← Quay lại trang sách

Chương 21.

Một kẻ giết cha mẹ

(Un parricide)

Luật sư đã viện dẫn cơn điên để bào chữa. Làm sao để giải thích được vụ án mạng lạ lùng này khác hơn bây giờ?

Một buổi sáng nọ, trong đám lau sậy gần Chatou, người ta tìm thấy hai xác chết ôm chặt lấy nhau, một đàn bà, một đàn ông, hai con người thượng lưu nổi tiếng, giàu có, lại còn trẻ, và họ chỉ mới lấy nhau vào năm ngoái, vì người đàn bà chỉ mới goá bụa từ ba năm nay.

Không ai biết kẻ thù của họ, họ cũng không bị cướp bóc gì. Dường như hung thủ đã ném họ từ bờ sông xuống, sau khi đã lần lượt hành hung họ bằng một mũi sắt dài.

Cuộc điều tra chẳng tìm ra chi. Những người lái thuyền trên sông được thẩm vấn cũng chẳng biết gì, khi người ta sắp sửa xếp vụ án lại, thì một người thợ mộc trẻ của làng bên cạnh, tên là Georges Louis, tục gọi là anh Trưởng giả, đến đầu thú.

Trong tất cả các cuộc lấy khẩu cung, hắn chỉ trả lời như sau:

“Tôi quen người đàn ông từ hai năm nay, và người đàn bà từ sáu tháng nay. Họ thường đến nhờ tôi sửa bàn ghế cũ, bởi vì tôi khéo tay nghề.”

Và khi người ta hỏi hắn:

“Tại sao anh giết họ?”

Hắn bướng bỉnh trả lời:

“Tôi giết họ bởi vì tôi muốn giết họ.”

Người ta không thể biết gì khác hơn.

Có lẽ gã đàn ông này là con hoang, ngày xưa được đem cho nuôi thuê trong vùng này, rồi sau đó bị bỏ rơi. Hắn không có tên nào khác hơn là Georges Louis*, nhưng khi lớn lên, vì hắn ở trở nên thông minh đặc biệt, với năng khiếu và sự tinh tế bẩm sinh mà bạn bè hắn không có, nên hắn được gọi là “Anh Trưởng giả” và người ta chỉ còn gọi hắn như thế. Hắn trở nên khéo léo lạ thường trong nghề mộc mà hắn đã theo học. Thậm chí, hắn còn làm một ít đồ chạm khắc trên gỗ. Người ta còn nói rằng hắn rất cuồng nhiệt, và thậm chí của chủ nghĩa hư vô, một tay đọc nhiều tiểu thuyết phiêu lưu, tiểu thuyết chém giết đẫm máu, một cử tri có uy tín và một tay hùng biện khéo léo trong các cuộc họp thợ thuyền hoặc nông dân.

Ở Pháp, không có họ Georges hoặc Louis. Đó là hai cái tên người được ghép lại. Những đứa con hoang thường có tên loại ấy.

Luật sư đã viện dẫn cơn điên để bào chữa.

Thật vậy, làm sao người ta có thể chấp nhận rằng người thợ này có thể giết những khách hàng “xộp” của hắn, những người khách giàu sang và rộng rãi (hắn công nhận điều này), những người mà từ hai năm nay đã nhờ hắn làm những món hàng trị giá ba ngàn quan (số tiền này minh chứng cho điều nói trên)? Một lời giải thích duy nhất hiện ra: chứng điên, hoặc ý định cơ hữu của một người sa cơ thất thế, muốn trả thù tất cả những kẻ trưởng giả bằng cách giết hai người này; và luật sư khéo léo ám chỉ đến biệt danh của anh: anh Trưởng giả, do dân làng đặt cho đứa con bị ruồng rẫy này, viên luật sư kêu lên:

“Có phải đó là một trò khôi hài không? Một trò khôi hài có thể còn kích động người con trai đau khổ không cha không mẹ này! Đây là một người theo phái Cộng hoà nhiệt thành. Tôi nói gì đấy nhỉ? Thậm chí anh còn gia nhập vào đảng phái chính trị này, mà mới đây thôi, Cộng hoà của chúng ta còn đem xử bắn và lưu đày biệt xứ, và ngày hôm nay nó mở rộng vòng tay đón tiếp, một đảng phái chính trị mà đối với nó, việc đốt sạch là một nguyên tắc và chém giết là một phương tiện thông thường.

“Những học thuyết thảm não này, bây giờ được mọi người tung hô trong các cuộc họp công cộng, đã đánh mất con người này. Anh đã nghe theo người thuộc phái Cộng hoà, ngay cả những bà nữa, vâng, những bà nữa, để đổi lấy máu ông Gambetta, ông Grévy*; đầu óc bệnh hoạn của anh đã chao đảo; anh ta muốn lấy máu, máu của người trưởng giả.

Jules Grévy (1807 – 1891): tổng thống nước Cộng hòa Pháp từ 1879 đến 1887; Léon Gambetta (1833 – 1882): luật sư và chính trị gia Pháp. Phái Cộng hòa đã chỉ trích họ là phản bội lại chương trình hành động của họ, đặc biệt là từ khi Grévy lên làm tổng thống.

“Anh ta không đáng bị kết tội, thưa quý ngài, chính Công xã mới là thủ phạm!”*

Tức Công xã Paris (1871). Đó là lập luận quen thuộc của giới trí thức tư sản thời bấy giờ.

Những tiếng thì thào tỏ ý tán đồng quan điểm trên truyền lan khắp phòng. Mọi người cảm thấy rõ ràng viên luật sư đã giành được chiến thắng. Viên công tố không phản đối lại.

Đoạn, viên chánh án đặt một câu hỏi thường lệ cho bị can:

“Bị cáo, anh có cần nói thêm điều gì để tự biện hộ không?”

Anh ta đứng dậy.

Hắn có vóc người nhỏ nhắn, tóc vàng sợi gai, đôi mắt màu nâu, tia nhìn đăm đắm và trong sáng. Một giọng nói to, thẳng thắn và âm vang thốt ra từ gã thanh niên mảnh dẻ, và làm thay đổi đột ngột ngay từ những lời nói đầu tiên, quan điểm mà mọi người đã nhận định về anh ta.

Hắn nói to tiếng, bằng một giọng huênh hoang, nhưng rất rõ ràng, đến nỗi ở cuối phòng người ta cũng có thể nghe được từng lời một của hắn:

“Thưa Ông chánh án, vì tôi không muốn vào nhà thương điên, và vì tôi thích máy chém hơn, nên tôi xin nói tất cả với quý vị.

“Tôi đã giết người đàn ông và người đàn bà kia, bởi vì họ là cha mẹ tôi.

“Bây giờ, xin quý vị hãy nghe tôi nói và hãy xử tôi.”

*

Một người đàn bà đã sinh ra một đứa con trai, rồi sau đó gửi cho người ta nuôi vú ở đâu đó. Bà ta có biết kẻ tòng phạm của mình đã mang cái sinh vật bé bỏng đó đi đâu không? Một sinh vật vô tội, nhưng lại phải chịu đựng nỗi khốn khổ triền miên, nỗi nhục nhã vì sự ra đời bất hợp pháp, và hơn thế nữa: cái chết, bởi vì người ta đã ruồng bỏ nó, bởi vì người vú nuôi có thể bỏ nó tàn tạ, đói khát, và chết vì bị ruồng bỏ, như bọn họ thường làm, vì không còn nhận tiền trợ cấp hàng tháng nữa?

Người đàn bà cho tôi bú là một người lương thiện, lương thiện hơn, đàn bà hơn, cao thượng hơn, đầy tình mẫu tử hơn là mẹ tôi. Bà ta đã nuôi nấng tôi. Bà ta đã sai lầm khi làm nhiệm vụ của mình. Tốt hơn cả là nên bỏ cho chết luôn những đứa bé khốn khổ bị người ta ném đi ở các làng mạc của những vùng ngoại ô, như ném rác rưởi ra bìa rừng.

Tôi lớn lên với cảm giác mơ hồ là tôi mang một điều sỉ nhục. Một hôm, những đứa trẻ khác gọi tôi là “con hoang”. Chúng không hiểu chữ ấy có nghĩa gì, vì một đứa trong bọn chúng chỉ nghe cha mẹ nó nói. Tôi cũng không hiểu nổi, nhưng tôi cảm nhận được điều đó.

Tôi có thể nói rằng tôi là một trong những đứa trẻ thông minh nhất trong trường. Lẽ ra tôi đã có thể là một người thượng lưu, nếu cha mẹ tôi không phạm phải tội ruồng bỏ tôi.

Tội ác này, họ đã làm để chống tôi. Tôi là nạn nhân, họ là thủ phạm. Tôi không có khả năng tự vệ, họ không có lòng thương hại. Họ phải thương yêu tôi, nhưng họ đã từ bỏ tôi.

Còn tôi, tôi nợ họ cuộc đời – nhưng cuộc đời có phải là một món quà không nhỉ? Cuộc đời của tôi, dù gì đi nữa cũng chỉ là một nỗi bất hạnh. Sau hành động ruồng bỏ nhục nhã đó, tôi chỉ còn nợ họ sự trả thù. Để chống lại tôi, họ đã thực hiện một hành vi vô nhân đạo nhất, nhục nhã nhất, khủng khiếp nhất mà người ta có thể phạm phải đối với một sinh vật.

Một kẻ bị sỉ nhục phạm tội đánh người; một kẻ bị đánh cắp lấy lại của anh ta bằng sức mạnh. Một người bị tra khảo, bị chơi xấu, bị hành hạ phạm tội giết người; một người bị tát tái phạm tội giết người, một người bị lăng nhục phạm tội giết người. Tôi đã là người bị đánh cắp, bị lừa đảo, bị hành hạ, bị một cái tát về mặt tinh thần, bị lăng nhục hơn tất cả những người mà các vị đã tha thứ cho cơn nổi giận của họ.

Tôi đã trả thù, tôi đã giết người. Đó là quyền chính đáng của tôi. Tôi đã đổi cuộc sống sung sướng của họ với cuộc đời ghê tởm mà họ đã áp đặt cho tôi.

Các ngài sắp nói về tội giết cha mẹ. Họ có phải là cha mẹ tôi không, những người mà đối với họ, tôi là một gánh nặng ghê tởm, một nỗi khiếp đảm, một vết nhơ bẩn nhục nhã; đối với họ, sự ra đời của tôi là một tai hoạ, và mạng sống của tôi là một mối đe doạ nhục nhã? Họ tìm kiếm một khoái lạc ích kỷ; họ đã có một đứa con bất đắc dĩ. Họ đã xoá sổ đứa con. Đến lượt tôi, tôi cũng làm như vậy cho họ.

Và tuy nhiên, sau cùng, tôi đã sẵn sàng yêu mến họ.

Cách đây hai năm, như tôi đã nói với các vị, người đàn ông ấy, nghĩa là cha tôi, đến nhà tôi lần đầu tiên. Tôi không nghi ngờ gì cả. Hắn đặt tôi làm hai món hàng. Sau này tôi mới hiểu, ông ta đã dò la tin tức ở cha xứ, dĩ nhiên là một cách bí mật.

Hắn trở lại thường xuyên hơn; hắn đặt tôi làm và thanh toán tiền bạc rộng rãi. Thậm chí đôi khi hắn tán gẫu chuyện này chuyện nọ với tôi. Tôi cảm thấy quý hắn.

Vào đầu năm nay, hắn dẫn vợ, tức là mẹ tôi, đến. Khi bà ta bước vào nhà, bà ta run bần bật, đến nỗi tôi tưởng rằng bà ta bị bệnh thần kinh. Đoạn bà mượn một chiếc ghế và xin một ly nước. Bà ta không nói gì cả. Bà nhìn bàn ghế của tôi bằng một vẻ ngây dại, và chỉ trả lời “có” và “không” một cách ngớ ngẩn với tất cả những câu hỏi mà chồng bà đặt ra! Khi bà ta đã ra về, tôi cứ tưởng rằng bà ta hơi loạn thần kinh.

Tháng sau, bà trở lại. Bà đã bình tĩnh, và tự chủ. Hôm ấy, họ ở lại khá lâu để tán gẫu, và họ đặt tôi làm một món hàng lớn. Sau đó, tôi còn gặp lại họ ba lần nữa, mà không hề đoán ra được điều gì, nhưng một hôm, bà ta bắt đầu nói chuyện với tôi về cuộc sống của tôi, về thời thơ ấu của tôi, về cha mẹ tôi. Tôi trả lời: “Cha mẹ tôi, thưa bà, họ là những kẻ khốn nạn, đã ruồng bỏ tôi.” Lúc ấy, bà ta lấy tay ôm ngực, và bất tỉnh ngã xuống. Tôi nghĩ ngay rằng “Mẹ ta đây!”, nhưng tôi không để lộ ra thái độ gì cả. Tôi muốn bà ta trở lại.

Chẳng hạn, về phía tôi, tôi cũng tìm hiểu tin tức. Tôi biết rằng họ chỉ mới lấy nhau vào tháng bảy trước, vì mẹ tôi chỉ goá bụa từ ba năm nay. Người ta xì xầm nhiều rằng họ yêu nhau từ thời mồ ma của người chồng trước, nhưng người ta không có bằng chứng nào. Tôi chính là bằng chứng, một bằng chứng mà ban đầu người ta đã giấu nhẹm, rồi sau đó muốn thủ tiêu.

Tôi chờ đợi. Một buổi tối nọ, bà ta xuất hiện, luôn luôn có cha tôi đi cùng. Hôm ấy, bà ta có vẻ vô cùng xúc động, tôi không hiểu tại sao. Rồi, lúc ra về, bà ta nói với tôi: “Tôi muốn điều tốt lành cho anh, bởi vì đối với tôi anh có vẻ là một thanh niên lương thiện và một người lao động; có lẽ một ngày nào đó anh sẽ nghĩ đến việc lấy vợ; tôi sẽ đến giúp anh chọn lựa tự do người đàn bà nào phù hợp với anh. Còn tôi, ngày xưa tôi đã lập gia đình một cách gượng ép một lần rồi, và tôi biết đau khổ là như thế nào. Bây giờ, tôi giàu có, nhưng không con cái, tôi tự do, tôi làm chủ gia tài của tôi. Đây là của hồi môn của anh.”

Bà ta đưa cho tôi một phong bì to niêm kín.

Tôi nhìn đăm đăm, đoạn tôi nói: “Bà là mẹ của tôi à?”

Bà ta chợt lùi lại ba bước và lấy tay che mặt lại để không phải trông thấy tôi. Còn hắn, người đàn ông ấy, tức là cha tôi, hắn đỡ bà ta dậy và hét vào mặt tôi. “Anh là đồ điên.”

Tôi trả lời: “Không điên chút nào cả. Tôi biết chắc rằng hai người là cha mẹ tôi. Không thể lừa dối được tôi như thế đâu. Ông hãy thú nhận đi, và tôi sẽ giữ bí mật cho ông; tôi sẽ không oán trách ông đâu; tôi sẽ tiếp tục công việc mà tôi đang làm của một người thợ mộc.”

Hắn lùi ra cửa, tay vẫn luôn nâng vợ hắn, bà ta bắt đầu khóc nấc lên. Tôi chạy đi đóng cửa lại, tôi bỏ chìa khoá vào túi, và tôi nói tiếp: “Ông hãy nhìn bà ta vậy, và hãy cứ phủ nhận rằng bà ta là mẹ của tôi đi.”

Lúc ấy, hắn nổi giận lên, mặt tái mét, và kinh hoảng khi nghĩ rằng vụ lem nhem này, đã được tránh né từ lâu, nay có thể bùng nổ bất ngờ, rằng địa vị xã hội của họ, tiếng tăm của họ, danh dự của họ sẽ đùng một phát tiêu tan; hắn ấp úng: “Anh là một kẻ hạ đẳng, muốn tống tiền tôi. Vậy anh cứ làm điều thiện cho dân chúng của anh đi, cho bọn người thô thiển đó đi, hãy giúp họ đi, hãy cứu họ đi!”

Mẹ tôi thất kinh, cứ luôn mồm lặp đi lặp lại: “Ta về thôi. Ta về thôi.”

Rồi thì, vì cửa đã khoá, nên hắn la lên: “Nếu anh không mở cửa ra ngay lập tức, tôi sẽ cho người bắt giam anh vì tội tống tiền và dùng vũ lực!”

Tôi tự chủ được, tôi mở cửa và đứng nhìn họ chìm dần trong bóng đêm.

Lúc ấy, bỗng dưng tôi có cảm giác như là mình vừa bị côi cút, bị ruồng rẫy, bị đẩy xuống suối. Một nỗi buồn ghê sợ, pha lẫn với cơn giận dữ, với nỗi oán ghét, với nỗi chán chường xâm chiếm lòng tôi, trong tôi có một cái gì như sự vùng dậy của cả con người tôi, một sự vùng dậy của công lý, của lòng trung thực, của danh dự, của tình thương bị chối bỏ. Tôi liền chạy đi để đuổi theo họ, dọc sông Seine mà họ phải theo để ra ga đi về Chatou.

Chẳng mấy chốc sau, tôi đuổi kịp họ. Màn đêm đã buông xuống tối đen. Tôi đi nhè nhẹ trên cỏ, để cho họ không nghe thấy tiếng bước chân. Mẹ tôi vẫn khóc suốt. Cha tôi nói: “Lỗi của em đấy. Tại sao em lại muốn thăm nó? Ở địa vị chúng ta, đó thật là một việc điên rồ. Lẽ ra ta nên làm phúc cho nó từ xa, mà không phải chường mặt ra. Vì ta không thể nhìn nhận nó được, thế thì những cuộc thăm viếng nguy hiểm này giúp ích được gì?”

Lúc ấy, tôi lao đến trước mặt họ, và khẩn cầu. Tôi lẩm bẩm: “Rõ ràng ràng ông bà là cha mẹ của tôi. Ông bà đã chối bỏ tôi một lần rồi, chẳng lẽ ông bà lại xua đuổi tôi nữa ư?”

Thế rồi, thưa ông chánh án, hắn ta giơ tay lên trước mặt tôi, tôi lấy danh dự của tôi mà thề trước luật pháp và nền Cộng hoà rằng hắn đánh tôi, và khi tôi chộp được cổ tay hắn, hắn rút trong túi áo ra một khẩu súng ngắn.

Tôi điên tiết lên và không còn biết gì nữa. Trong túi tôi có cái com-pa; tôi đánh hắn, đánh đến khi nào tôi còn đánh được.

Thế rồi bà ta vừa gào lên: “Cứu tôi với! Ám sát!” vừa bứt râu tôi. Dường như tôi cũng đã giết bà ta.

Còn tôi, tôi có biết những gì tôi đã làm trong lúc ấy không?

Đoạn, khi trông thấy cả hai nằm sóng soài dưới đất, tôi ném họ xuống sông Seine, không hề suy nghĩ.

*

Bị cáo ngồi xuống. Trước lời thổ lộ ấy, vụ án đã được dời lại vào buổi họp tiếp theo…

Trần Thanh Ái dịch