← Quay lại trang sách

Chương 23.

Mụ điên

(La folle)

Tặng Robert de Bonnières

Này, ông Mathieu d’Endolin bắt đầu kể, mùa săn chim mỏ nhát làm tôi nhớ lại một giai thoại thảm thương về chiến tranh.

Các bạn đã biết cơ ngơi của tôi ở ngoại ô Cormeil. Tôi sống ở đó lúc quân Phổ tiến vào.

Dạo ấy, cạnh nhà tôi có một bà như điên, đầu óc đã lú lẫn vì những vố bất hạnh. Ngày xưa, lúc hai mươi lăm tuổi, trong chỉ một tháng thôi, cha, chồng và đứa con sơ sinh của bà ta theo nhau chết cả.

Khi thần chết đã vào nhà ai một lần, thì nó luôn trở lại gần như tức thì, như thể nó đã quen lối.

Người phụ nữ trẻ đáng thương ấy bị quật ngã bởi phiền muộn, nằm liệt giường, hôn mê suốt sáu tuần lễ. Rồi sau đó, một thứ chán chường thầm lặng tiếp theo cơn khủng hoảng dữ dội đó, nên bà trở nên bất động, gần như không ăn uống gì, chỉ cử động đôi mắt mà thôi. Mỗi lần người ta muốn dựng bà dậy, bà thét la như thể sắp bị đem đi giết. Vì vậy, họ để bà luôn luôn ở trong tư thế nằm, chỉ nhấc bà ra khỏi giường để bà làm vệ sinh, và để thay nệm.

Một bà đầy tớ già luôn có mặt bên cạnh bà, thỉnh thoảng cho bà uống hoặc ngậm một ít thịt nguội. Cái gì đã xảy ra trong tâm hồn tuyệt vọng này? Người ta không bao giờ biết, vì bà không nói chuyện. Phải chăng bà nghĩ đến những người thân đã chết? Hay là bà tưởng nhớ vẩn vơ, mà không có một kỷ niệm nào rõ rệt? Hay trí óc đã bị huỷ hoại của bà đã trở nên thụ động như nước hồ ao?

Trong mười lăm năm trời, bà sống khép kín và bất động như thế.

Rồi chiến tranh ập đến; và trong những ngày đầu tháng mười hai, quân Phổ tiến vào Cormeil.

Tôi nhớ sự kiện này như thể nó vừa xảy ra ngày hôm qua. Trời băng giá ghê gớm, và chính tôi cũng phải nằm dài trên chiếc ghế phô tơi, vì căn bệnh thấp khớp làm tôi tê liệt. Lúc ấy, tôi nghe tiếng bước chân nặng nề và nhịp nhàng của họ nện trên đường. Qua cửa sổ, tôi trông thấy họ đi ngang.

Đoàn quân diễu hành dài vô tận, người nào cũng giống người nào, với động tác buồn cười đặc biệt của riêng họ, như những con rối. Rồi các vị chỉ huy phân công binh lính đến trọ ở nhà dân. Tôi nhận mười bảy người. Bà hàng xóm của tôi, mụ điên ấy, nhận mười hai người, trong đó có một viên thiếu tá, một con người thô lỗ, dữ dằn và cau có.

Trong những ngày đầu, mọi việc diễn ra bình thường. Người ta đã báo cho viên sĩ quan ấy biết rằng người đàn bà ấy đang bệnh; và ông ta chẳng mấy quan tâm đến việc đó. Nhưng chẳng bao lâu sau, người đàn bà mà người ta chưa bao giờ gặp từ lâu nay, làm ông ta bực tức, ông hỏi thăm bệnh tình; người ta trả lời rằng bà chủ nhà đã nằm liệt giường từ mười lăm năm nay, sau một cơn muộn phiền dữ dội. Nhưng có lẽ ông ta chẳng tin gì chuyện ấy, vả lại có ý nghĩ rằng người đàn bà mất trí đáng thương ấy không chịu rời khỏi giường vì lòng kiêu hãnh, để khỏi phải trông thấy binh lính Phổ, và khỏi phải trò chuyện với họ, khỏi phải tiếp xúc họ.

Ông ta yêu cầu bà tiếp đón ông; và người nhà của bà dẫn ông ta vào phòng. Ông ta hỏi bằng một giọng thật bất ngờ:

“Tôi yêu cầu pà ngồi dậy và tứng lên để mọi người nhìn pà.”

Bà nhìn ông ta với vẻ mặt mơ hồ, đôi mắt trống rỗng, và không đáp lại.

Ông ta lặp lại:

“Tôi sẽ không tha thứ tội hỗn láo tâu nhé. Nếu pà không tự nguyện tứng lên, thì tôi sẽ bìm piện pháp pắt pà phải đi một mình.”

Bà ta không nhúc nhích, vẫn nằm bất động, như thể bà không trông thấy hắn.

Hắn ta nổi khùng lên, và cho rằng sự im lặng ấy là biểu hiện của sự khinh bỉ tột cùng. Và hắn nói thêm:

“Ngày mai, nếu pà không chịu tứng lên…”

Đoạn hắn bỏ ra ngoài.

Ngày hôm sau, người tớ già thất kinh, muốn thay quần áo cho bà chủ; nhưng bà ta bỗng gào thét lên, vừa vùng vẫy quyết liệt. Viên sĩ quan leo nhanh lên lầu, và người đầy tớ bỗng quỳ sụp xuống và la lên:

“Bà ta không muốn. Thưa ông, bà ta không muốn. Xin ông hãy tha thứ cho bà ấy; bà ta đã quá đau khổ rồi.”

Hắn chợt bối rối; mặc dù đang giận dữ, nhưng hắn không dám sai lính kéo bà ta ra khỏi giường.

Nhưng bỗng hắn cười phá lên và ra lệnh bằng tiếng Đức.

Và một chốc sau, người ta thấy một phân đội đi ra, họ khiêng một tấm khăn trải giường như người ta khiêng thương binh, trên đó, họ không hề thay đổi chi, và người đàn bà điên vẫn luôn im lặng, bình thản, và dửng dưng với mọi biến cố, chừng nào họ còn để cho bà ta nằm. Một người đi sau mang một gói quần áo phụ nữ.

Và viên sĩ quan vừa tuyên bố vừa xoa hai tay vào nhau:

“Chúng tôi sẽ ra tay nếu pà không chịu tự thay quần áo và ti dạo một tí.”

Và người ta thấy đoàn người đi vào khu rừng Imauville.

Hai giờ sau, chỉ có bọn lính trở lại.

Mọi người không còn gặp lại người đàn bà điên. Họ đã làm gì bà ta? Họ mang bà đi đâu? Mọi người không bao giờ biết điều ấy.

Bấy giờ, tuyết rơi ngày đêm, chôn vùi cánh đồng và khu rừng dưới một lớp bọt giá băng. Lũ chó sói tiến vào tận cửa mọi nhà mà tru tréo.

Ý nghĩ về người đàn bà mất tích luôn ám ảnh tôi; và tôi đã chạy vạy mọi cách với nhà cầm quyền Phổ để biết tin tức của bà ta. Suýt tí nữa tôi bị đem đi xử bắn.

Mùa xuân trở lại. Đội quân chiếm đóng ra đi. Ngôi nhà của người láng giềng vẫn đóng im lìm; cỏ đã mọc dày đặc trong các lối đi.

Người đầy tớ già đã chết trong mùa đông vừa qua. Không ai còn quan tâm đến vụ ấy nữa; chỉ mỗi mình tôi luôn nghĩ đến nó.

Họ đã làm gì người đàn bà ấy? Hay bà ta đã bỏ trốn vào rừng? Và người ta đã nhặt bà ở đâu đó, và giữ bà trong một bệnh viện, mà không biết gì về bà? Không một giả thiết nào làm dịu mối nghi ngờ của tôi; nhưng dần dần, thời gian cũng xoa dịu nỗi lo lắng của lòng tôi.

Thế rồi, vào mùa thu tiếp theo, chim mỏ nhát bay về hàng đàn; và vì căn bệnh thấp khớp để cho tôi được yên đôi chút, nên tôi cố lết ra đến khu rừng. Tôi đã giết được bốn năm con chim mỏ dài này, và một con rơi mất tăm vào một hầm đầy cành cây. Tôi buộc phải xuống đó để nhặt con thú săn được. Tôi tìm thấy nó rơi gần một cái sọ người. Và thình lình, ký ức về người đàn bà điên ập đến trong ngực tôi như một cú đấm. Có lẽ có nhiều người khác đã chết trong khu rừng này, vào cái năm tai ương ấy; nhưng không hiểu tại sao, tôi tin chắc rằng, tôi cam đoan với các vị, tôi tin chắc rằng tôi đã gặp cái đầu của người đàn bà khốn khổ ấy.

Và tôi chợt hiểu ra, tôi chợt đoán ra tất cả. Bọn chúng đã bỏ bà ta trên chiếc khăn trải giường ấy, trong khu rừng lạnh lẽo và vắng vẻ; và vì trung thành với tư tưởng cố hữu của mình, bà ta để mặc cho cái chết mang mình đi, dưới lớp tuyết nhẹ như tơ, phủ đầy, và không thèm cử động chân tay.

Rồi lũ sói đến đánh chén xác bà ta.

Và chim chóc lấy tấm vải trải giường làm tổ.

Tôi giữ lại mẩu xương buồn thảm ấy. Và tôi mong muốn rằng con cháu chúng ta sẽ không bao giờ còn nhìn thấy chiến tranh nữa.

Trần Thanh Ái dịch