GIẾNG NƯỚC Nabil Naoum
Bác sĩ Amad lấy ống dòm ra khỏi bọc, chăm chú quan sát cái chấm kỳ bí xuất hiện ở đằng xa, hãy còn khó phân biệt. Ðiểm đó trở thành mối hy vọng duy nhất của anh từ khi chiếc xe bị hỏng. Nước dự trữ gần hết mà chung quanh là sa mạc khô cằn vô tận.
- Có thể có tên du mục nào ở đó chăng?
Anh nói với vợ, vẻ bực dọc. Ðây là chuyến du lịch đầu tiên họ đi với nhau sau lễ kết hôn mấy tháng.
Lần đầu tiên Samia nhìn thấy vùng ốc đảo, cũng là kinh nghiệm đầu đời trên những con đường bất an như vậy, và thái độ của chị trước tình huống này đã khiến chồng bực bội, sự bực bội mà anh đổ lỗi là do tính trẻ con và sự không ý thức được thực tế vấn đề của vợ.
- Chắc là một giếng nước hay cái lều.
Anh vừa lặp lại vừa sải bước xuống những đụn cát di động ngăn cách giữa họ với cao nguyên tận chân trời, chỗ vừa phát hiện cái điểm kỳ bí qua ống dòm.
- Sao không ở cạnh xe chờ có xe nào khác tới?
Samia hỏi, khó nhọc theo chân chồng trong một cuộc viễn du không có điểm mốc này. Amad trả lời khô khan:
- Và để chết bên cạnh nó! Cả đêm qua, rồi suốt từ sáng tới trưa... và bây giờ thì mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu, mà mình cũng chẳng thấy một bóng xe hay bóng ma nào!...
Anh dừng lại để nhìn lần nữa vào ống dòm. Bây giờ anh có thể thấy rõ một thân cây nhỏ gần cái điểm sậm màu.
- Samia, mình lạc mất con đường chính rồi...
Amad nhắc đi nhắc lại những tiếng anh đã thốt ra không biết bao nhiêu lần. Và cũng bao nhiêu lần rồi anh đã chỉ trỏ suốt đêm trên bản đồ, dưới ánh sáng đèn pin, con đường kia đáng lẽ phải theo, và con đường chẳng dẫn đến đâu này mà không may họ đã chọn.
- Và mình cũng chẳng biết đã tách khỏi con đường đúng bao xa!
Thình lình Amad im lặng, phải nói chuyện, cộng với cố gắng nhấc bước trong cát, với sự mệt mỏi và nỗi lo âu, làm anh thấy trong người khó chịu. Anh đưa tay lên ngực và cơn suy kiệt buộc anh phải tựa vào tay Samia rồi ngồi bệt xuống cát. Cổ họng khô khốc, Amad thì thào:
- Huyết áp lại hạ... Anh sợ chết mất... Phải tiếp tục...
Vài phút sau Samia giúp chồng đứng lên và khuyến khích anh đi tiếp tới đích đã nhắm. Hai vợ chồng lại lên đường.
Amad tưởng tượng đủ mọi chuyện có thể xảy ra mà không nói cho Samia nghe vì nói thì anh mệt... Chắc đó là một nguồn nước... Có cả vài tên du mục ở đấy cũng nên, để dẫn mình ra đường lớn... Chớ phải chết như thế này thì buồn qua. Cũng có thể chẳng có ma nào... Nhưng nếu có người thì có nên cùng đi tới đó... hay tốt hơn là mình đi trước còn Samia chờ ở đây...
- Em nên cởi nhẫn cưới và chiếc đồng hồ vàng ra.
Cuối cùng anh thốt lên, rồi tự tay lột đồng hồ và dây xích bằng vàng ra. Samia không có cùng nỗi sợ, nhưng chị làm theo để chồng khỏi thêm lo lắng.
Khoảng cách giữa họ và điểm cứu tinh rút ngắn lại. Cạnh cái thân cây, bây giờ trông rất rõ, là một căn lều vải màu, chung quanh có vài con dê đang gặm cỏ. Và còn nữa: bên cạnh là gờ miệng giếng đá gây cho Amad một nỗi hạnh phúc vô biên.
- Một cái giếng. Anh hớn hở nói, rồi...
- Tạ ơn Trời! Những chữ đó túa ra khỏi miệng anh, và Samia nhận ra âm hưởng của một lời cầu khẩn.
- Anh chắc chắn mà. A, nếu tụi mình đi từ lúc rạng đông... thì đã không phải chờ muốn chết như thế này. Giọng anh lại bắt đầu có hơi hướng phàn nàn trách móc.
Mỏi mệt vì những trò đó, Samia không nói gì. Amad không ngớt nói về mình, về các đức tính và những thành công của mình... Ðối với chị, niềm vui trông thấy cái giếng gắn liền với cảnh lộng lẫy hoang dã của sa mạc. Từ lúc xe hỏng, không lúc nào chị nghĩ tới cái chết. Họ còn một bình nước đầy, đủ sống vài ngày, và một ít lương thực. Thêm vào đó là cuộc du hành mà ngay từ đầu, đối với chị, cũng ít thú vị như khoảng đời đã sống mấy tháng qua: Amad biết hết mọi điều, quyết định hết mọi chuyện, và giải quyết hết mọi sự. Lúc đầu chị thử phát biểu vài ý kiến, nhưng rồi để tránh đụng chạm, chị luôn luôn thuận theo ý chồng.
Chỉ còn vài phút nữa là họ tới lều mà bặt không thấy ai xuất hiện. Ðể trấn an, Amad đặt tay một cách máy móc lên dây nịt có đeo con dao mà cho tới lúc đó chỉ dùng để lột vỏ cam hay cắt phó mát.
- Là coi thử xem nó còn đó không. Anh nói với Samia khi bắt gặp chị trố mắt nhìn. Ở đây không có chó!... Cái lều này bỏ hoang chắc? Nỗi lo sợ lại xâm chiếm anh.
- Nhưng mà mấy con dê... Anh nói tiếp.
Từ nãy giờ Samia không nghe anh nữa, chị bị thu hút bởi tình cảnh lạ lùng mà mình đang sống. Giữa sa mạc hoang vu này, ai có thể ở trong căn lều này và... còn sống?
Với vẻ thận trọng, Amad tiến tới căn lều. Anh đập tay vào nhau nhiều lần để báo động với người bên trong. Không ai trả lời. Anh liếc nhìn Samia cũng đang tiến tới lều và khẽ dở tấm thảm dùng làm rèm cửa lên. Ánh sáng chan hoà tràn vào lều giúp chị phân biệt được, sau cái nhìn bao quát, một người đàn ông nằm ngủ trong góc, phần lớn khuôn mặt dưới chăn. Dù vậy, chị cũng nhận thấy diện mạo thanh tú của ông ta: nếu chẳng còn trẻ thì chắc chắn cũng không quá năm mươi. Chị cảm thấy Amad đứng bên cạnh và anh tiếp tục đập tay vào nhau để đánh thức người đang ngủ. Chị bảo:
- Khẽ thôi, ông ta đang ngủ.
- Phải đánh thức ông ta dậy. Này Cheikh, bậc đáng kính! Anh kêu lớn giọng.
Người đàn ông khó nhọc mở mắt nhìn chỗ ra vào có hai người lạ mặt đang đứng trong ánh sáng chói chang.
- Chào Cheikh, bậc đáng kính của dân tộc Ả Rập [1] ! Amad nói từ cửa lều.
- Chào ông bà. Người đàn ông vừa thì thào vừa kéo tấm che mắt để ngủ ra, lộ khuôn mặt với những đường nét đều đặn. Ông ta ráng ngồi lên mà không được.
- Người này bị bịnh. Samia vừa nói vừa tiến tới.
- Khoan đã... Amad nhanh nhẹn níu chị lại, không cho tới gần.
- Chúng tôi lạc đường, Cheikh ạ, Amad tiếp,... và gần hết nước rồi. Ông có nước không? Ông có biết đường Farafra ở đâu không? Ông có biết chỗ nào tìm ra xăng không?
Những câu hỏi dồn dập và người đàn ông không trả lời. Mắt ông ta lại nhắm nghiền và không cử động nữa.
- Người này bị bịnh. Samia vừa nói vừa bước vào lều. Chị quỳ xuống bên cạnh ngươiø đàn ông:
- Chào tôn sư [2] . Chị nói dịu dàng.
Người đàn ông mở mắt ra rất khó nhọc để trả lời tiếng chào. Ông ta lại cố ngồi lên, lại cũng không được.
- Bịnh hả? Vừa nói chị vừa đưa tay sờ cái trán nóng bỏng với mồ hôi vả ra vì cố gắng vừa rồi.
Amad nhủ thầm: Lại một tai hoạ nữa rồi... Vị cứu tinh của ta phải được cứu chữa trước đã...
- Khám bịnh cho ông ta đi, Amad. Samia bảo.
Amad từ từ tiến lại phía họ và quỳ xuống bên cạnh người đàn ông để sờ trán ông ta:
- Tôn sư đau bệnh gì?
Amad vừa nói nhanh vừa đảo mắt dò la bên trong căn lều. Chỉ có cái thùng nhỏ, vài cái đai da, mấy mẩu gỗ, và hai bình nhựa đựng nước. Amad chồm tới nhấc bình lên coi thử có đầy không, và trọng lượng của chúng làm anh yên bụng. Anh hỏi người đàn ông:
- Trong giếng có nước không?
- Có.
- Ông có biết đường Farafra ở đâu không?
- Biết.
- Chúng ta đang ở đâu đây? Gần đây có trại lính không? Ai có thể giúp chúng tôi?
Người đàn ông lại gượng ngồi dậy, lại vẫn không được. Ông ta khó nhọc nói:
- Trại lính... cách đây chừng hai... giờ đường, về phía tây.
Bây giờ thì Amad an tâm. Anh đứng lên và ra dấu cho Samia đi theo.
- Người này đang bịnh, Amad. Phải làm gì giúp ông ta chớ.
- Ông ta bị sốt mà mình thì chẳng có thuốc men gì. Nên thử đi tới trại lính trước khi trời tối, rồi trở lại đây trong chuyến về.
- Anh không biết trại lính ở đâu cả... Mình ở đây là an toàn rồi, tại sao phải vội?... Bộ không có thuốc gì trong xe có thể làm ông ta dịu bớt sốt sao?
- Nhưng mình đang ở đâu?... Còn xe hơi thì ở đâu?
Người đàn ông mở mắt ra trong tích tắc và bắt gặp ánh mắt Samia làm chị bối rối - trong mắt Samia lóng lánh một tia chớp. Chị nói với vẻ cả quyết:
- Phải cứu ông ta.
- Chẳng có gì trầm trọng cả... Thân nhiệt hơi cao một chút thôi... Mình phải gấp lên trước khi mặt trời lặn.
- Mình để ông ta chết à?...
- Ông ta không chết đâu. Bà con ông ta sẽ tới cứu. Cái chính của mình là không nên mất thì giờ.
Người đàn ông nhắm mắt lại và quay mặt tránh cuộc cãi vã, mà cũng có thể là ông ta hôn mê rồi. Samia hỏi Amad với vẻ oán giận:
- Ít nhất anh cũng biết anh đi đâu chớ?
- Ừ, thì như ông ta đã nói, chỉ hai giờ đi bộ là tới trại thôi.
- Trại nào? Tốt hơn hết là ở đây qua đêm rồi sáng mai hẵng đi.
- Trái lại, mình phải tới trại ngay tối nay.
Người đàn ông có vẻ đau đớn và run lên vì sốt.
Amad bước ra khỏi lều. Anh dừng lại ở cửa rút cái địa bàn vẫn không bao giờ rời anh trong suốt chuyến đi để định hướng đâu là phía tây. Tìm ra rồi, anh chực bước đi và bảo Samia:
- Nhanh lên!
Samia trả lời giọng chắc nịch:
- Em không đi đâu. Khi về thì ghé qua đây đón em. Em không còn sức để bước nữa.
- Ðược mà, em còn đi được mà. Chớ em ở lại với người đàn ông xa lạ này à? Amad nói với giọng chê trách. Anh chờ.
- Không... em chờ cho tới khi anh trở lại.
Samia nói với giọng cả quyết, không để lại chút nghi ngờ nào về ý định của chị. Amad hiểu cố thuyết phục nữa cũng vô ích:
- Cô điên rồi. Việc cô muốn làm quả là trò điên. Anh nói một cách giận dữ rồi làm như thể trút bỏ hết trách nhiệm trước sự bướng bỉnh đó. Ðược, tùy cô.
Rồi anh bỏ đi.
Samia canh chừng người bịnh thâu đêm. Thỉnh thoảng chị nhúng khăn quàng của mình vào nước và ấp lên trán ông nóng hổi.
Nhiều ngày như vậy trôi qua. Chị đã săn sóc người đàn ông chu đáo. Ông ta bình phục. Và Amad không trở lại.
MIÊNG
Dịch theo bản tiếng Pháp của Luc Barbulesco và Philippe Cardinal
"Le Puits" ,
Paris, Octobre 1995-Aout 2000
NAOUM, Nabil (1944-....)
Viết truyện ngắn và truyện dài. Sinh tại Le Caire, Nabil Naoum thuộc thế hệ của các nhà văn Ai Cập được trong và ngoài nước biết đến vào những năm 1980. Từ nhỏ ông đã cảm nhận thiên hướng viết văn, trong khi gia đình muốn hướng ông về các bộ môn y khoa hoặc kỹ thuật. Ông đã học ở Ðại học Le Caire và sau đó sống 10 năm ở Hoa Kỳ với nghề kỹ sư. Ông không hề hối tiếc và xem khoảng thời gian này là bổ ích cho cách suy nghĩ và đánh giá sự việc. Trở về Ai Cập, ông sống ở Héliopolis và mở tại đây một phòng triển lãm nghệ thuật hiện đại, "Atelier 49", và đóng vai trò tiên phong trong lãnh vực này. Ông thường lui tới các nước Pháp và Mỹ. Về văn học, ông thuộc thế hệ những nhà văn giao thời, và có lẽ là tác giả đã chịu ảnh hưởng bốn phương nhiều nhất trong số các nhà văn Ai Cập hiện nay. Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Pháp, như "Le Voyage de Râ", "Retour au temple" và "Le Rêve de l'esclave"...
[1] Cheikh
[2] Hâgg.