← Quay lại trang sách

Chương 35.

Cái ô

(Le parapluie)

Tặng Camille Oudinot

Mụ Oreille là người tằn tiện. Mụ biết giá trị từng đồng xu và có cả một mớ nguyên tắc nghiêm ngặt về việc làm cho tiền bạc sinh sôi nảy nở. U già khó lòng mà xà xẻo được tiền chợ, và ông Oreille xin được ít tiền tiêu vặt thật cũng vô cùng trầy trật. Mà nào họ có túng thiếu gì đâu, hai vợ chồng sống sung túc, lại không con cái. Nhưng mụ Oreille cứ nhìn những đồng bạc trắng ra khỏi nhà mụ là cảm thấy đau đớn thật sự, tựa hồ xé ruột xé gan. Và mỗi lần bắt buộc phải tiêu một món gì hơi to to, mặc dù cần thiết, là y như đêm hôm sau mụ ngủ không yên giấc.

Ông Oreille thường nhắc vợ luôn:

“Mình nên nơi nới tay một chút mới phải, chúng ta có bao giờ phải đụng đến lợi tức đâu.”

Mụ trả lời:

“Biết đâu có chuyện gì xảy ra. Có thừa còn hơn thiếu.”

Mụ là một người đàn bà bé nhỏ, bốn mươi tuổi, lanh lợi, nhăn nheo, sạch sẽ và thường hay cáu kỉnh.

Chồng mụ lúc nào cũng kêu ca về nỗi mụ bắt ông ta kham khổ thiếu thốn nhiều thứ. Có những cái làm ông đặc biệt khó chịu, vì nó thương tổn đến sĩ diện của ông.

Ông là tham biện thượng hạng tại Bộ chiến tranh, ông làm việc ở đây chỉ vì nghe theo ý vợ, cốt tăng thêm món lợi tức đồng niên không dùng đến của gia đình.

Thế mà hai năm liền, ông đến bàn giấy, vẫn đem theo một cái ô vá ấy, làm trò chơi cho bọn đồng sự. Sau cùng không chịu được những câu bông đùa của họ, ông đòi mụ phải sắm cho ông một cái ô mới. Mụ đi mua một chiếc giá tám quan rưỡi, hàng bán quảng cáo của một hiệu buôn lớn. Anh em nhân viên trông thấy cái của đó, tung ra bán có tới hàng ngàn chiếc ở Paris, lại đùa cợt, làm ông Oreille đau khổ vô cùng. Cái ô chẳng ra gì cả, mới ba tháng đã hỏng không dùng được nữa, và trong khắp Bộ ai cũng cười. Thậm chí họ đặt cả một bài vè, hát nheo nhéo từ sáng đến chiều, suốt từ trên chí dưới toà nhà lớn mênh mông.

Tức quá, ông Oreille ra lệnh cho vợ chọn cho ông một cái ô mới, bằng lụa mỏng, giá hai mươi quan, và phải đem hoá đơn về làm chứng.

Mụ mua một cái mười tám quan và, khi giao nó cho ông, mụ tức giận đỏ mặt tía tai, tuyên bố:

“Cái này thì ông phải dùng ít nhất là năm năm đấy.”

Ông Oreille hớn hở, được một phen đắc thắng thực sự ở sở.

Buổi chiều, khi ông trở về, vợ ông lo lắng nhìn cái ô bảo ông:

“Ông đừng đem bó chặt nó lại bằng dây chun mới được, như thế chỉ tổ cứa rách lụa. Ông phải để ý giữ gìn, còn là lâu tôi mới mua cho ông cái khác.”

Mụ cầm lấy ô, tháo vòng chun và giũ giũ các nếp gấp. Nhưng mụ bỗng ngẩn người ra. Mụ trông thấy một lỗ tròn, to bằng đồng xu, ở giữa ô. Một vết cháy vì tàn thuốc xì-gà.

Mụ lắp bắp:

“Làm sao thế này?”

Ông chồng bình tĩnh trả lời, không nhìn:

“Ai? Cái gì cơ? Mình định nói gì?”

Cơn giận bây giờ ứ lên đến cổ, mụ không nói được nữa:

“Ông… ông… ông đã làm cháy… cái… cái ô… Ông… ông điên hay sao?… Ông định phá tán cơ nghiệp à?”

Ông chồng quay lại, cảm thấy mình tái mặt:

“Mình bảo sao?”

“Tôi bảo là ông đã làm cháy cái ô. Đây này!…”

Và, bổ đến như để đánh ông, mụ gí vào tận mũi ông cái vết cháy nhỏ tròn tròn.

Ông bàng hoàng trước vết thương đó, ấp úng:

“Cái này, cái này… cái gì thế này? Quả là tôi không biết! Tôi chả làm gì cả, chả làm gì cả, tôi xin thề với mình. Thực tôi không biết làm sao cái ô lại ra như vậy.”

Bây giờ thì mụ hét ầm lên:

“Tôi đánh cuộc là ở Sở, ông đã đem nó ra làm trò hề, làm trò leo dây múa rồi, mở nó ra khoe chứ gì.”

Ông đáp.

“Tôi chỉ mở nó ra có một lần để phô nó đẹp. Thế thôi. Tôi thề với mình như vậy.”

Nhưng mụ điên cuồng giãy lên đành đạch và sỉ vả ông chồng một trận, như những trận vợ chồng xô xát khiến một người đàn ông tính ưa sống yên tĩnh phải thấy cảnh gia đình là đáng sợ hơn một bãi chiến trường khói đạn tơi bời.

Mụ vá lại bằng một mảnh lụa cắt ở cái ô cũ, khác màu; và hôm sau ông Oreille tiu nghỉu đi làm với chiếc ô vá. Ông bỏ nó vào trong tủ và chỉ còn nghĩ đến nó như nghĩ đến một kỷ niệm không vui.

Nhưng chiều tối, ông vừa về đến nhà thì vợ ông giằng ngay lấy cái ô, mở nó ra xem tình hình thế nào và tức uất lên trước một tai hoạ không tài nào cứu vãn được. Cái ô lỗ chỗ những lỗ thủng nho nhỏ rõ ràng là bị cháy, như thể người ta trút lên đó tàn một tẩu thuốc đang đỏ. Thế là hỏng, hỏng không chữa được.

Mụ ngắm nhìn, chẳng nói chẳng rằng, giận quá không thốt ra được một tiếng. Còn ông, ông cũng nhận thấy sự tai hại và đứng ngây thuỗn ra đó, kinh hoảng, sững sờ.

Rồi hai người nhìn nhau; rồi ông cụp mắt xuống; rồi mụ ném cái ô thẳng vào mặt ông; rồi mụ hét lên, trong một cơn tức giận điên cuồng, lại bật lên tiếng nói:

“À! đồ khốn kiếp! đồ khốn kiếp! Ông cố tình làm vậy! Nhưng rồi ông biết tay tôi! Ông sẽ không có ô nữa…”

Và trận sỉ vả lại tái diễn. Sau một tiếng đồng hồ bão táp, cuối cùng ông mới phân trần được. Ông thề rằng ông chẳng hiểu ra sao cả; rằng đây hẳn chỉ là chuyện ác ý hay thù hằn mà thôi.

Một tiếng chuông gọi cửa giải thoát cho ông. Có một ông bạn đến ăn bữa tối ở nhà.

Mụ Oreille đem chuyện ra kể với ông bạn. Còn như mua một chiếc ô mới, thì đừng hòng, chồng mụ sẽ không có ô nữa.

Ông bạn nói, lý nghe cũng phải:

“Thế thì, bà ạ, ông nhà sẽ hỏng hết quần áo, mà quần áo thì hẳn là đắt tiền hơn.”

Mụ vợ, vẫn tức tối, trả lời:

“Thế thì ông ấy lấy cái ô nhà bếp mà dùng, chứ tôi chẳng cho ông ấy một chiếc mới bằng lụa đâu.”

Nghe đến thế, ông Oreille phản đối:

“Thế thì tôi xin từ chức cho mà xem! Chứ nhất định là tôi không có đi đến Bộ với một chiếc ô nhà bếp.”

Ông bạn lại nói:

“Đem cái ô kia đi mà lợp lại, chẳng tốn bao nhiêu đâu.”

Mụ Oreille lộn ruột, nhấm nhẳng:

“Đem lợp lại phải mất ít nhất tám quan. Tám quan với mười tám, vị chi hai mươi sáu! Hai mươi sáu quan một cái ô, có mà điên! Có mà loạn óc!”

Ông bạn, thị dân nghèo, chợt nảy ra một ý kiến:

“Hay bắt hãng bảo hiểm trả tiền. Các công ty bồi thường các đồ vật bị cháy đấy, miễn là tai hoạ xảy ra ở nhà bà.”

Nghe câu mách nước, mụ vợ nguôi ngay cơn giận, rồi sau một phút suy nghĩ, mụ bảo chồng:

“Ngày mai, trước khi đi tới Bộ, ông hãy đến văn phòng hãng Bảo mẫu đưa họ xác nhận tình trạng cái ô và đòi họ trả tiền.”

Ông Oreille giãy nảy lên.

“Tôi chả đời nào dám làm thế! Cứ cầm bằng là mất đứt mười tám quan, có thế thôi. Chẳng chết nào.”

Và hôm sau ông ra đi với một chiếc ba-toong. May sao hôm ấy lại đẹp trời.

Ở nhà một mình, mụ Oreille cứ tiếc mãi mười tám quan. Cái ô đặt trên bàn ở phòng ăn, và mụ cứ loay hoay đi quanh, mà không sao quyết định được bề nào.

Mụ luôn luôn nghĩ đến hãng bảo hiểm, nhưng lại cũng không dám đương đầu với những cái nhìn giễu cợt của mấy ông ở hãng sẽ tiếp mụ, vì trước mặt mọi người thì mụ rút rát, động một tí là đỏ mặt, hễ phải nói chuyện với người lạ là y như lúng túng.

Nhưng tiếc số tiền mười tám quan, mụ đau như đứt ruột. Mụ không muốn nghĩ đến nữa, nhưng ý nghĩ mất tiền cứ lởn vởn trong đầu, hành hạ mụ khổ sở. Nhưng biết làm thế nào đây? Hết giờ ấy đến giờ khác qua đi, mụ không nhất quyết được điều gì. Rồi, bất thình lình, như những kẻ nhát bỗng trở thành gan dạ, mụ quyết định.

“Ta cứ đi, xem ra sao nào!”

Nhưng trước hết mụ cần chuẩn bị cái ô sao cho tai hoạ thành trọn vẹn và câu chuyện dễ nói. Mụ lấy một que diêm trên lò sưởi và đốt cháy hẳn một miếng rộng bằng bàn tay, giữa các gọng ô; rồi mụ nhẹ nhàng quấn chỗ lụa còn lại, buộc lại bằng dây chun, đeo khăn quàng, đội mũ vào, rồi vội vã đi xuống phố Rivoli là phố của hãng bảo hiểm.

Song đi càng đến gần, mụ càng chậm bước lại. Mụ sẽ nói gì đây? Họ sẽ trả lời mụ thế nào?

Mụ nhìn các số nhà. Còn hai mươi tám nhà nữa. Được lắm! Mụ còn có thể suy nghĩ. Mụ bước mỗi lúc một thong thả hơn. Chợt mụ giật mình. Cửa hàng đây rồi, trên có những chữ vàng lấp lánh: “Bảo mẫu, Công ty Bảo hiểm chống hoả hoạn.” Đến rồi kia à? Mụ dừng lại một giây, lo lắng, ngượng ngùng, rồi đi quá lên, rồi quay lại, rồi lại đi quá, rồi lại quay lại lần nữa.

Cuối cùng, mụ tự bảo:

“Thì bề nào cũng cứ phải đến. Sớm còn hơn muộn.”

Nhưng khi bước vào trong nhà, thì mụ thấy trống ngực đập thình thình.

Mụ vào một căn phòng rộng có những cửa ghi-sê khắp chung quanh, ở mỗi ghi-sê thấy đầu một người đàn ông, mình bị che lấp sau một lần rào mắt cáo.

Bỗng có một ông cầm giấy tờ xuất hiện. Mụ dừng lại và nói khẽ, giọng rụt rè:

“Xin lỗi ông, ông làm ơn cho biết phải hỏi ở đâu để xin hoàn tiền những đồ vật bị cháy?”

Ông ta trả lời, tiếng sang sảng:

“Gác hai, tay trái, phòng tai nạn.”

Câu này càng làm cho mụ sợ hơn; và mụ có ý muốn bỏ chạy, không nói gì hết, đành hy sinh mười tám quan của mụ. Nhưng nghĩ đến món tiền đó, mụ lại mạnh bạo lên một chút, và mụ thở hổn hển leo lên thang gác, cứ mỗi bậc lại dừng lại một lát.

Lên đến gác hai, mụ thấy một cái cửa, mụ gõ cửa. Một giọng nói trong trẻo kêu lên:

“Cứ vào!”

Mụ bước vào và thấy một căn phòng lớn có ba ông đeo huân chương, dáng điệu trịnh trọng, đứng đó, đang nói chuyện.

Một ông hỏi mụ:

“Thưa bà, bà muốn hỏi gì ạ?”

Mụ không biết nói ra sao nữa, mụ lúng búng:

“Tôi đến… tôi đến… vì… vì một tai nạn.”

Ông đó lễ phép chỉ một cái ghế:

“Xin mời bà ngồi, một phút nữa tôi xin hầu chuyện bà.”

Rồi, quay lại phía hai ông kia, ông ta tiếp tục câu chuyện.

“Thưa các ngài, đối với các ngài, Công ty cho là chỉ bị ràng buộc không quá bốn trăm ngàn quan. Chúng tôi không thể chấp nhận yêu sách của các ngài về số tiền một trăm ngàn quan mà các ngài bắt chúng tôi phải trả thêm. Vả chăng sự đánh giá…”

Một trong hai ông kia ngắt lời ông ta:

“Thôi thế là đủ, thưa ông, toà án quyết định. Chúng tôi chỉ còn có việc xin cáo lui.”

Và hai người cùng đi ra sau khi trịnh trọng chào đi chào lại mấy lần.

Trời! giá thử mụ dám bỏ ra cùng với họ thì mụ sẽ đi ngay; mụ sẽ chạy trốn, bỏ mặc tất cả! Nhưng mụ có thể làm thế được không? Ông kia trở lại và nghiêng mình:

“Thưa bà, chúng tôi được hầu bà chuyện gì đây?”

Mụ khó khăn mới ấp úng được:

“Tôi đến vì… vì cái này.”

Ngạc nhiên ngớ người, ông giám đốc cúi nhìn cái vật mụ đưa ra.

Bàn tay run run, mụ cố tháo cái dây chun. Sau một lúc cố gắng, mụ tháo được và bỗng mở bung cái bộ gọng rách mướp trơ xương của chiếc ô.

Ông kia nói, giọng thương hại:

“Trông nó có vẻ ốm lắm.”

Mụ ngập ngừng nói:

“Tôi mua mất hai mươi quan đấy.”

Ông ta ngạc nhiên:

“Thật ư! Nhiều thế kia à?”

“Vâng, trước nó tốt lắm. Tôi muốn ông xác nhận tình trạng của nó.”

“Được lắm, tôi thấy rồi. Được lắm. Nhưng tôi không hiểu rõ việc này có liên quan tới tôi ở chỗ nào.”

Mụ thấy lo ngại. Có lẽ Công ty không bồi thường những đồ vật chăng, và mụ nói:

“Thì… nó bị cháy mà…!”

Ông kia không cãi:

“Thì rõ ràng là thế rồi.”

Mụ há hốc mồm ra, không biết nói sao nữa; rồi bỗng nhiên, chợt hiểu mình đã sơ ý, mụ vội vã nói:

“Tôi là bà Oreille. Chúng tôi có bảo hiểm ở Công ty Bảo mẫu và tôi đến để xin bồi thường chỗ thiệt hại này.”

Mụ vội nói thêm, sợ bị từ chối hẳn:

“Tôi chỉ xin ông cho lợp lại cái ô thôi.”

Ông giám đốc, lúng túng, nói:

“Nhưng… thưa bà… chúng tôi không phải là cửa hàng bán ô. Chúng tôi không thể đảm nhận những loại công việc sửa chữa đó được.”

Mụ cảm thấy mình vững tâm trở lại. Cần phải đấu tranh. Thì mụ sẽ đấu tranh! Mụ không sợ nữa, mụ nói:

“Tôi chỉ xin trả cho tiền sửa chữa thôi. Còn tôi có thể tự thuê người sửa chữa được.”

Ông kia có vẻ ngượng:

“Thật tình, thưa bà, chuyện nhỏ nhặt quá. Người ta không bao giờ đòi chúng tôi bồi thường về những tai nạn ít quan trọng như thế này. Bà cũng nhận cho rằng chúng tôi không thể nào đền tiền những mùi-soa, găng tay, chổi lúa, giày cũ, tất cả những đồ dùng lặt vặt hàng ngày có thể bị hư hỏng vì lửa.”

Mụ đỏ mặt, cảm thấy tức giận:

“Nhưng, thưa ông, hồi tháng chạp vừa rồi chúng tôi đã bị một trận cháy lò sưởi thiệt hại ít nhất là năm trăm quan; ông Oreille đã chẳng đòi Công ty trả gì hết; vậy thì bây giờ Công ty trả tiền ô cho tôi là chí phải!”

Ông giám đốc, đoán biết là chuyện bịa, mỉm cười nói:

“Thưa bà, ông Oreille không yêu cầu gì về một sự tổn hại năm trăm quan, mà lại đến đòi năm hay sáu quan tiền sửa chữa một cái ô, thì hẳn bà cũng phải thừa nhận là một chuyện kỳ!”

Mụ không bối rối chút nào và cãi lại:

“Xin lỗi ông, tổn hại năm trăm quan liên quan đến túi tiền của ông Oreille, còn tổn hại mười tám quan lại liên quan đến túi tiền của bà Oreille, chuyện có khác nhau chứ.”

Ông giám đốc thấy là mình chẳng tống khứ nổi mụ và sắp phải mất toi cả ngày với mụ, nên đành chịu nhịn:

“Xin bà cho biết tai nạn xảy ra như thế nào.”

Mụ cảm thấy sắp thắng lợi và bắt đầu kể lể:

“Thưa ông, thế này: ở phòng treo áo tôi có một thứ đồ bằng đồng hun để ô với ba-toong vào đấy. Vậy hôm nọ, ra phố về, tôi đặt cái ô này vào trong đó. Phải thưa với ông rằng ngay bên trên có một tầng gỗ nhỏ để nến với diêm. Tôi với lấy bốn que diêm. Tôi đánh một que, nó không cháy. Tôi đánh một que khác, nó xoè lửa rồi tắt ngay. Tôi đánh một que thứ ba, cũng lại thế.”

Ông giám đốc ngắt lời mụ để nói chen một câu hóm hỉnh:

“Vậy ra là những que diêm của nhà nước à?”

Mụ không hiểu và cứ nói tiếp:

“Có lẽ thế đấy. Tuy vậy, que thứ tư bắt lửa và tôi châm nến; rồi tôi vào phòng để đi ngủ. Nhưng mười lăm phút sau tôi thấy hình như có mùi khen khét. Tôi thì tôi vẫn luôn luôn sợ cháy! Ồ, nếu có bao giờ nhỡ xảy ra hoả hoạn, thì sẽ chẳng phải lỗi ở tôi đâu. Nhất là từ cái trận cháy lò sưởi mà tôi đã nói với ông, tôi cứ lo ngay ngáy ấy. Thế là tôi trở dậy, ra ngoài buồng, tôi tìm kiếm, tôi đánh hơi khắp chỗ như một con chó săn và cuối cùng tôi thấy là cái ô của tôi bị cháy. Có lẽ là tại một que diêm rơi vào đấy chăng. Tình trạng nó ra sao thì ông trông thấy đấy.”

Ông giám đốc đã có ý của mình, ông hỏi:

“Bà đánh giá sự thiệt hại là bao nhiêu?”

Mụ im bặt, không dám định một con số. Rồi muốn làm ra vẻ rộng rãi, mụ nói:

“Xin ông cứ cho sửa chữa đi. Tôi xin tin ở ông.”

Ông ta từ chối:

“Không, thưa bà, tôi không làm được đâu. Bà hãy cho biết bà đòi bao nhiêu.”

“Nhưng mà… hình như… Thưa ông, tôi chẳng muốn kiếm lờ kiếm lãi gì với ông… ta sẽ làm như thế này. Tôi sẽ đem cái ô của tôi đến một hiệu làm ô cho lợp lại bằng lụa tốt, lụa thật bền, rồi tôi đem hoá đơn lại cho ông. Như thế có được không?”

“Được lắm, thưa bà; đồng ý như thế, Đây tôi viết mấy chữ cho phòng thủ quỹ, họ sẽ hoàn lại phí tổn cho bà.”

Và ông đưa một tấm thiếp cho mụ Oreille, mụ cầm lấy, rồi đứng dậy, vừa cảm ơn vừa đi ra, muốn ra khỏi phòng cho mau, sợ ông ta lại thay đổi ý kiến.

Bây giờ thì mụ vui vẻ đi ở ngoài phố, tìm một hiệu bán ô nào có vẻ lịch sự. Khi thấy một cửa hàng có mẽ sang trọng, mụ bước vào và dõng dạc nói:

“Đây là một cái ô cho lợp lại bằng lụa, bằng lụa thật tốt. Ông có thứ gì là thượng hảo hạng thì cứ làm. Tôi không cần so kè về giá cả.”

Hướng Minh dịch