← Quay lại trang sách

Chương 25.

Berthe

(Berthe)

Ông bạn già của tôi (đôi khi người ta có bạn già hơn mình rất nhiều) là bác sĩ Bonnet thường mời tôi đến Riom chơi với ông một thời gian. Tôi chưa hề biết vùng Auvergne là gì, nên tôi quyết định đến thăm ông ta vào khoảng giữa mùa hè năm 1876.

Tôi đến đấy, trên một chuyến xe sáng, và khuôn mặt đầu tiên mà tôi bắt gặp trên bến nhà ga là khuôn mặt của vị bác sĩ. Ông ta vận đồ xám, đầu đội mũ đen, tròn, bằng dạ mềm, vành rộng, chóp mũ rất cao, và túm lại như ống khói lò sưởi, một thứ mũ của vùng Auvergne thực thụ, làm ta có cảm giác như đó là một gã đốt than. Ăn vận như thế, viên bác sĩ có vẻ như một thanh niên già cỗi, với thân hình mảnh mai trong bộ vét màu sáng, và cái đầu to tướng bạc trắng.

Anh ta ôm chầm lấy tôi với nỗi vui mừng lộ rõ ra mặt mà người dân tỉnh lẻ thường có mỗi khi thấy bạn bè thân thiết lâu ngày đến chơi, và vừa dang tay ra, anh vừa kêu lên đầy tự hào: “Đây là Auvergne!” Tôi chỉ thấy phía trước mặt là một dãy núi mà những đỉnh của nó giống như những chóp cụt, có lẽ ngày xưa chúng là những ngọn núi lửa.

Đoạn, đưa ngón tay lên chỉ hàng chữ được vẽ lên mặt tiền của nhà ga, anh trịnh trọng nói: “Riom, quê hương của các thẩm phán, niềm tự hào của nền pháp luật, và có lẽ đúng hơn, là quê hương của thầy thuốc.”

Tôi hỏi: “Sao vậy?”

Anh trả lời, vừa cười: “Tại sao à? Anh hãy đảo ngược tên của nó lại, và anh có chữ: ‘mori’* có nghĩa là chết… Anh bạn trẻ ạ, chính vì thế mà tôi đóng đô ở xứ nầy.” Và đắc ý vì câu khôi hài của mình, anh ta vừa xoa tay vừa kéo tôi đi.

Âm gần với từ mourir nghĩa là chết (Caruri).

Khi đã uống xong một tách cà phê sữa, chúng tôi đi thăm thành phố cổ. Tôi ngắm nghía ngôi nhà của viên dược sĩ, và những ngôi nhà nổi tiếng khác, màu đen, xinh xắn như những món hàng mỹ nghệ, với mặt tiền bằng đá được chạm trổ. Tôi ngắm nghía bức tượng Mẹ Đồng Trinh, bà tổ của giới hàng thịt, và về đề tài này thậm chí tôi còn nghe được cả một câu chuyện về cuộc phiêu lưu buồn cười, mà tôi sẽ kể lại vào một hôm khác. Đoạn, bác sĩ Bonnet bảo tôi: “Bây giờ, tôi xin anh năm phút để ghé thăm một nữ bệnh nhân, và sau đó tôi sẽ dẫn anh lên đồi Châtel-Guyon, để cho anh thấy tổng quan của thành phố, và cả rặng núi Puy-de-Dôme* trước khi ta dùng bữa. Anh có thể đứng đợi tôi ở vỉa hè, vì tôi lên một tí rồi xuống ngay thôi.”

Một địa danh nổi tiếng, sát thành phố Clermont-Ferrand.

Anh ta để tôi đứng đợi trước một khách sạn tỉnh lẻ, cổ kính, u ám, im lìm, lặng lẽ và ảm đạm. Hơn nữa, đối với tôi, cái khách sạn này có một vẻ mặt thảm hại đặc biệt, và chẳng mấy chốc tôi đã khám phá ra nguyên nhân. Tất cả những cửa sổ lớn của tầng một đều được che phân nửa, bởi những tấm sáo bằng gỗ dày. Chỉ có phần trên còn để mở, như thể người ta muốn ngăn cản những kẻ bị giam cầm trong cái hộp đá khổng lồ ấy không được trông ra đường.

Khi viên bác sĩ trở xuống, tôi cho anh biết nhận xét của tôi. Anh trả lời: “Anh không lầm đâu, con người đáng thương bị nhốt trong ấy không bao giờ được nhìn thấy những gì đang diễn ra ở bên ngoài. Đó là một bà điên, hoặc đúng hơn, là một người ngớ ngẩn, hoặc đúng hơn nữa, là một người giản đơn, mà dân Normandie các anh thường gọi là “kẻ dở hơi”.

“Chà! thế này, đây là một câu chuyện bi ai, và đồng thời cũng là một bệnh trạng kỳ lạ. Anh có muốn tôi kể lại chuyện này không?”

Tôi ưng thuận ngay. Anh ta nói tiếp:

*

Thế này. Cách nay hai mươi năm, ông bà chủ khách sạn này, là thân chủ của tôi, có một đứa con, một bé gái như tất cả những bé gái khác. Nhưng chẳng bao lâu sau, tôi nhận thấy rằng, nếu cơ thể của cô bé phát triển tuyệt vời, thì trí thông minh của cô ta lại trơ ra.

Cô bé biết đi rất sớm, nhưng cô tuyệt đối không nói được. Ban đầu, tôi cứ ngỡ là cô ta điếc; nhưng sau đó, tôi xác định rằng cô ta có khả năng nghe hoàn hảo, nhưng không hiểu gì hết. Những tiếng động mạnh làm cô giật mình, hoảng hốt, nhưng cô không hiểu vì sao.

Cô lớn lên; cô lộng lẫy và câm lặng, câm lặng vì thiếu trí thông minh. Tôi đã cố bằng mọi cách để nhét vào đầu cô một tia sáng trí tuệ mong manh; nhưng không có cách nào thành công. Tôi đã tưởng rằng cô ta đã có thể nhận ra người nuôi dưỡng mình; nhưng một khi đã đứt sữa, cô không còn nhận ra mẹ cô nữa. Cô không bao giờ biết nói tiếng: “Mẹ!”, cái tiếng mà những đứa bé tập tễnh nói lần đầu tiên trong cuộc đời, và những người lính thì thào lần cuối cùng trong cơn hấp hối trên bãi chiến trường. Đôi khi, cô ta cố bập bẹ, oa oa, ngoài ra không biết gì khác hơn.

Khi đẹp trời, cô cười luôn miệng, vừa thốt lên những tiếng kêu khẽ khàng mà ta có thể ví với tiếng líu lo của chim chóc; khi trời mưa, cô ta khóc lóc và rên rỉ một cách não nề, ghê rợn, giống như tiếng tru tréo của loài chó khi có người vừa lìa đời.

Cô bé thích lăn lộn trên cỏ theo kiểu của các con thú non, và vụt chạy như một bà điên; và mỗi sáng, khi thấy ánh nắng tràn vào phòng, cô bé vui mừng vỗ tay. Khi người ta mở cửa sổ phòng cô, cô nằm trên giường vừa vùng vẫy và vỗ tay, để người ta thay đồ cho cô ngay tức khắc.

Mặt khác, dường như cô không thể phân biệt được mọi người trong nhà, giữa mẹ cô và chị ở, giữa cha cô và tôi, giữa bác đánh xe và chị bếp.

Tôi quý cha mẹ cô ta, những người quá đỗi bất hạnh, và gần như ngày nào tôi cũng đến thăm họ. Tôi cũng rất thường ăn tối ở nhà họ, và điều đó cho phép tôi nhận thấy rằng Berthe (người ta đặt tên cho cô là Berthe) dường như nhận ra các món ăn, và thích món này hơn món kia.

Dạo ấy, cô ta được mười hai tuổi. Nhưng cô ta đã đầy đặn như một cô gái mười tám tuổi, và cao lớn hơn tôi.

Vì thế, tôi chợt nghĩ đến việc kích thích tính háo ăn của cô, và bằng cách này, tôi thử nhét vào đầu cô khái niệm về những sự dị biệt nho nhỏ, những sự khác nhau về vị giác, về mùi vị, nếu không nhờ ở lý trí thì ít ra cũng có thể nhờ bản năng để giúp cô phân biệt được, và những thứ ấy sẽ có thể tạo thành một thứ hoạt động vật chất của tư duy.

Sau đó, khi khơi dậy những đam mê của cô ta, và khi chọn lựa kỹ càng những thứ đam mê nào có thể giúp ích chúng tôi, chúng tôi sẽ có thể đạt được một thứ phản ứng ngược lại từ cơ thể đến trí tuệ, và dần dần nâng lên hiệu quả hoạt động âm thầm của não bộ của cô.

Vì vậy, một hôm, tôi đặt trước mặt cô ta hai đĩa, một đựng xúp, một đựng kem va-ni thật ngọt. Và tôi cho cô ta lần lượt nếm thử từng đĩa một. Đoạn, tôi để cô tự do chọn lựa. Cô ta ăn đĩa kem.

Trong một khoảng thời gian ngắn, tôi biến cô trở thành một người rất tham ăn, tham ăn đến độ dường như trong đầu cô không có gì khác ngoài ý nghĩ, hoặc đúng hơn, lòng ham muốn được ăn. Cô nhận diện các món ăn một cách tuyệt vời, cô chìa tay ra với những món mà cô thích, và ăn ngấu ăn nghiến. Khi người ta lấy thức ăn đi thì cô khóc lóc.

Thế rồi, tôi nghĩ đến việc dạy cô đến phòng ăn khi nghe tiếng chuông rung. Công việc này mất nhiều thời gian; tuy nhiên tôi cũng đã đạt được. Rõ ràng rằng trong trí óc mơ hồ của cô có một mối quan hệ hỗ tương giữa âm thanh và vị giác, nghĩa là một mối liên quan giữa hai giác quan, giác quan này khêu gợi giác quan kia, và vì thế, đó là một thứ liên tưởng - nếu ta có thể gọi cái thứ gạch nối bản năng giữa hai cơ quan chức năng này là ý tưởng.

Tôi còn đưa những thí nghiệm của tôi xa hơn nữa, và tôi đã dạy cô ta - với biết bao là khó nhọc! - nhận ra giờ ăn trên mặt đồng hồ treo tường.

Trong một thời gian khá lâu, tôi bất lực trước việc gây cho cô ta niềm thích thú với các chiếc kim đồng hồ, nhưng tôi cũng thành công trong việc giúp cô lưu ý đến tiếng chuông điểm giờ. Biện pháp áp dụng thật đơn giản: tôi đem giấu cái chuông rung và khi chiếc búa nhỏ bằng đồng điểm mười hai giờ, thì mọi người đứng lên đi ngồi vào bàn ăn.

Chẳng hạn, tôi đã cố gắng một cách vô vọng để dạy cho cô đếm tiếng gõ. Mỗi khi cô nghe âm thanh ấy, cô bổ nhào về phía phòng ăn; nhưng rồi dần dần, cô cũng hiểu được rằng những tiếng chuông ấy không có cùng một ý nghĩa đối với bữa ăn, và mắt cô, được đôi tai hướng dẫn, luôn luôn dán chặt vào mặt đồng hồ.

Khi nhận thấy thế, mỗi ngày vào giữa trưa và sáu giờ chiều, tôi cẩn thận đến đặt ngón tay vào con số 12 và 6, liền ngay khi thời điểm mà cô chờ đợi đã đến; và chẳng mấy chốc tôi nhận ra rằng cô ta chăm chú theo dõi sự di chuyển của những chiếc kim bằng đồng mà tôi đã thường cho nó quay trước mặt cô.

Cô ta đã hiểu! Đúng hơn, tôi phải nói rằng: Cô ta đã nắm bắt được. Tôi đã thành công trong việc cấy vào đầu cô sự hiểu biết, hoặc đúng hơn, cảm giác về giờ giấc, cũng như người ta đã thành công khi tập cho cá chép ăn mỗi ngày, đúng vào một giờ nhất định, mà không dùng đến đồng hồ.

Một khi đã đạt được kết quả ấy, thì tất cả đồng hồ có sẵn trong nhà đều làm cô ta chăm chú cực kỳ. Cô ngồi suốt ngày để nhìn chúng, lắng nghe chúng, và chờ đợi giờ ăn đến. Thậm chí đã xảy ra một việc khá buồn cười. Bộ phận đánh chuông của chiếc đồng hồ kiểu Louis XVI treo ở đầu giường cô ta bị rối, cô ta nhận ra điều đó. Cô chờ đồng hồ báo mười giờ từ hai mươi phút trước đó, mắt dán chặt vào chiếc kim. Nhưng khi cây kim đã qua khỏi con số mà cô không nghe thấy gì, cô bỗng hốt hoảng, hốt hoảng đến độ cô ngồi phệt xuống, có lẽ trong lòng bị xáo trộn bởi những xúc động dữ dội, như khi ta đứng trước những tai ương vô vàn, và cô ngồi lì trước cái đồng hồ với một lòng kiên nhẫn kỳ lạ, cho đến mười một giờ, để nhìn xem cái gì sẽ xảy ra. Dĩ nhiên là cô lại không nghe thấy gì; thế là cô ta bị xâm chiếm hoặc bởi một cơn nổi giận điên cuồng của kẻ bị đánh lừa và bị nhụt chí, hoặc bởi một nỗi kinh hoàng của một sinh vật bị hốt hoảng trước một sự việc huyền bí đáng sợ, hoặc bởi lòng nôn nóng điên cuồng của một con người đam mê gặp phải mọi chướng ngại nào đấy, cô bèn chộp lấy cái kẹp cời than lò sưởi và đập chiếc đồng hồ mạnh đến nỗi chỉ trong một giây, nó đã bể ra thành từng mảnh.

Vậy là não bộ của cô hoạt động, tính toán, dĩ nhiên là bằng một cách mơ hồ, và trong một giới hạn rất hẹp, vì tôi không thành công trong việc giúp cô ta phân biệt con người như cô đã phân biệt giờ giấc. Để cho cô có một sự vận động trí tuệ, tôi phải khêu gợi đến những đam mê của cô, với ý nghĩa vật chất của từ này.

Chẳng bao lâu, chúng tôi đã có một chứng cớ khác, nhưng than ôi! thật là khủng khiếp.

Cô ta trở nên lộng lẫy; đó quả thật là một mẫu người lý tưởng, một thứ nữ thần sắc đẹp đáng kinh ngạc và ngốc nghếch.

Bấy giờ cô ta mười sáu tuổi, và hiếm khi nào tôi được thấy một thân hình hoàn hảo, một đường nét uyển chuyển và cân đối đến như vậy. Tôi nói đó là một nữ thần sắc đẹp, vâng, một nữ thần sắc đẹp tóc vàng đầy đặn, tràn đầy sinh lực, với đôi mắt to trong sáng và vô tư, xanh như hoa gai, và chiếc miệng rộng với đôi môi tròn mọng, một cái miệng của kẻ háu ăn, của kẻ đam mê nhục dục, một cái miệng dành cho những nụ hôn.

Thế là, một buổi sáng nọ, cha cô ta đến nhà tôi với gương mặt lạ thường, và vừa ngồi xuống, không kịp đáp lại lời chào của tôi, ông ta nói:

“Tôi đến nói với ông một việc vô cùng hệ trọng. Ta có thể… có thể gả Berthe được không?”

Tôi giật nẩy người vì kinh ngạc, và kêu lên:

“Gả Berthe ư? Nhưng không được đâu!”

Ông ta nói tiếp: “Vâng… tôi biết… nhưng thưa bác sĩ, ông hãy nghĩ xem… chính vì… có lẽ… chúng tôi đã hy vọng… nếu cháu nó có con… có thể đó sẽ là một cú chấn động mạnh mẽ, một niềm hạnh phúc lớn lao và… biết đâu rằng trí óc của cháu sẽ thức dậy trong tình mẫu tử?”

Tôi vô cùng bối rối. Đúng vậy. Có thể cái điều quá mới lạ này, cái bản năng đáng khâm phục của các bà mẹ vẫn luôn phập phồng trong con tim của loài thú cũng như của phụ nữ, cái bản năng đã khiến con gà mái lao mình vào trước mõm chó để bảo vệ đàn con, bản năng ấy sẽ dẫn đến một cuộc cách mạng, một sự đảo lộn trong cái đầu ù lì này, và sẽ làm cho bộ máy bất động của trí tuệ này hoạt động.

Vả lại, tôi cũng nhớ ngay một kinh nghiệm bản thân. Vài năm trước đây, tôi có nuôi một con chó săn nhỏ, nó ngốc nghếch đến nỗi tôi chẳng nhờ vả được gì ở nó. Rồi nó có con, và trong một thời gian ngắn, nó trở nên bình thường như những con chó bình thường khác.

Vừa thoáng nhận ra khả năng này, lập tức trong lòng tôi nẩy nở niềm mong muốn gả Berthe, không phải vì tình bạn của tôi đối với cô ta và cha mẹ cô, mà vì tính tò mò khoa học. Chuyện gì sẽ xảy ra? Đó là một bài toán lạ kỳ!

Vì thế, tôi trả lời cha cô ta:

“Có lẽ ông có lý… ta có thể thử xem. Thử… nhưng… nhưng… ông sẽ không bao giờ tìm được một cậu thanh niên nào chấp nhận tình trạng này.”

Ông ta hạ giọng nói:

“Tôi đã có người.”

Tôi kinh ngạc và ấp úng: “Một người sạch sẽ?… một người trong giới của ông chứ?…”

Ông ta trả lời: “Vâng, hoàn hảo.”

“Chà! Và… tôi có thể biết tên anh ta được chứ?”

“Tôi đến đây để nói cho ông biết điều đó, và để tham khảo ý kiến ông. Đó là ông Gaston du Boys de Lucelles.”

Tôi suýt kêu lên: “Thằng khốn nạn đó à?” nhưng ghìm lại được, và sau một lúc im lặng, tôi nói chậm rãi:

“Vâng, khá lắm. Tôi chẳng thấy điều chi bất lợi.”

Người đàn ông tội nghiệp ấy siết chặt tay tôi, và nói: “Chúng tôi sẽ gả cháu vào tháng tới.”

Ông Gaston du Boys de Lucelles là một tay vô lại trong một gia đình giàu có; vì đã ăn hết số tiền thừa kế do cha để lại, và đã mang nợ nần do nghìn cách chi tiêu thô bỉ, nên hắn ta tìm một phương kế mới bất kỳ nào, để moi tiền.

Và hắn đã tìm ra cách này.

Bảnh trai, tràn trề sinh lực, nhưng lại trác táng, một hạng người trác táng đê tiện ở tỉnh lẻ, hắn hứa hẹn sẽ trở thành một người chồng hợm hĩnh mà người ta sẵn sàng tống khứ ngay sau đó với một món tiền cấp dưỡng.

Hắn đến ngôi nhà này để tán tỉnh và xun xoe trước mặt cô gái trẻ đẹp nhưng đần độn này, nhưng lại có vẻ hợp nhãn hắn. Hắn mang hoa đến, hôn tay cô, ngồi xuống dưới chân cô, và nhìn cô bằng đôi mắt trìu mến; nhưng cô chẳng để ý gì đến sự săn đón của hắn, và không hề phân biệt được hắn ta với những người khác đang sống chung quanh cô ta.

Rồi đám cưới được tiến hành.

Anh có biết trí tò mò của tôi tập trung ở đâu không?

Ngày hôm sau, tôi đến thăm Berthe, để rình xem trên gương mặt cô ta có thể hiện điều gì rung động trong lòng không. Nhưng tôi vẫn thấy cô giống như mọi hôm, lúc nào cũng chỉ quan tâm đến chiếc đồng hồ và bữa ăn. Còn hắn, ngược lại, hắn có vẻ mê mẩn, và tìm cách kích thích sự vui vẻ và âu yếm của vợ bằng những trò vặt vãnh và nũng nịu mà người ta thường làm với những tình nhân trẻ.

Hắn cũng chẳng tìm được gì khá hơn.

Thế rồi tôi bắt đầu lui tới thường xuyên với cặp vợ chồng mới, và chẳng mấy chốc tôi nhận ra rằng người đàn bà trẻ đẹp ấy biết nhận ra chồng mình, và thường ném về phía anh ta những tia mắt thèm khát mà trước kia cô ta chỉ có đối với những món ăn ngọt.

Cô theo dõi những động tác của chồng, phân biệt bước chân của hắn trên cầu thang hay trong phòng bên cạnh, và vỗ tay khi hắn bước vào phòng, gương mặt đổi sắc của cô ánh lên một ngọn lửa khát khao và hạnh phúc sâu sắc.

Cô ta yêu hắn bằng cả thể xác lẫn tâm hồn, cái tâm hồn tàn tật đáng thương ấy, với cả con tim, con tim tội nghiệp của loài thú biết ơn.

Đó quả thật là một hình ảnh đáng khâm phục và ngây ngô của sự đam mê bình dị, của thú đam mê xác thịt nhưng thánh thiện, như khi tạo hoá đã đặt nó vào các loài sinh vật trước khi loài người làm cho nó phức tạp và biến dạng đi bằng tất cả những sắc thái của tình cảm.

Nhưng hắn nhanh chóng chán nản cái sinh linh đẹp đẽ và nồng nhiệt, nhưng câm lặng ấy. Ban ngày, hắn chỉ còn ở bên cô vài giờ đồng hồ, vì cho rằng dành cho cô trọn đêm là đã đủ rồi.

Và cô bắt đầu đau khổ.

Cô chờ đợi hắn, từ sáng đến tối, mắt luôn dán chặt vào chiếc đồng hồ treo tường, bây giờ cô ta không còn quan tâm đến giờ ăn nữa, vì hắn luôn ăn ở ngoài, ở Clermont, ở Châtel-Guyon, ở Royat, ở bất cứ nơi nào để không phải trở về nhà.

Mọi ý nghĩ khác, mọi ham muốn khác, mọi chờ đợi khác, mọi hy vọng mơ hồ khác đều biến mất trong đầu cô; và những lúc mà cô không nhìn thấy hắn, trở thành khoảng thời gian đau khổ tột cùng. Chẳng bao lâu sau, hắn ta không về nhà ngủ nữa. Hắn ở suốt đêm bên sòng bạc ở Royat với bọn gái chơi, và chỉ trở về nhà khi bình minh vừa hé dạng.

Cô không chịu lên giường nằm trước khi hắn trở về. Cô ngồi bất động trên ghế, mắt như mông lung vào những chiếc kim bé tí bằng đồng đang xoay, xoay chậm chạp và đều đặn, quanh mặt số bằng sứ.

Cô ta nghe tiếng vó ngựa xa xăm và bật đứng lên, rồi, khi hắn bước vào phòng, bằng một cử chỉ ma quái, cô đưa ngón tay chỉ lên đồng hồ, như thể muốn nói với hắn: “Anh nhìn xem kìa, trễ quá rồi.” Và hắn bắt đầu sợ hãi trước người đàn bà đần độn nhưng đa tình và ghen tuông này. Hắn ta phát cáu lên như những kẻ thô lỗ khác thường làm. Một tối nọ, hắn đánh cô ta.

Người ta đến tìm tôi. Cô ta vừa la hét vừa vùng vẫy, trong một cơn khủng hoảng ghê gớm của nỗi đau của lòng căm giận, và của đam mê, tôi biết gì nhỉ? Người ta có thể đoán ra được những gì đang diễn ra trong khối óc thô thiển này không?

Tôi chích cho cô ta một mũi moọc-phin để trấn tĩnh cô; và tôi cấm cô gặp lại hắn ta, vì tôi hiểu rằng cuộc hôn nhân ấy chắc chắn sẽ đưa cô đến cái chết.

Thế là cô ta điên! Vâng, ông bạn thân mến ạ, người đàn bà đần độn ấy đã điên. Cô ta luôn nghĩ đến hắn, và chờ đợi. Cô chờ đợi hắn không thôi, suốt ngày, suốt đêm, dù là đang thức hay thiếp ngủ, ngay cả trong lúc này. Vì thấy cô gầy đi, gầy đi nhiều, và vì ánh mắt bướng bỉnh của cô không hề rời khỏi mặt đồng hồ, nên tôi phải cho người đem tất cả dụng cụ đo thời gian ra khỏi nhà.

Như thế là tôi tước mất của cô khả năng đếm giờ giấc, khả năng tìm kiếm không ngừng nghỉ, trong những ký ức tối tăm mông muội, cái lúc mà ngày xưa hắn thường trở về. Về lâu về dài, tôi hy vọng là sẽ giết chết trong cô những kỷ niệm, sẽ dập tắt cái ánh sáng leo lét của trí tuệ mà tôi đã khổ công nhen nhúm.

Và một hôm, tôi đã làm thử một thí nghiệm. Tôi tặng cô ta chiếc đồng hồ đeo tay của tôi. Cô ta cầm lấy, xem xét nó một hồi lâu; rồi cô bắt đầu kêu lên một cách ghê rợn, như thể cái dụng cụ nhỏ bé này bất thần đánh thức cái trí nhớ đã bắt đầu thiếp ngủ của cô.

Ngày nay, cô ta gầy gò đi, gầy gò đến đáng thương, đôi mắt lõm sâu nhưng vẫn long lanh. Và cô cứ đi đi lại lại luôn trong phòng, như những con thú bị nhốt trong chuồng.

Tôi cho người rào các cửa sổ lại, treo các tấm sáo thật cao và đính chặt các ghế ngồi xuống sàn nhà, để không cho cô nhìn ra ngoài đường xem hắn ta trở về chưa!

Ồ! Cha mẹ cô thật đáng thương! Họ phải sống một cuộc đời khốn khổ biết dường bao!

*

Chúng tôi đi đến ngọn đồi; anh bạn bác sĩ quay người lại và nói với tôi: “Anh hãy nhìn Riom từ đây xem.”

Thành phố ảm đạm này có vẻ như những đô thị xưa. Phía sau là một cánh đồng trải rộng hút tầm mắt, xanh rờn, có cây cối mọc um tùm và rải rác những ngôi làng và đô thị, và đắm chìm trong một màn hơi nước mịn màng xanh xanh, làm cho chân trời thêm quyến rũ. Phía bên phải, xa xa là những dãy núi trải dài, với một loạt những đỉnh núi tròn trịa hoặc phẳng lì như sống gươm.

Viên bác sĩ bắt đầu điểm qua các làng mạc và các ngọn núi, vừa kể lại lịch sử của chúng cho tôi nghe.

Nhưng tôi không nghe thấy gì cả, tôi chỉ nghĩ đến người đàn bà điên ấy, tôi chỉ thấy mỗi mình cô mà thôi. Dường như cô ta đang lượn lờ trên khắp vùng đất này, như một hồn ma.

Và bất thần tôi hỏi:

“Còn hắn thì sao? người chồng ấy?”

Anh bạn tôi hơi ngạc nhiên, và sau một lúc do dự, anh trả lời:

“Hắn ta sống ở Royat với số tiền trợ cấp của gia đình cô ấy. Hắn sung sướng, hắn vui chơi phè phỡn.”

Lúc chúng tôi chầm chậm trở về, lòng trĩu nặng, cả hai đều lặng lẽ, thì một chiếc xe ngựa kiểu Anh từ sau lưng vụt nhanh qua mặt chúng tôi, do một con ngựa nòi kéo.

Viên bác sĩ nắm lấy cánh tay tôi và nói:

“Hắn kia kìa!”

Tôi chỉ còn thấy một chiếc mũ bằng nỉ xám, đội trễ xuống một bên tai nằm trên đôi vai rộng, rồi biến mất vào trong đám bụi mù.

Trần Thanh Ái dịch