cũng nghĩ rằng. Sau khi tốt nghiệp tiểu học rồi, tôi có ích gì chứ? Tôi dò hỏi từ các bạn học, có đứa bảo tôi, trong số tốt nghiệp năm ngoái có liền mấy đứa làm vợ bé rồi. Có đứa bảo tôi, ai đó đã làm "người hầu kín" rồi. Tôi không hiểu mấy chuyện này cho lắm, nhưng từ cách nói của chúng, tôi đoán được đó chẳng phải việc tốt đẹp gì. Hình như bọn chúng chuyện gì cũng biết cả, thậm chí còn thích lén lút bàn tán ba cái chuyện chúng biết rõ là không đứng đắn - Những chuyện này khiến mặt bọn chúng ửng hổng, mà lại lộ vẻ đắc ý. Tôi càng nghi ngờ mẹ, có phải đợi tôi tốt nghiệp để đi làm... Cứ nghĩ như vậy, có hôm tôi không dám về nhà, tôi sợ gặp mẹ. Có bữa, mẹ cho tôi ít tiền ăn quà sáng, tôi không chịu tiêu, ôm bụng đói học thể dục, tôi thường muốn ngất đi. Nhìn người khác ăn quà, ngon lành biết bao! Nhưng tôi phải tiết kiệm tiền, lỡ mẹ bắt tôi đi... tôi có thể chạy trốn, nếu trong tay tôi có tiền. Khi rủng rỉnh nhất tôi có đến hơn một hào cơ đấy! Những lúc ấy dù đang giữa ban ngày, tôi cũng ngước lên nhìn bầu trời, tìm kiếm vầng trăng non của tôi. Nỗi khổ sở trong lòng tôi, nếu có thể dùng một hình thù để so sánh, thì hẳn đó là hình một vầng trăng non. Nó treo lơ lửng trên bầu trời xám xanh, không điểm tựa không nơi dựa dẫm, ánh sáng mỏng manh mờ yếu, chẳng bao lâu liền bị bóng tối nuốt chửng.
11Điều khiến tôi đau khổ nhất là dần dần tôi học cách hận mẹ. Nhưng mỗi lúc hận bà, bất giác tôi nhớ đến cảnh tượng mẹ cõng tôi ra mộ bố. Nghĩ đến điều này, tôi không thể ghét mẹ nữa. Nhưng tôi không tài nào không ghét mẹ. Trái tim tôi giống - vẫn giống vầng trăng non kia, chỉ sáng được một khoảnh khắc, còn bóng tối là vô hạn. Phòng của mẹ thường có đàn ông lui tới, mẹ không né tránh tôi nữa. Mắt bọn họ lom lom dòm tôi như một con chó háu đói, lưỡi thè lè, dãi thèm rỏ xuống. Trong mắt họ, tôi là thứ chống đói ngon lành hơn, tôi nhận thấy rõ điều đó. Trong một thời gian ngắn, bỗng nhiên tôi hiểu rất nhiều chuyện. Tôi biết, phải bảo vệ bản thân, tôi cảm nhận trên người tôi hình như có chỗ nào đó đáng quý, tôi ngửi thấy mình đã có mùi hương gì đó, khiến tôi xấu hổ, đa cảm. Trên người tôi đã có sức mạnh, có thể bảo vệ mà cũng có thể hủy hoại bản thân tôi. Có lúc tôi rất cứng rắn, kiên cường, có lúc tôi lại yếu mềm. Tôi không biết như thế nào thì tốt. Tôi muốn yêu mẹ, lúc này tôi có vô vàn chuyện cần hỏi mẹ, cần mẹ an ủi, vỗ về; nhưng chính lúc đó, tôi phải trốn mẹ, tôi phải ghét mẹ; nếu không bản thân tôi không còn tồn tại nữa. Những khi không ngủ được, tôi suy nghĩ một cách bình tĩnh, mẹ đáng được tha thứ lắm. Mẹ phải lo cho cả hai chúng tôi. Nhưng điều này lại khiến tôi phải cự tuyệt tiếp tục ăn thứ cơm của mẹ cho tôi. Trái tim tôi cứ thoắt nóng thoắt lạnh như vậy, giống như cơn gió mùa đông, nghỉ một lát, rồi thổi tiếp, dữ dội hơn; tôi chờ đợi cơn giận của tôi bùng lên, không sao ngăn lại được.
12Sự tình không cho phép tôi nghĩ ra cách đã biến đổi theo chiều hướng xấu đi. Mẹ hỏi tôi: "Thế nào?", giả thử tôi thật lòng yêu bà thì, mẹ nói, tôi nên giúp bà. Còn không, bà không thể tiếp tục lo cho tôi nữa. Điều đó không giống với những lời mẹ tôi có thể nói ra, nhưng đích thực mẹ đã nói thế. Mẹ nói rất rõ ràng: "Mẹ đã sắp già rồi, thêm hai năm nữa, e cho không, người ta cũng chẳng thèm!". Điểu này là sự thực, gần đây dù mẹ thoa phấn rõ dày, trên mặt vẫn lộ ra những nếp nhăn. Mẹ muốn đi thêm bước nữa, hầu hạ riêng một người đàn ông. Bà không còn đủ tinh thần để phục dịch nhiều người đàn ông nữa. Nếu nghĩ cho bản thân bà, lúc này có thể có người muốn lấy bà - là một trưởng quầy cửa hàng bánh bao muốn bà - bà nên theo ngay. Nhưng tôi đã thành một thiếu nữ rồi, đâu dễ dàng lẽo đẽo theo sau kiệu của mẹ như hồi nhỏ nữa. Tôi phải quyết định con đường đi của tôi. Ví thử tôi đồng ý "giúp đỡ" mẹ thì mẹ không cần phải đi bước ấy, mà do tôi thay mẹ kiếm tiền. Kiếm tiền cho mẹ, tôi muốn lắm; nhưng cách kiếm tiền đó khiến tôi run sợ. Tôi biết cái gì đâu cơ chứ, bảo tôi đi kiếm tiền như một thiếu phụ - sắp già ư? Mẹ ác thật đấy, nhưng tiền còn độc hơn. Mẹ không ép tôi phải đi con đường nào, mẹ cho tôi tự chọn - giúp mẹ, hoặc hai mẹ con tôi ai theo đường người nấy. Mắt mẹ ráo hoảnh, nước mắt đã cạn từ lâu rồi, tôi tính sao bây giờ?
13Tôi kế với bà hiệu trưởng. Hiệu trưởng là một phụ nữ hơn bốn mươi tuổi, mập mập, không thật sắc sảo, song nhiệt thành. Tôi thực sự hết cách, bằng không tôi làm sao mở miệng kế lại mẹ đã... Tôi chưa bao giờ gần gũi với bà hiệu trưởng. Khi tôi nói với bà, từng chữ từng chữ như những viên than hồng rực hừng hừng trong họng tôi, tôi như hóa câm, nửa ngày mới nặn ra được một chữ. Bà hiệu trưởng đồng ý giúp tôi. Bà không thể cho tôi tiền, chỉ có thể cho tôi hai bữa cơm và chỗ ở - chính là ở chung với người hầu nữ già trong trường. Bà bảo tôi giúp đỡ văn thư viết lách giấy tờ, nhưng không cần lập tức thực hiện ngay, vì chữ tôi còn phải luyện tập nhiều nữa. Hai bữa com, một chỗ ở đã giải quyết vấn đề to ngang trời. Tôi có thể không làm liên lụy mẹ nữa. Hồi này mẹ không ngồi kiệu, mà chỉ ngồi xe Tây, lặng lẽ đi trong đêm. Chăn chiếu của tôi, mẹ cho tôi hết. Lúc gần đi, mẹ cố không khóc, nhưng cuốỉ cùng nước mắt tự sâu thẳm trái tim vẫn trào ra. Mẹ biết tôi không thể đi tìm mẹ nữa, đứa con gái rứt ruột đẻ ra của mẹ. Còn tôi, ngay cả khóc như thế nào tôi cũng quên mất rồi, tôi chỉ há miệng thút thít, nước mắt vòng quanh. Tôi là con gái, là bạn, là nỗi an ủi của bà. Nhưng tôi không giúp được bà, trừ phi tôi phải làm những chuyện mà tôi quyết không chịu ấy. Chuyện qua rồi, tôi nghĩ lại, hai mẹ con tôi giống như hai con chó không có người chăm, vì cái miệng của chúng tôi, chúng tôi phải chịu mọi nỗi nhọc nhằn, cứ như trên người chúng tôi chẳng có gì khác, ngoài mỗi cái miệng. Vì cái miệng này, chúng tôi phải bán đi hết thảy những thứ còn lại. Tôi không hận mẹ nữa, tôi đã hiểu rồi. Không phải lỗi ở mẹ, cũng không phải tại cái miệng đáng ra không nên mọc ấy, mà là tội của com gạo, dựa vào cái gì để tuyệt cái ăn của chúng tôi chứ? Lần ly biệt này, vượt qua tất cả mọi nỗi khổ cực ngày trước. Cái vầng trăng non hiểu rõ nhất nước mắt tôi chảy như thế nào kia lần này không xuất hiện, chỉ có bóng tối, đến cả chút ánh sáng đom đóm cũng không có nốt. Trong đêm đen, mẹ rời đi, như một hồn ma, không có lấy cả cái bóng. Dù mẹ có chết ngay lúc đó, sợ rằng sẽ không chôn cùng một chỗ với cha, ngay ngôi mộ sau này của mẹ ở nơi nào tôi cũng chẳng biết nữa. Tôi chỉ có một người mẹ, một người bạn như thế. Thế giới của tôi chỉ còn lại một mình tôi thôi.
14Mẹ mãi mãi không còn được gặp nữa, đã ray rứt chết trong tim tôi, giống như bông hoa xuân bị sương giá dập vùi. Tôi miệt mài luyện chữ, để giúp bà hiệu trưởng sao sao chép chép mấy thứ không thật cần gấp. Tôi phải có ích, tôi ăn cơm của người ta. Tôi không giống đám bạn học nữ kia. Bọn họ một ngày từ sáng đến tôi nhăm nhăm nhòm ngó xem người khác ăn gì, mặc gì, nói gì, tôi chỉ chú ý đến bản thân tôi, cái bóng chính là bạn của tôi. "Tôi" luôn ờ trong tim tôi, vì chẳng có ai yêu tôi. Tôi yêu bản thân tôi, thương tôi, động viên tôi, trách móc tôi; tôi biết bản thân tôi, dường như tôi là một người khác. Từng sự thay đổi nhỏ trên người, đều khiến tôi sợ hãi, khiến tôi ngơ ngác mơ hồ.
Tay tôi nắm chắc chính tôi, như nâng một đóa hoa mềm mại yếu ớt. Tôi chỉ có thể quan tâm đến hiện tại, không có tương lai, cũng chẳng dám nghĩ ngợi sâu xa. Nhai cơm của người ta, tôi biết đó là trưa hoặc tối rồi, nếu không, quả thật tôi chẳng nhớ ra thời gian; không có hy vọng thì không có thời gian. Tôi cơ hồ bị đóng chặt vào một nơi không có ngày tháng. Nghĩ đến mẹ, tôi hiểu tôi đã sống mười mấy năm rồi. Với tương lai, tôi không trông đợi kỳ nghỉ, ngày tết ngày lễ như các bạn học; kỳ nghỉ, lễ, tết có quan hệ gì với tôi đâu? Nhưng cơ thể tôi ngày một lớn lên, tôi cảm nhận được điều đó. Cảm nhận mình lại lớn lên một chút, tôi càng hoang mang, tôi không yên tâm về mình. Tôi càng lớn càng cảm thấy mình xinh, điều này là một nỗi an ủi nhỏ nhoi; cái đẹp giúp tôi nâng cao thân phận của mình. Nhưng tôi vốn chẳng có thân phận, an ủi là cái nỗi ngọt trước đắng sau, đắng đến cùng cực lại khiến tôi kiêu hãnh. Nghèo, nhưng xinh! Điều này khiến tôi sợ: Mẹ tôi cũng đâu có xấu xí gì.
15Tôi lại mãi không nhìn thấy trăng non, không dám đi ngắm, dù muốn ngắm. Tôi đã tốt nghiệp rồi, vẫn ở trong trường. Buổi tối, ở trường chỉ có hai người hầu già, một nam một nữ. Họ không biết phải đối xử như thế nào với tôi cho phải chăng, tôi vừa không phải là học sinh, cũng không làm thầy giáo, càng không phải người hẩu. Buổi tối, một mình tôi thẫn thờ giữa sân trường, thường bị trăng non đuổi trốn biến vào trong phòng, tôi không có can đàm để ngắm nó. Nhưng ở trong phòng, tôi sẽ tưởng tượng xem nó như thế nào, đặc biệt là khi gió hiu hiu thổi. Làn gió mơn man dường như thổi chút ánh sáng nhờ nhờ ấy vào tâm hồn tôi, khiến tôi nhớ lại ngày tháng trước kia, càng nặng thêm nỗi buồn đau hiện tại. Trái tim tôi như con dơi dưới ánh trăng, tuy bay trong ánh sáng, nhưng bản thân vẫn đen kịt, cái thứ đen thủi đen thui, dù biết bay, cũng rặt một màu đen mà thôi, tôi không có một tia hy vọng. Song tôi không khóc, tôi chỉ thường chau mày.
16Tôi đã có chút thu nhập, đan lát may vá vài thứ lặt vặt cho các học sinh và họ cho tôi ít tiền công. Bà hiệu trưởng cho phép tôi làm như vậy. Nhưng cũng chẳng được bao nhiêu, vì họ cũng biết may. Có điều bản thân họ vội dùng ngay mà không kịp, hoặc giả làm đôi găng tay, hay đôi tất cho người nhà bấy giờ họ mới chiếu cố đến tôi. Tuy là vậy, tôi dường như đã "sống" được một chút, thậm chí tôi nghĩ rằng: nếu mẹ chưa đi bước nữa, tôi có thể nuôi mẹ cơ đấy. Hễ đếm món tiền ít ỏi của mình, tôi biết ngay đó chỉ là mộng tưởng, nhưng nghĩ như vậy cũng làm tôi dễ chịu hơn một chút. Tôi rất muốn gặp mẹ. Nếu mẹ trông thấy tôi, mẹ hẳn sẽ theo tôi, chúng tôi có thể tìm ra cách sống, tôi nghĩ - nhưng không thật sự tin chắc. Tôi nhớ mẹ, mẹ thường về trong giấc mơ của tôi. Một hôm, tôi theo các học sinh ra ngoài thành tham quan, khi trở về đã hơn bốn giờ chiều. Để nhanh nhanh về nhà, chúng tôi tìm một con đường tắt. Tôi đã nhìn thấy mẹ! Một quán bánh bao trong ngõ nhỏ, trước cửa đặt một cái giỏ Nguyên bảo, trên đó cam cái bánh bao gỗ trắng rõ to. Mẹ ngồi tựa vào tường, người lúc ưỡn lên lúc cong xuống kéo bễ. Từ xa, tôi đã nhìn thấy cái bánh bao to đùng ấy và mẹ, tôi nhận ra dáng bà. Tôi muốn lao đến ôm chặt mẹ. Nhưng tôi không dám, tôi sợ các học sinh cười giễu tôi, họ không cho phép tôi có người mẹ như vậy. Càng đến gần, đầu tôi càng cúi thấp xuống, tôi liếc mẹ một cái qua làn nước mắt, mẹ không trông thấy tôi. Nhóm chúng tôi lướt qua mẹ, hình như mẹ chẳng nom thấy gì hết, chi chuyên tâm kéo bễ. Đi một đoạn xa, tôi ngoảnh đẩu nhìn, mẹ vẫn kéo bễ ở đó. Tôi không nhìn rõ mặt, chỉ thấy mái tóc bù xù trước trán. Tôi ghi nhớ tên cái ngõ nhỏ đó.
17Hệt như có một con sâu nhỏ cắn rứt trong lòng, tôi muốn đi thăm mẹ, không gặp bà, lòng tôi không sao thanh thản được. Đúng lúc này, nhà trường thay hiệu trưởng. Bà hiệu trưởng beo béo bảo tôi phải tính cách thôi, bà ở đây một ngày thì cho tôi cơm ăn và chỗ ở một ngày, nhưng bà không thể bảo đảm người hiệu trưởng mới cũng sẽ xử sự như thế. Tôi đếm đi đếm lại số tiền trong tay, tổng cộng là hai đồng bảy hào lẻ mấy cắc. Chỗ tiền này không để tôi phải chịu đói trong mấy ngày tới, nhưng tôi biết đi đâu bây giờ? Tôi không dám ngồi một chỗ mà rầu rĩ, tôi phải nghĩ cách. Tìm mẹ là ý nghĩ đầu tiên. Nhưng mẹ có thể cho tôi ở lại không? Lỡ mẹ không thể giữ tôi lại, mà tôi đi tìm bà, dù không gây nên chuyện cãi cọ giữa mẹ và người bán bánh bao, thì hẳn mẹ cũng đau lòng lắm. Tôi phải nghĩ cho mẹ chứ, bà vừa là mẹ tôi vừa không phải là mẹ của tôi, giữa hai mẹ con tôi bị ngăn cách bởi bức tường do cái nghèo xây nên. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi không muốn đi tìm bà nữa. Tôi nên gánh vác lấy nỗi cơ cực của bản thân. Nhưng gánh vác thế nào đây? Tôi nghĩ không ra. Tôi cảm thấy thế giới nhỏ quá, không còn chỗ để xếp tôi và cuộn chăn nhỏ của tôi vào nữa. Tôi đâu bằng một con chó, chó hễ có nơi thuận tiện thì có thể nằm xuống đánh một giấc; đường phố không cho tôi nằm. Đúng thế, tôi là người, người có thể không bằng chó. Giả dụ tôi dày mặt không đi, không biết hiệu trưởng mới có lôi xềnh xệch quăng tôi ra đường không? Tôi không thể đợi người ta đẩy ra ngoài. Đó là một ngày xuân, tôi chi trông thấy hoa nở rộ, lá biếc xanh, chứ chẳng cảm nhận được chút hơi ấm nào. Hoa đỏ chỉ là hoa đỏ, lá xanh chỉ là lá xanh, tôi trông thấy vài sắc màu khác nhau, chỉ là mấy sắc màu; những màu sắc ấy chẳng có bất cứ ý nghĩa gì, mùa xuân trong tôi là một thứ lạnh giá chết cứng. Tôi không định khóc, nhưng nước mắt cứ trào ra.
18Tôi ra ngoài tìm việc. Không tìm mẹ, không dựa dẫm vào bất kỳ ai, tôi phải tự mình kiếm cơm ăn. Đi suốt hai ngày trời, ôm hy vọng ra đi, mang bụi và nước mắt trở về. Không có việc cho tôi làm. Giờ tôi mới thực sự hiểu mẹ, thực sự tha thứ cho mẹ. Mẹ còn từng giặt tất thối, đến công việc đó tôi cũng không kiếm nổi. Con đường mẹ đi là duy nhất. Những kỹ năng và đạo đức trường học dạy cho tôi đều là chuyện nực cười, đều là những món đổ chơi khi no nê rỗi việc. Các bạn học không cho phép tôi có người mẹ như vậy, chúng chế giễu "kẻ hầu kín". Đúng thế, chúng được phép nhìn nhận như thế bởi chúng có cơm ăn. Tôi gẩn như đã quyết định rồi: Chỉ cần có người cho tôi cơm ăn, chuyện gì tôi cũng sẵn sàng làm; mẹ thật đáng khâm phục. Tôi chưa đi tìm chết, tuy đã nghĩ đến; không, tôi muốn sống. Tôi trẻ trung, tôi xinh đẹp, tôi muốn sống. Xấu hố vô sỉ không phải do tôi tạo ra.
19Vừa nghĩ thế, dường như tôi đã tìm được việc vậy.
Tôi đã dám đi trong sân trường, một vầng trăng non ngày xuân đang treo trên bầu trời. Tôi nhận ra vẻ đẹp của nó. Bầu trời xanh thẫm, không một gợn mây. Vầng trăng non ấy sáng trong mà dịu dàng, khe khẽ thả một chút ánh sáng mềm mại lên cành liễu. Sân trường thoảng cơn gió, mang theo hương hoa từ phía nam, hắt bóng cây liễu đến góc tường nơi có ánh sáng, rồi lại thổi về nơi không có ánh sáng; ánh sáng yếu, cái bóng nhạt nhòa, gió thổi mơn man, tất cả đều dịu dàng, đều đang ngái ngủ, nhưng vẫn muốn khẽ khàng lay động. Phía dưới trăng non, trên ngọn liễu, có hai ngôi sao lấp lánh như đôi mắt cô tiên nữ đang mỉm cười duyên dáng, trêu đùa vầng trăng non nghiêng nghiêng và nhành liễu khẽ khàng đung đưa kia. Cây gì đó bên tường nở đầy hoa trắng, ánh trăng man mác chiếu viên tuyết ấy thành một nửa sáng trắng, một nửa phớt xám mờ, lộ ra vẻ tinh khiết khó mà tưởng tượng nổi. Vầng trăng non này là khởi đầu của hy vọng, lòng tôi thầm nhủ.
20Tôi lại tìm bà hiệu trưởng béo, bà không ở nhà. Một thanh niên mời tôi vào. Anh rất lịch sự, và nhã nhặn nữa. Bình thường, tôi sợ hết vía bọn đàn ông, nhưng anh thanh niên này không làm tôi sợ hãi. Anh bảo tôi hãy nói gì đó, tôi không thể không nói; anh cười, tim tôi bỗng nhũn ra, tôi kể cho anh nghe ý định đến tìm bà hiệu trưởng, anh rất nhiệt tình, bằng lòng giúp đỡ tôi. Tối hôm đó, anh đưa tôi hai đồng, tôi không chịu nhận, anh nói đó là của thím anh - bà hiệu trưởng béo - cho tôi. Anh còn nói thím anh đã tìm được chỗ ở cho tôi, hôm sau có thể đến dọn đi liền. Tôi muốn hoài nghi nhưng không dám. Gương mặt tươi cười của anh như cười vào tận trong lòng tôi. Tôi cảm thấy nếu mình nghi ngờ thì thật có lỗi với người ta. Anh ôn hòa đáng yêu đến thế kia.
21Đôi môi tươi cười của anh lướt trên mặt tôi, từ trên mái tóc anh tôi nhìn thấy vầng trăng non cũng đang mỉm cười. Gió xuân như say, thổi tan mây xuân, hé ra vầng trăng non và mấy cặp sao xuân. Nhành liễu ven sông khẽ khàng đong đưa, lũ ếch mùa xuân gióng giã khúc ca yêu đương, hương thơm của bổ công anh non lan tỏa vào không khí ấm áp của đêm xuân. Tôi lắng nghe tiếng nước chảy, như thêm sức sống sinh lực cho bồ công anh non, tôi tưởng tượng đến nhành bồ công anh nhẹ nhàng khoan khoái vươn thẳng lên cao. Cây bồ công anh con sinh trưởng trên vùng đất ẩm ấm áp. tất cả cùng đang tan ra trong sức sống mùa xuân rồi toát ra một hương thơm dìu dịu. Tôi quên bản thân; tôi chẳng còn là mình, như đã hóa vào ánh sáng mong manh của gió xuân chăng. Trăng non đột nhiên bị mây che kín, tôi nhớ lại bản thân. Tôi mất vầng trăng non ấy, cũng mất luôn cả bản thân, tôi và mẹ đã giống hệt nhau rồi.
22Tôi hối hận, tôi tự an ủi, tôi muốn khóc, tôi vui thích, tôi không biết như thế nào thì tốt - Tôi muốn dứt đi thật xa, vĩnh viễn không gặp ỉại anh nữa; tôi lại nhớ anh, tôi cô đơn. Hai gian phòng nhỏ, chỉ có mỗi mình tôi, tối tối anh đến. Anh luôn đẹp đẽ. Lúc nào cũng dịu dàng. Anh cho tôi cái ăn cái uống, còn may cho tôi mấy bộ quần áo mới. Mặc quần áo mói vào, tôi cảm nhận được là tôi đẹp. Nhưng tôi vừa ghét mấy bộ ấy, vừa không nỡ cởi ra. Tôi không dám suy tư và cũng lười nghĩ ngợi, tôi mơ mơ hồ hồ, hai bên má cứ dậy lên hai mảnh hồng hồng. Tôi biếng trang điểm, lại không thể không trang điểm, nhàn rỗi quá, vẽ việc để làm. Lúc trang điểm, tôi thương xót bản thân; trang điểm xong, tôi hận chính mình. Nước mắt tôi động một tí là trào ra, nhưng tôi gắng gượng không khóc, cả ngày đôi mắt cứ ươn ướt, đáng yêu lắm. Có lúc tôi hôn anh như phát điên rồi đẩy anh ra, thậm chí còn ngoác mồm chửi anh, anh chỉ cười.
23Tôi sớm biết, tôi chẳng có hy vọng gì: Một nhúm mây đã có thể che kín trăng non, tương lai của tôi mịt mùng.
Quả nhiên, chẳng bao lâu, xuân biến thành hạ, giấc mộng xuân của tôi đi vào đoạn kết. Một hôm, tầm trưa trưa, một thiếu phụ đến chỗ tôi. Chị đẹp lắm, nhưng đẹp một cách vô hồn, như người sứ vậy. Vừa vào phòng chị đã bật khóc. Không cần hỏi, tôi đã hiểu rồi. Nom dáng vẻ của chị hình như không định gây gổ với tôi, tôi càng không chuẩn bị làm căng với chị. Chị là một người thật thà. Chị khóc nhung níu tay tôi: "Anh ấy lừa cả hai chúng ta", chị nói. Tôi ngỡ chị cũng chỉ là một "người yêu" của anh. Nhưng, không, chị là vợ anh. Chị không gây chuyện với tôi, mà chỉ thút tha thút thít: "Cô hãy buông tha anh ấy nhé!". Tôi không biết phải làm sao, tôi thương hại người thiếu phụ đó. Tôi bằng lòng. Chị cười. Nhìn bộ dạng đó của chị, tôi cho rằng chị thiếu một tâm hồn, dường như chị chả hiểu gì hết, chỉ biết cần chồng chị.
24Tôi lang thang trên phố đã nửa ngày trời. Nhận lời người thiếu phụ kia một cách dễ dàng biết bao, nhưng tôi tính sao đây? Chút ít đồ anh cho tôi đó, tôi không muốn mang theo; đã muốn rời xa anh thì một dao chặt đứt chia đôi ngả. Nhưng bỏ lại ít đồ này, tôi còn có gì nữa? Tôi đi đâu bây giờ? Tôi làm sao dăm hôm ba bữa có cơm ăn ngay được. Thôi được, tôi phải đem chúng theo, hết phép rồi. Tôi len lén âm thầm dọn đi. Tôi không hối hận, chỉ cảm thấy trống rỗng, giống như một đám mây, lơ lửng chẳng nơi bấu víu. Dọn đến gian phòng nhỏ xíu, tôi ngủ li bì cả một ngày.
25Tôi biết tiết kiệm ra sao, từ nhỏ tôi đã hiểu tiền hay ho như thế nào. May mắn trong tay còn có ít tiền, tôi muốn lập tức đi tìm việc. Như vậy, tuy tôi chẳng hy vọng vào điều gì, nhưng không đến nỗi bị nguy hiểm. Nhưng công việc đâu có vì tôi lớn thêm một hai tuổi mà trở nên dễ kiếm. Tôi rất kiên quyết, nhưng điều đó chẳng có ích gì, tôi chỉ cảm thấy nên làm thế thôi. Phụ nữ kiếm tiền sao khó khăn đến vậy! Mẹ rất đúng, phụ nữ chỉ có một con đường để đi, chính là ngả đường mẹ đã chọn. Tôi không muốn rẽ ngay vào hướng đó, nhưng biết rằng nó đang đợi tôi ở một nơi không thật xa. Tôi càng vùng vẫy, giãy giụa, lòng càng sợ hãi. Niềm hy vọng của tôi là ánh trăng đầu tháng chốc lát đã biến mất. Hai tuần trôi qua, hy vọng mỗi lúc một mịt mờ. Cuối cùng, tôi đi chờ tuyển người ở một quán cơm nhỏ với một dãy các cô gái trẻ. Một quán cơm lèo tèo, một ông chủ thù lù; đám chúng tôi đều dễ coi cả, đều là những thiếu nữ đã tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học, chờ ông chủ nom như cái tháp đổ ấy chọn lựa, như đợi Hoàng thượng thánh ngự vậy. Ồng ta chọn tôi. Tôi không lấy làm cảm kích ông ta, nhưng lúc đó quả có chút vui. Đám thiếu nữ đó dường như hâm mộ tôi lắm lắm, có cô rưng rưng lệ quay về, có cô chửi "mẹ nó". Đàn bà có giá gì đó!
26Tôi trở thành nữ chiêu đãi số hai của cái quán cơm cóc ấy. Bày thức ăn, bưng bê, tính toán, báo món... Tôi đều không rành. Tôi hơi sợ. Nhưng cô "số một" bảo tôi không cần lo lắng, cô cũng đâu có biết. Cô nói, Tiểu Thuận gánh hết mọi việc; chúng tôi làm chiêu đãi chỉ cần tiếp thức ăn, đưa khăn và hóa đơn cho khách; những việc khác không phải bận lòng! Kỳ lạ thật! Ống tay áo của cô "số một" vén rõ cao, măng sét không vương một tẹo bụi nào, trên cổ tay có một chiếc khăn lụa thêu dòng chữ "Em gái, anh yêu em!". Cả ngày cô bôi phấn lên mặt, môi tô hệt như cái muôi máu vậy. Khi châm thuốc cho khách, đầu gối cô tựa vào đùi khách; còn khi rót rượu, có lúc cô cũng uống một ngụm. Với các vị khách, có người cô phục vụ vô cùng chu đáo; có kẻ cô chẳng thèm đếm xỉa tới, cô sụp mí mắt xuống, giả vờ không trông thấy. Cô không phục vụ, tôi đành phải làm. Tôi sợ đàn ông. Chút ít kinh nghiệm có được mách bảo tôi vỡ lẽ rằng, cái gì mà yêu với chả đương, đàn ông đáng sợ như nhau cả thôi. Đặc biệt là đàn ông dùng cơm ở nhà hàng, họ giả bộ nghĩa khí, mời ngồi mời tính tiền cứ như đánh lộn; họ ra sức oẳn tù tì, nốc rượu, họ hùng hục ăn hệt thú hoang, họ cố ý, thực ra không cần thiết, moi móc sai sót, chửi bới người làm. Tôi cúi gằm đầu rót trà đưa khăn mặt, má tôi nóng rừng rực. Các khách ăn cố tình huyên thuyên, nói đông nói tây với tôi, chọc cho tôi cười; tôi chẳng có lòng dạ nào mà cười với nói. Hơn chín giờ tối, hết việc rồi, tôi vô cùng mệt mỏi. về đến căn phòng nhỏ, lòng tôi thanh thản đôi chút, giờ tôi đang sống nhờ vào cách làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, kiếm cơm ăn bằng sức lao động của chính mình. Tôi đi làm rất sớm.
27Hơn chín giờ, "số một" mới đến, tôi đã tới được hơn hai tiếng rồi. Cô coi thường tôi, nhưng cũng có dạy dỗ tôi, không hoàn toàn ác ý: "Không cần đến sớm như thế, ai tám giờ tới ăn cơm? Bảo cho cô biết, bỏ bộ mặt u ám đi, đừng sụ dài ra thế, cô là nữ chạy bàn, ai khiến cô đưa đám ở đây. Cúi gằm mặt thế thì chẳng ai thèm cho thêm tiền rượu đâu, cô đến đây làm gì? Không phải nhắm một thằng đàn ông sao? Cổ của cô thấp quá, cái nghề này của chúng ta toàn làm cổố cao, khăn tay lụa, người ta chỉ chấp nhận thế". Tôi biết cô có ý tốt, tôi cũng biết nếu tôi không chịu cười, cô cũng bị thiệt, được chia ít tiền rượu hơn; khoản được cho riêng phải chia đều. Tôi không khinh thường cô, xét từ mặt nào đó, tôi thực sự khâm phục cô, cô chỉ vì kiếm tiền mà thôi. Phụ nữ kiếm tiền đều phải như vậy, không có cách thứ hai. Nhưng, tôi không muốn học cô. Hình như tôi thấy rất rõ rằng: Một ngày gần đây, tôi phải thuộc lòng bài học mở mang đầu óc của cô, mới có thể kiếm được cơm. Nhưng đến lúc chuột chạy cùng sào; cái "vạn bất đắc dĩ" luôn chực sẵn ở đó chờ đợi phụ nữ chúng ta, tôi chỉ có thể bảo nó đợi thêm vài ngày. Điều này khiến tôi nghiến răng nghiến lợi, khiến tôi bốc lửa trong lòng, nhưng vận mệnh người phụ nữ không ờ trong tay mình. Làm thêm ba ngày nữa, lão trưởng quầy hạ lời cảnh cáo: Thử việc tôi hai ngày nữa, nếu tôi muốn làm lâu dài, phải làm như "số một". "Số một" nửa giễu cợt, nửa khuyên răn: "Đã có người hỏi thăm cô đấy, treo giá cao mà làm gì? Chúng ta ai chẳng biết nhau như thế nào! Nữ chiêu đãi lấy giám đốc ngân hàng ư, có đấy, cô tưởng lũ chúng ta là loại vết đũa chắc? Tươi tỉnh cái mặt lên mà làm, chúng ta cũng, mẹ nó, ngồi xe hơi mấy ngày!". Câu này khiến tôi phát cáu lên, tôi vặn: "Chị ngồi xe hơi khi nào?" Cô ta thõng dài đôi môi đỏ, gần như rớt xuống: "Không cần cô múa mép, làm cái gì có cái ấy; cái mông thơm trời sinh ra, chẳng lẽ không biết làm chuyện đó sao?". Tôi không làm được, cầm một đồng lẻ năm hào, tôi về nhà.
28Cái bóng đen cuối cùng lại xấn về phía tôi một bước.
Đế tránh, nó càng bước đến gần hơn. Tôi không hối hận khi mất công việc đó, nhưng tôi thật sự sợ cái bóng đen kia. Tôi sẽ, tôi sẽ bán mình cho một người. Từ dạo đó, tôi hiểu rất rõ quan hệ giữa đàn ông và đàn bà. Phụ nữ buông thả một chút, đàn ông ngửi thấy mùi sẽ đến. Thứ anh ta cần là thịt, anh ta thỏa thuê cái thú tính, cô thì tạm thời có cái ăn cái mặc; sau đó có lẽ anh ta đánh cô hoặc chửi cô hoặc cắt đứt nguồn cung cấp cho cô. Phụ nữ cứ bán mình như thế đôi lúc còn đắc ý lắm, tôi từng cảm thấy vênh vang. Khi đắc ý, nói thì bốc tận trời; được một lát mới cảm thấy nỗi đớn đau, mất mát ê chề trên người mình. Có điều, bán thân cho một người đàn ông, vẫn có thể nói bốc tận trời, bán cho mọi người, thì hết cái nói nổi, mẹ chưa bao giờ nói thế. Mức độ sợ khác nhau, tôi không sao tiếp thu nổi lời khuyên răn của "số một"; "một" người đàn ông khiến tôi bớt sợ hơn một chút. Nhưng, tôi vẫn không muốn bán bản thân. Tôi đâu cần đàn ông, tôi vẫn chưa đầy hai mươi tuổi cơ mà. Thoạt đầu, tôi ngỡ ở bên đàn ông hẳn thích thú lắm, ai ngờ khi bên nhau, anh ta liền đòi hỏi cái chuyện hãi hùng kia. Đúng thế lúc đó tôi như giao mình cho gió xuân, mặc người ta đưa đẩy; về sau nghĩ lại, anh ta lợi dụng sự ngờ nghệch của tôi, thỏa mãn bản thân anh ta. Những lời đường mật ngon ngọt của anh ta ru tôi vào giấc mộng; tỉnh lại, chẳng qua chỉ là một giấc mơ, cả một nỗi trống rỗng hư không; thứ tôi có được là hai bữa cơm, mấy bộ quần áo. Tôi không muốn tiếp tục kiếm cơm ăn bằng cách đó, cơm là thực tại, vậy hãy đi kiếm một cách thực tại là được rồi. Nhưng, nếu quả không kiếm nổi cơm, phụ nữ phải thừa nhận mình là đàn bà, phải bán xác thịt! Hơn một tháng, tôi không tìm được việc làm.
29Tình cờ tôi gặp mấy đứa bạn học, đứa đã lên trung học, đứa ở nhà làm tiểu thư. Tôi chẳng muốn bận tâm đến họ, nhưng hễ nói chuyện với nhau, tôi cảm thấy mình tinh nhanh hơn. Ngày trước, khi còn học ở trường, tôi khờ khạo hơn họ; giờ đây, "họ" tỏ ra "đần độn" rồi. Dường như họ vẫn đang mơ ngủ. Họ trang điểm thật đẹp, như hàng hóa bày trong cửa hiệu. Mắt họ đong đưa với các anh chàng trẻ tuổi, lòng tựa như đang làm thơ tình. Tôi cười bọn họ. Phải, tôi cần tha thứ cho họ, họ có cơm ăn, ăn no rồi đương nhiên mơ mộng tình ái, hai bên nam nữ dệt lưới, đuổi bắt lẫn nhau; kẻ có tiền, lưới giăng rộng hơn, túm được vài người, sau đó ung dung thong thả chọn ra một. Tôi không có tiền, đến cái góc phòng để kết lưới tôi cũng không tìm thấy nốt. Tôi phải trực tiếp đi bắt người hoặc bị người bắt, tôi hiểu rõ hơn họ ít nhiều, thực tế hơn họ ít nhiều.
30Một hôm, tôi gặp người thiếu phụ xinh đẹp ngày trước, cái chị nom như người sứ ấy. Chị kéo tôi lại, làm như tôi là người thân của chị ta vậy. Dáng điệu chị hơi luống cuống. "Cô là người tốt! Cô là người tốt! Tôi hối hận rối!" - Chị ta nói rất thành khẩn - "Tôi thật hốì hận, tôi xin cô buông tha anh ấy, hừ, chẳng thà để trong tay cô! Anh ta lại đi kiếm người khác, còn xinh hơn, một đi không trở lại rồi!". Qua hỏi han, tôi được biết chị ta và anh kia lấy nhau vì tình yêu, hình như chị vẫn rất yêu anh. Anh lại chạy rồi. Tôi thương hại người thiếu phụ này, chị cũng vẫn đang mơ, vẫn tin tưởng vào tình yêu thần thánh. Tôi hỏi tình hình hiện nay của chị, nói chị phải tìm bằng được anh, chị phải một lòng một dạ, trước sau son sắt một lòng. Nếu không tìm thấy anh thì sao? Tôi hỏi. Chị cắn môi, chị có mẹ chồng, đằng ngoại vẫn còn cha mẹ, chị không có tự do, thậm chí chị còn ngưỡng mộ tôi, tôi chẳng bị ai quản, ơ hơ, còn có người ngưỡng mộ tôi cơ đây, tôi muốn cười quá! Tôi tự do, nực cười! Chị có cơm ăn, tôi có tự do; chị không có tự do, tôi không có cơm ăn, hai chúng tôi đều là phụ nữ.
31Từ dạo gặp chị người sứ ấy, tôi không còn muốn bán mình riêng cho một người đàn ông nữa, tôi quyết định đùa giỡn chơi; hay nói một cách khác, tôi muốn kiếm miếng cơm một cách "lãng mạn". Tôi không còn phải chịu bất cứ trách nhiệm đạo đức gì với ai, tôi đói. Lãng mạn đủ để trị cơn đói, cũng như ăn no rồi mới có thể lãng mạn được, đây là một vòng tròn, bắt đầu đi từ đâu cũng được. Đám bạn học nữ và cái nhà chị người sứ ấy đều gần giống tôi, họ nhiều mộng tưởng hơn tôi, tôi thẳng thắn hơn họ, đói bụng là chân lý lớn nhất. Phả, tôi bắt đầu bán. Có chút gì là của tôi, tôi bán tuốt. Bán tháo, thay đổi mình từ đầu đến chân, tôi quả ưa nhìn. Tôi ra chợ.
32Tôi muốn đùa bỡn, lãng mạn. A ha, tôi nhầm rồi. Tôi vẫn chưa hiểu sự đời cho lắm. Đàn ông không dễ xài như tôi vẫn tưởng. Tôi muốn mê hoặc người văn minh một chút, cùng lắm chỉ mất vài nụ hôn. Ha ha, người ta không sập cái bẫy đó, ai cũng muốn lần đầu gặp mặt là phải được lợi ngay. Còn nữa, người ta chỉ mời tôi xem phim, hoặc dạo phố ăn cốc kem; tôi vẫn ôm bụng đói về nhà. Người được gọi là văn minh, biết hỏi tôi tốt nghiệp ở đâu, nhà làm gì. Thái độ đó khiến tôi nhận thấy, nếu anh ta muốn cô, cô phải cho anh ta lợi ích tương đương; ví thử cô chẳng có cái lợi ích gì đáng cống hiến thì người ta cũng chi dùng một cốc kem giá một cắc để đổi của cô một cái hôn thôi. Muốn bán, phải vui vẻ, nhẹ tênh, tôi thấm thía điều đó. Nhưng chị người sứ không hiểu điều đó. Tôi và mẹ hiểu, tôi rất nhớ mẹ.
33Nghe nói một số phụ nữ có thể kiếm cơm ăn một cách lãng mạn, tôi thiếu vốn; mà cũng bất tất phải nghĩ như vậy. Tôi đã có mối buôn bán. Nhưng chủ nhà không cho phép tôi tiếp tục ở đó nữa, ông ta là người trọng sĩ diện. Tôi chẳng buồn lườm nguýt, dọn đi luôn, lại dọn về căn nhà hai gian tôi, mẹ và người bố mới từng ở hồi trước. Người nơi đây không trọng thể diện, song cũng chân thành đáng yêu. Sau khi dọn nhà, chuyện làm ăn của tôi quả không tồi. Cả người văn minh cũng đến. Người văn minh biết tôi là bên bán họ là bên mua, bèn chịu đến rồi; như thế, họ không bị thiệt thòi, cũng chẳng mất đi thân phận. Mới đầu tôi rất sợ hãi, vì tôi vẫn chưa đầy hai mươi tuổi. Đến khi làm được mấy ngày, tôi cũng chẳng sợ nữa. Nhiều khi coi họ như đống bùn, họ mới cảm thấy đáng tiền, họ hài lòng, còn thay tôi làm nghĩa vụ tuyên truyền. Làm mấy tháng, sự tình tôi hiểu càng nhiều hơn, hễ trông thấy mặt, tôi đã có thể đoán định anh ta là người thế nào. Có kẻ rất lắm tiền, loại này hễ mở miệng là hỏi giá, tỏ ý mua nổi tôi. Hắn cũng rất nhỏ mọn, chỉ bao luôn tôi; chơi gái cũng muốn độc chiếm, vì hắn có tiền. Với loại người này, tôi không hào hứng lắm. Anh ta vùng vằng, tôi cóc sợ, tôi bảo anh ta, tôi có thể tìm đến nhà, báo cho vợ anh ta biết. Mấy năm học hành ở tiểu học, rốt cuộc không uổng, anh ta không dọa nổi tôi. "Giáo dục" quả có ích, tôi tin rồi. Lại có người, khi đến, trong tay khư khư một đồng tiền, chỉ sợ mắc lừa. Với loại này, tôi giao hẹn điều kiện cặn kẽ với anh ta, anh ta liền ngoan ngoãn về nhà lấy tiền, rất có ý tứ. Đáng ghét nhất là đám lưu manh, đã không chịu tốn tiền, còn rình rình xoáy món gì rồi cút, nào nửa gói thuốc cuộn, nào hộp dầu Tuyết Hoa nhỏ, chúng đều tiện tay cầm nhầm. Loại này không thể làm mếch lòng chúng, chúng quen nhẵn gầm trời này, mất lòng chúng, chúng sẽ kêu tuần cảnh gây phiền nhiễu đến tôi. Tôi không dám trêu ngươi chúng, tôi sợ chúng, tới khi tôi quen được một chỉ huy tuần cảnh mới hỏi thăm lũ chúng, từng đứa từng đứa một! Thế giới chính là thế giới sói nuốt hổ đớp, ai xấu người đó sẽ chiếm lợi. Đáng thương nhất là đám lau nhau dáng vẻ giống học trò, trong túi để một đồng và mười mấy xu, kêu leng keng leng keng, mũi tứa mồ hôi. Tôi thương hại bọn họ, nhưng vẫn bán cho họ như bình thường. Tôi còn cách nào khác đâu! Còn có các ông già nữa nhé, đều là những người nề nếp hoặc đã con cháu đầy đàn. Với họ, tôi không biết làm thế nào cho phải phép, nhưng tôi biết họ có tiền, muốn tìm vui vẻ trước khi từ giã cõi đời, tôi đành cung cấp cho họ cái họ cần. Những kinh nghiệm này giúp tôi nhận thức được "tiền" và "người". Tiền còn ghê gớm hơn người, giả thử người là thú, tiền chính là lá gan của con thú.
34Tôi phát hiện người mình có bệnh. Điều này khiến tôi hết sức đau khổ, tôi cảm thấy khỏi cần sống tiếp nữa. Tôi nghỉ, tôi ra phố lang thang, cứ đi bừa không mục đích. Tôi muốn đến thăm mẹ, hẳn mẹ sẽ tạo cho tôi đôi phần an ủi, tôi tưởng tượng mình là người sắp chết đến nơi rồi. Tôi vòng qua cái ngõ nhỏ ấy, hy vọng trông thấy mẹ; tôi nhớ lại dáng mẹ ngồi kéo bễ ngoài cửa ngày nào. Hàng bánh bao đã đóng cửa. Hỏi thăm, chẳng ai biết họ đã dọn đi đâu. Tôi càng quyết tâm hơn, tôi nhất định phải tìm mẹ bằng được. Thất thểu, bơ phờ loanh quanh trên phố mấy ngày, vô ích. Tôi băn khoăn hay mẹ đã chết rồi, hoặc cùng ông trưởng quầy quán bánh bao chuyển đi nơi khác, có lẽ đã cách xa ngàn dặm. Nghĩ thế, tôi bật khóc. Tôi xiêm y tươm tất, thoa phấn, nằm trên giường đợi chết. Tôi tin chẳng mấy chốc tôi sẽ chết. Nhưng tôi chưa chết. Ngoài cửa lại "cộc, cộc", tìm tôi đấy. Được thôi, tôi hầu hạ anh ta, truyền sạch bệnh sang anh ta. Tôi chẳng cảm thấy có lỗi, đó vốn đâu phải là tội tình do tôi tạo ra. Tôi lại thoải mái đôi chút, tôi hút thuốc, uống rượu, tôi như đã là người ba bốn chục tuổi rồi. Quầng mắt xanh lét, lòng bàn tay nóng rực, tôi chẳng bận tâm nữa; có tiền mới sống được, ăn no bụng trước rồi hẵng nói chuyện khác. Tôi ăn uống không đến nỗi tồi, có ai chịu ăn dở đâu cơ chứ! Tôi phải thết mình vài món ngon ngon, ít quần áo đẹp, như vậy mới đỡ bạc đãi bản thân.
35Một buổi sáng, khoảng độ chừng mười giờ, tôi đang khoác chiếc áo dài ngồi trong phòng, chợt nghe thấy tiếng bước chân ngoài sân. Thường khoảng mười giờ tôi ngủ dậy, có lúc mười hai giờ mới tính thay quần áo tề chỉnh, gần đây tôi biếng nhác vô cùng, bận được bộ quần áo thì bần thần ngồi đến hai tiếng đồng hổ. Tôi chẳng nhớ ra cái gì, mà cũng chẳng muốn nhớ, cứ chơ vơ ngồi thừ một chỗ. Tiếng bước chân men dần về phía nhà tôi, khẽ khàng chầm chậm. Một lát, tôi nhìn thấy một đôi mắt, nhòm vào bên trong qua mảnh kính nhỏ. Ngó một thoáng rồi biến mất; tôi ngại nhúc nhích, vẫn ngồi đó. Qua vài phút, đôi mắt đó lại nhòm vào. Tôi không ngồi yên được nữa, tôi sè sẹ mở cửa "Mẹ!"...
36Mẹ con tôi vào nhà thế nào, tôi không rõ. Khóc trong bao nhiêu lâu, tôi cũng không nhớ nữa. Mẹ đã già đến độ chẳng còn nhận ra. Lão trưởng quầy của mẹ lén về quê, không báo cho mẹ nửa lời, âm thầm bỏ đi, chẳng để cho mẹ một cắc. Mẹ bán hết đồ đạc, trả nhà, dọn vào một tạp viện. Mẹ đã tìm tôi hơn nửa tháng trời. Cuối cùng mẹ chợt nhớ đến nơi này, song không hy vọng tìm được tôi, chỉ thử ngó qua, ai dè tìm thấy tôi thật. Mẹ không dám nhận tôi, nếu không phải tôi lên tiếng gọi, có lẽ mẹ đã đi rồi. Khóc chán chê, tôi cười sặc lên như phát rồ: Mẹ tìm thấy con gái mẹ, con gái đã thành một con đĩ lậu! Khi mẹ nuôi tôi, mẹ phải làm thế, giờ đến phiên tôi nuôi mẹ, tôi nào được phép khác đi! Nghề nghiệp của phụ nữ là thế tập, là nghề riêng!
37Tôi mong mẹ an ủi tôi. Tôi biết an ủi chẳng qua là những lời sáo rỗng, nhưng tôi vẫn hy vọng chúng thoát ra từ miệng mẹ. Mẹ luôn biết gạt gẫm người ta, chúng tôi gọi sự lừa dối của mẹ là an ủi. Mẹ của tôi quên cả điều này rồi. Mẹ sợ đói quá rồi, tôi không trách mẹ. Mẹ bắt đầu kiểm điểm đồ đạc của tôi, hỏi tôi khoản thu nhập và tiêu pha, tựa hồ chẳng lấy làm kỳ quặc về kiểu làm ăn này. Tôi bảo mẹ, tôi bị bệnh, mong mẹ khuyên tôi nghỉ ngơi vài ngày. Không hề, mẹ chỉ nói ra ngoài mua thuốc cho tôi. "Chúng ta cứ làm thế này mãi sao?". Tôi hỏi mẹ. Mẹ im lặng. Nhưng xét từ khía cạnh nào đó, quả thực mẹ muốn bảo vệ tôi, yêu thương tôi. Mẹ nấu cơm cho tôi ăn, hỏi tôi cảm thấy ra sao, còn thường xuyên lén nhìn tôi, như bà mẹ ngắm đứa con thơ say ngủ. Chỉ có một chuyện mẹ không chịu nói, đó là bảo tôi đừng tiếp tục làm nghề này, vì chưa nghĩ ra được việc khác để làm. Mẹ con tôi phải ăn phải mặc - điều này quyết định hết thảy. Cái gì mà mẹ với chả con, cái gì mà sĩ với chả diện, tiền là vô tình.
38Mẹ muốn chăm sóc tôi, thế nhưng mẹ phải lặng nghe người ta giày vò, chà đạp tôi. Tôi muốn đối xử thật tốt với mẹ, nhưng nhiều khi tôi thấy mẹ đáng ghét quá. Chuyện gì mẹ cũng đòi chen vào, đặc biệt là tiền nong. Mắt mẹ đã mất đi ánh sáng lấp lánh thời trẻ, có điều nhìn thấy tiền mắt vẫn có thể lóe sáng. Với khách, mẹ tự coi mình là người hầu, nhưng hễ khách trả thiếu tiền, mẹ quạc mồm chửi ngay, nhiều khi khiến tôi rất khó xử. Phải, đã làm nghề này còn không vì tiền sao? Nh?