Chương 38.
Cô Fifi
(Mademoiselle Fifi)
Tên thiếu tá người Phổ, bá tước Farlsberg ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành lớn phủ thảm vừa đọc xong mớ giấy tờ hàng ngày, đôi chân đi ủng gác lên đá hoa sang trọng của lò sưởi. Ba tháng nay từ khi hắn đến ngự trị ở lâu đài Uville, cặp đinh thúc ngựa của đôi ủng đã khoét hai lỗ sâu hoắm vào đá mỗi ngày một sâu thêm.
Một tách cà-phê bốc khói trên chiếc bàn xoay khảm hoen ố vì vết rượu mùi, cháy nham nhở vì xì-gà, sứt sát vì dao díp của tên sĩ quan chiến thắng, đôi khi đã ngừng tay gọt nhọn bút chì, tuỳ hứng rạch lên chiếc bàn xinh xắn những con số hoặc những hình vẽ tuỳ những lúc hắn uể oải mơ màng.
Đọc xong thư từ và lướt qua báo chí Đức người chạy giấy vừa mang tới, hắn đứng dậy và sau khi ném vào đống lửa vài ba khúc gỗ tươi to sụ - vì các ngài đốn dần cây cối trong vườn để sưởi - hắn bước đến bên cửa sổ.
Trời mưa như trút nước, một trận mưa vùng Normandie tựa hồ có một bàn tay điên khùng giội xuống, một trận mưa táp, dày đặc như một bức màn tạo thành một bức tường có những vạch xiên chéo, một trận mưa như quất vào mặt, tung toé, tràn ngập khắp nơi, một trận mưa thật sự của vùng lân cận Rouen, cái bô đái đêm của nước Pháp.
Tên sĩ quan ngắm nhìn hồi lâu các bãi cỏ ngập nước và xa xa con sông Andelle ứ dâng lên tràn bờ. Hắn đang gõ nhịp lên cửa kính một điệu van-xơ miền sông Rhin thì bỗng một tiếng động khiến hắn quay lại: đó là tên phụ tá của hắn, nam tước Kelweingstein, cấp bậc tương đương đại uý.
Tên thiếu tá, người cao lớn như hộ pháp, vai rộng, bộ râu dài hình quạt toả ra phủ kín ngực và tất cả cái thân hình to lớn của hắn gợi cho người ta liên tưởng đến một con công bận quân phục, một con công đuôi xoè ra ở cằm. Hắn có đôi mắt xanh lam, lạnh lùng và hiền, bên má bị một vết gươm trong cuộc chiến tranh với nước Áo; người ta đồn rằng không những hắn là một người tốt bụng mà lại còn là một sĩ quan dũng cảm.
Tên đại uý, thân hình thấp bé, mặt đỏ gay, bụng phệ, bó ních trong quân phục, râu tóc đỏ bẻm cắt ngắn; khi có ánh sáng rọi vào những sợi râu tóc đỏ như lửa trông ngỡ mặt hắn có xoa chất lân tinh. Hai chiếc răng gãy trong một đêm hoan lạc, hắn cũng chẳng còn nhớ sự thể vì sao khiến hắn khạc ra những tiếng nói lào phào thường chẳng mấy ai hiểu nổi và đầu hắn lại chỉ hói riêng trên đỉnh như kiểu thầy tu gọt tóc với những sợi tóc nhỏ quăn vàng ánh bao quanh cái vòng thịt da trần trụi đó.
Tên thiếu tá bắt tay hắn và nốc một hơi hết tách cà-phê (tách thứ sáu kể từ sáng) trong khi tên phụ tá báo cáo mọi việc xảy ra trong công tác rồi cả hai cùng bước lại gần cửa sổ và kêu buồn quá. Tên thiếu tá, một con người bình thản, lấy vợ ở quê nhà, thích nghi với mọi hoàn cảnh, còn tên đại uý nam tước là dân ăn chơi không biết chán, hay bê tha nơi tửu quán ca lâu chuyên mò gái, thì phát cáu lên về nỗi bị giam hãm từ ba tháng nay trong cái cảnh chay tịnh bắt buộc ở cái đồn hẻo lánh này.
Nghe thấy tiếng gõ nhẹ vào cánh cửa, tên thiếu tá lớn tiếng bảo mở ra và một người, một trong những tên lính người máy của chúng hiện ra ở khuôn cửa và tên này chỉ cần vào trình diện là đủ biết bữa ăn trưa đã sẵn sàng.
Trong phòng ăn còn có ba tên sĩ quan cấp dưới: trung uý Otto de Grossling, hai thiếu uý Fritz Scheunaubourg và tử tước Wilhem d’Eyrik, một tên bé loắt choắt tóc vàng, hách dịch và tàn bạo đối với binh lính, khắc nghiệt đối với kẻ chiến bại và hung dữ như một khẩu súng khạc đạn.
Từ khi hắn bước chân vào nước Pháp, bạn bè chỉ gọi hắn bằng cái tên: cô Fifi. Sở dĩ hắn có cái biệt danh đó là do điệu bộ õng ẹo của hắn, cái thân hình mảnh dẻ chừng như bị bó chẽn trong một cái áo nịt phụ nữ, bộ mặt tái xanh thấp thoáng tí ria mép mới lún phún và cũng do hắn có thói quen, muốn tỏ sự miệt thị cao độ đối với người, với vật, luôn luôn dùng cái tiếng Pháp - fi, fi*, hắn nói hơi rít giọng.
Thán từ tiếng Pháp tỏ ý khinh bỉ.
Phòng ăn lâu đài Uville là một căn phòng dài tráng lệ có những tấm gương pha-lê cổ xưa, lỗ chỗ vết đạn và những tấm thảm xứ Flandre phủ tường, bị những nhát gươm chém toạc rách từng chỗ phủ xuống, đủ nói lên cô Fifi đã dùng những giờ vô công rồi nghề vào những việc gì.
Trên tường có treo ba bức chân dung của gia đình, một chiến binh mặc áo giáp sắt, một giáo chủ và một vị tổng thống hút những ống điếu sứ, dài nghêu, còn trong chiếc khung lâu ngày thếp vàng đã bạc, một mệnh phụ có bộ ngực chẽn phô ra một cách ngạo nghễ cặp ria mép to tướng bôi bằng than.
Và bữa ăn trưa của mấy sĩ quan diễn ra gần như im lặng trong căn phòng bị huỷ hoại, tối sầm lại vì ma men, rầu rĩ vì quang cảnh chiến bại, căn phòng mà sàn gỗ sồi đã trở thành nhớp nhúa như nền quán rượu.
Đến giờ hút thuốc, khi bọn chúng bắt đầu uống rượu sau khi đã ăn xong thì cũng như mọi ngày, chúng than thở về những nỗi chán chường của chúng. Hết cô-nhắc lại rượu mùi được chuyền tay nhau và tất cả bọn đều ườn người trên ghế, luôn miệng tợp từng ngụm một, mép vẫn gặm chiếc ống điếu dài đầu có nõ sứ bao giờ cũng bôi loè loẹt như để quyến rũ người Hottentot*.
Một chủng tộc ở đảo Madagascar và Nam Phi.
Cạn cốc chúng lại rót đầy với một cử chỉ uể oải nhẫn nhục; song cô Fifi luôn tay đập vỡ cốc và tức khắc một tên lính lại đưa ra một chiếc khác.
Một làn khói khét lẹt mờ mịt phủ lấy cả bọn và chúng có vẻ mải mê trong cơn say thiêm thiếp và buồn bã, trong cái cảnh ma men rầu rĩ của những kẻ vô công rồi nghề.
Nhưng bỗng tên nam tước nhổm dậy. Hắn bừng bừng phẫn nộ rủa: “Trời đất ạ, không thể kéo dài mãi như thế này được, thế nào cũng phải nghĩ ra một trò gì chứ!”
Trung uý Otto và thiếu uý Fritz, hai tên Đức, có bộ mặt Đức chính cống, nặng nề và nghiêm trang, đồng thanh hỏi:
“Thưa đại uý, trò gì ạ?”
Hắn ngẫm nghĩ mấy giây rồi nói tiếp:
“Trò gì à? Cần phải tổ chức một cuộc vui, nếu thiếu tá cho phép.”
Tên thiếu tá nhả điếu ra:
“Cuộc vui nào kia, đại uý?”
Tên nam tước lại gần:
“Thưa thiếu tá, tôi xin đảm nhiệm tất cả. Tôi sẽ cho Nhiệm vụ đi Rouen để đưa mấy cô về đây, tôi biết họ ở đâu. Ta sẽ chuẩn bị một bữa ăn tối, vả lại chẳng thiếu thứ gì và ít ra, chúng ta cũng sẽ có được một tối vui.”
Tên bá tước Farlsberg nhún vai mỉm cười:
“Ông điên mất rồi, ông bạn ạ.”
Nhưng cả mấy tên sĩ quan đều đứng dậy, xúm lại quanh cấp chỉ huy của chúng năn nỉ:
“Xin thiếu tá cứ để mặc đại uý làm, ở đây thật buồn quá!”
Cuối cùng tên thiếu tá nghe theo:
“Thôi được,” hắn nói và thế là tên nam tước cho gọi Nhiệm vụ đến. Nhiệm vụ là một hạ sĩ quan già chẳng thấy cười bao giờ, nhưng nhắm mắt thi hành mọi mệnh lệnh của cấp trên bất kể mệnh lệnh gì.
Hắn đứng ngây người, bộ mặt thản nhiên, nhận chỉ thị của tên nam tước rồi đi ra, và năm phút sau, một chiếc xe vận tải lớn, phủ vải bạt căng thành hình vòm, đóng bốn ngựa, đã bon bon dưới trời mưa tầm tã.
Ngay lúc đó dường như có một luồng điện đã thức tỉnh đầu óc mọi người; những dáng điệu uể oải đã trở thành ngay ngắn, các khuôn mặt đã tươi tỉnh lên và câu chuyện lại rôm rả.
Mặc dù mưa rào vẫn đổ xuống dữ dội, tên thiếu tá quả quyết là trời đã bớt tối và tên trung uý Otto tuyên bố chắc nịch là trời sắp quang đến nơi rồi. Đến cô Fifi hình như cũng không ngồi yên tại chỗ được, hết đứng lên lại ngồi xuống. Cặp mắt trong và dữ tợn đương tìm một vật gì để đập phá. Bỗng gã trẻ tuổi tóc vàng đó nhìn thẳng vào bà mệnh phụ có ria, rút khẩu súng ngắn ra.
“Mày sẽ không được chứng kiến cuộc vui này đâu,” hắn thốt lên và không rời khỏi ghế, hắn ngắm. Hai viên đạn nối tiếp nhau xuyên thủng hai con mắt của bức chân dung.
Rồi hắn reo lên: “Ta chơi mìn đi!”
Thế là mọi câu chuyện bỗng nhiên ngừng bặt như thể chúng bị thu hút vào một hứng thú gì mãnh liệt mới mẻ.
Mìn là sáng kiến của hắn, lối phá phách và trò chơi hắn ưa nhất.
Khi rời khỏi toà lâu đài, đích vị chủ nhân bá tước Fernand d’Amoys d’Uville không kịp mang theo hoặc cất giấu được thứ gì trừ số đồ đạc chôn trong một hốc tường. Vì căn phòng khách rất sang trọng và lộng lẫy có cửa thông sang phòng ăn, trước khi vị chủ nhân vội vã bỏ chạy phòng khách lớn này trông chẳng khác gì một gian của viện bảo tàng.
Trên tường treo nào tranh sơn dầu, tranh vẽ chì, tranh thuốc nước giá trị, còn trên các bàn, các giá và trong các tủ kính xinh đẹp, hàng ngàn mỹ vật, lọ độc bình, tượng nhỏ, những tượng người xứ Saxe và đồ sứ Trung Quốc, đồ ngà cổ và pha-lê Venise bày la liệt, đủ thứ ngộ nghĩnh và quý giá.
Giờ thì chẳng còn gì nữa. Không phải là vì bị cướp đi mất - tên thiếu tá bá tước Farlsberg cấm ngặt điều đó - nhưng là vì cô Fifi thỉnh thoảng lại chơi mìn và ngày hôm ấy, cả mấy tên sĩ quan đều được năm phút đùa nghịch thoả chí.
Tên tử tước loắt choắt đi vào phòng khách tìm vật hắn cần. Hắn lấy ra một ấm pha trà Trung Quốc thật nhỏ nhắn và xinh xắn màu hồng, tọng đầy thuốc súng, rồi nhẹ nhàng luồn qua vòi ấm một sợi bùi nhùi dài, châm lửa đốt và chạy sang phòng bên đặt quả nổ đó.
Rồi hắn nhanh chân lui ra, đóng cửa lại. Tất cả mấy tên Đức đứng chờ, nét mặt tươi cười với cái vẻ hiếu kỳ thơ ngây của con trẻ, và khi tiếng nổ làm rung chuyển lâu đài, vừa dứt, cả bọn đều chạy ùa vào.
Cô Fifi vào trước tiên, điên cuồng vỗ tay trước một pho tượng thần Vệ nữ bằng đất nung bị cụt đầu và tên nào tên nấy đều nhặt lấy những mảnh sứ, ngạc nhiên thấy các cạnh vỡ có những hình thù kỳ lạ, xem xét những chỗ vừa mới bị hư hỏng, tranh cãi nhau về đôi chỗ bị phá hoại đã bị hư sẵn từ lần nổ trước; còn tên thiếu tá thì đưa cặp mắt hiền từ nhìn cái phòng khách rộng lớn bị tan hoang sau loạt bắn phá kiểu Néron* đó, trên sàn rắc đầy mảnh vụn đồ mỹ nghệ phẩm. Hắn bước ra trước tiên, nói với một vẻ hiền hậu:
Hoàng đế La Mã, nổi tiếng hung bạo. Đã đốt thành La Mã để vui đùa.
“Lần này nổ tốt đấy.”
Nhưng một luồng khói dày đặc đã ùa vào phòng ăn, hoà lẫn với khói thuốc lá khiến bọn chúng đến tắc thở. Tên thiếu tá mở cửa sổ và tất cả bọn sĩ quan trở vào phòng ăn để uống cốc cô-nhắc cuối cùng, đều sán lại gần.
Làn không khí ẩm ướt ập vào căn buồng, mang theo một thứ bụi nước bám lấm tấm trên râu và một hương vị mưa lụt. Chúng ngắm nhìn những cây to rũ rượi dưới mưa rào, cái thung lũng mờ mờ hơi sương vì những đám mây đen và thấp ùn ùn kéo đến; và xa xa, chiếc gác chuông nhà thờ sừng sững như một mũi dùi xám dưới trận mưa tầm tã…
Từ ngày bọn Đức đến, chuông không thấy rung lên nữa. Vả chăng đó là sức kháng cự duy nhất quân xâm lược đã vấp phải ở vùng này: sức kháng cự của chiếc gác chuông. Vị cha xứ không hề từ chối việc tiếp đón và nuôi bọn lính Phổ, thậm chí có nhiều lần còn nhận lời uống một chai bia hoặc rượu vang đỏ cùng với tên thiếu tá thù địch, tên này thường vẫn dùng ông làm người trung gian biết điều; nhưng đừng có đòi ông đánh một tiếng chuông; thà ông chịu xử bắn còn hơn. Đó là cái lối riêng của ông để phản đối cuộc xâm lăng, một lối phản đối hoà bình, dùng sự im lặng để phản đối, cách duy nhất, theo lời ông hợp với nhà tu hành vốn dĩ là con người ôn hoà chứ không phải là kẻ khát máu, và hết thảy mọi người, trong một vùng mười dặm, ai nấy đều ca tụng cái thái độ kiên quyết, quả cảm của cha xứ Chantavoine đã dám nêu rõ cái tang chung, công bố nó lên bằng sự im lặng ương ngạnh của ngôi nhà thờ.
Sức kháng cự đó khiến cho cả làng phấn khởi, sẵn sàng ủng hộ vị cha xứ của họ tới cùng, bất chấp mọi chuyện, coi sự phản đối thầm lặng đó như đã cứu vãn được danh dự đất nước. Bà con nông dân dường như cảm thấy mình như vậy là có công với tổ quốc hơn cả Belfort và Strasbourg*, họ đã nêu lên được một tấm gương tương tự và cái tên của thôn xóm này sẽ trở thành bất tử, ngoài chuyện đó ra, họ chẳng từ chối thứ gì đối với bọn Phổ chiến thắng.
Hai thành phố phía đông nước Pháp đã kháng chiến anh hùng chống cuộc xâm lăng của Đức năm 1870.
Tên thiếu tá và bọn sĩ quan của hắn đều cười cái sự dũng cảm vô hại đó và do chỗ cả vùng đều tỏ ra ân cần và mềm dẻo đối với chúng, chúng sẵn sàng tha thứ cho cái thái độ yêu nước thầm lặng ấy.
Duy chỉ có tên tử tước Wilhem loắt choắt là rất muốn ép chuông nhà thờ phải lên tiếng. Hắn tức tối về việc cấp trên tỏ thái độ khoan dung về chính trị đối với vị tu sĩ, và ngày nào hắn cũng khẩn nài tên thiếu tá để mặc hắn làm cho cái chuông phải kêu “boong boong” lên một lần, chỉ một lần thôi, cốt để mua vui một chút. Và, những khi như vậy, hắn làm duyên làm nũng, tán tỉnh như một mụ đàn bà, nói năng dịu ngọt như một cô nhân tình vì đang có một điều thèm muốn đến cuồng người, nhưng viên thiếu tá nhất định không nghe cô cho nên Fifi đành chơi cái trò mìn trong toà lâu đài Uville để tự an ủi.
Cả bọn năm tên đều túm tụm cả lại ở gần cửa sổ trong vài phút, thở hít cái không khí ẩm ướt. Cuối cùng tên trung uý Fritz bật ra một tiếng cười lè nhè, lên tiếng:
“Quả thực cuộc dạo chơi của các cô ấy sẽ gặp bữa chẳng được đẹp trời.”
Sau đó, chúng chia tay nhau mỗi tên đi làm công việc của mình, riêng tên đại uý thì phải lo liệu nhiều thứ để chuẩn bị bữa ăn tối.
Tối đến, khi họp mặt lại, chúng đều phá lên cười vì thấy đứa nào đứa nấy đều diêm dúa và bóng lộn như trong những ngày duyệt binh lớn, chải sáp, xức nước hoa, mặt mày tươi tỉnh. Mái tóc tên thiếu tá có vẻ như bớt hoa râm đi so với buổi sáng, tên đại uý thì đã cạo râu, chỉ để lại ria mép trông chẳng khác một ngọn lửa dưới mũi.
Mặc dù mưa, cửa sổ vẫn để mở và chốc chốc một tên trong bọn lại ra nghe ngóng. Đến sáu giờ mười phút, tên nam tước cho biết có tiếng xe lọc cọc ở xa xa. Cả bọn chạy ùa ra và chẳng mấy chốc cỗ xe lớn đã lao tới với bốn con ngựa vẫn phi nước đại, bùn lấm đến tận lưng, mình bốc khói, thở hồng hộc.
Và năm phụ nữ bước xuống thềm, năm ả xinh đẹp được bạn tên đại uý chọn lọc rất kỹ - Nhiệm vụ đã trao tay tấm thiếp của tên đại uý cho hắn.
Mấy ả chẳng để phải vật nài, tin chắc sẽ được trả tiền hậu hĩ, vả lại biết rõ bọn Phổ vì đã quen hơi bén tiếng từ ba tháng nay rồi và họ cũng đành cam chịu với người, với thời thế. “Cái nghề chúng mình vốn dĩ nó phải thế”, trên dọc đường họ bảo nhau như vậy, chắc hẳn để giải đáp một sự áy náy thầm kín nào đó của chút ít lương tri còn sót lại.
Và cả bọn vào ngay phòng ăn. Đèn thắp sáng trưng, căn phòng đổ nát thiểu não trông càng thê thảm hơn và cái bàn đầy thịt thà, bát đĩa sang trọng và đồ bạc tìm thấy trong tường nơi chủ nhân đã cất giấu khiến cho căn phòng có vẻ một tửu quán của bọn cướp đang chè chén sau một cuộc đi cướp bóc về. Tên đại uý mặt mày hớn hở vồ lấy mấy ả như một vật quen thuộc, xem xét họ, hôn hít họ, lường theo đúng giá trị của gái làng chơi và khi thấy ba gã trẻ tuổi, mỗi gã muốn chiếm lấy một ả thì hắn cương quyết gạt đi, tự giành lấy việc phân chia cho thực công minh, tuỳ theo cấp bực, không để mảy may xúc phạm đến tôn ti trật tự.
Thế rồi để tránh mọi lời bàn tán, cãi cọ và nghi ngờ thiên vị, hắn xếp các ả thành hàng theo thứ tự cao thấp và cất cái giọng chỉ huy, hỏi ả cao nhất.
“Tên gì?”
Ả rướn to giọng lên đáp:
“Paméla.”
Hắn liền tuyên bố:
“Số một tên là Paméla về phần thiếu tá.”
Sau khi hôn ả thứ hai là Blondine coi như sở hữu của mình, hắn chia cho tên trung uý Otto ả Amanda đẫy đà, ả Eva Cà chua cho tên thiếu uý Fritz và ả bé nhỏ nhất là Rachel, tóc đen, trẻ măng, mắt đen láy hạt huyền, người Do Thái, mũi hếch - xác nhận các quy luật là dòng giống Do Thái đều mũi khoằm - cho tên sĩ quan trẻ tuổi nhất là tử tước Wilhem d’Eyrik mảnh khảnh.
Vả chăng cả mấy ả đều xinh đẹp mũm mĩm, dung mạo chẳng khác nhau mấy, điệu bộ và da dẻ đều na ná như nhau do những cuộc hành lạc hàng ngày để nếp sống chung trong nhà chứa hun đúc nên.
Ba gã trẻ tuổi định kéo mấy ả của mình đi ngay nơi khác tạ sự là để đưa bàn chải và xà phòng cho họ rửa ráy nhưng tên đại uý khôn khéo phản đối, xác nhận các ả cũng sạch sẽ tươm tất rồi; có thể dự tiệc ngay được và những ai lên gác thì lúc xuống sẽ muốn thay đổi, làm phiền các cặp khác. Kinh nghiệm của hắn thắng, chúng chỉ còn cách hôn hít mấy ả thật nhiều, những chiếc hôn chờ đợi.
Bỗng nhiên Rachel sặc sụa, ho đến chảy nước mắt và xì cả khói ra hai lỗ mũi. Tên tử tước mượn cớ hôn ả, đã phì một hơi thuốc lá vào miệng ả. Ả không cáu kỉnh mà cũng chẳng nói chẳng rằng, chỉ nhìn hắn trừng trừng, từ đáy cặp mắt đen ánh lên một niềm giận dữ.
Tất cả ngồi xuống. Chính tên thiếu tá cũng có vẻ hoan hỉ; hắn để Paméla ngồi bên phải, Blondine ngồi bên trái và giở chiếc khăn ăn ra tuyên bố:
“Sáng kiến của đại uý hay lắm.”
Hai tên trung uý Otto và Fritz lễ phép như ngồi cạnh các bà thượng lưu khiến cho hai ả ngồi kề đâm ra rụt rè, nhưng tên nam tước Kelweingstein được mặc sức phóng túng nên toe toét hớn hở phun ra những câu chợt nhả, đầu hắn tựa đang bốc cháy với cái vành tóc đỏ bẻm. Hắn tán tỉnh bằng thứ tiếng Pháp miền sông Rhin và những lời ca tụng rẻ tiền của hắn, phì qua hai lỗ răng khuyết, bắn toé vào các ả một trận mưa nước dãi.
Vả chăng các ả cũng chẳng hiểu gì hết và trí thông minh của các ả dường như chỉ bừng tỉnh khi hắn thở ra những lời tục tĩu, những câu sống sượng bị cái giọng hắn xén mất đầu mất đuôi. Thế là cùng một lúc mấy ả đều cười rũ như những con điên, ngã lăn vào lòng bọn sĩ quan ngồi bên, nhắc lại những tiếng mà tên nam tước cố ý nói chạnh đi để buộc các ả tuôn ra những lời bẩn thỉu. Chỉ mới mấy chai rượu vang đầu tiên, các ả đã say mềm, thôi thì các ả tha hồ mà nói nhảm và trở lại nguyên hình rồi, các ả buông thả theo những thói tật, các ả hết hôn cặp má bên phải, lại đến bộ ria mép bên trái, cấu chí, rít lên những tiếng giận dỗi, vục miệng vào hết thảy các cốc, gào lên những điệu hát Pháp và mấy mẩu bài hát Đức học được khi giao dịch hàng ngày với quân thù.
Chẳng mấy chốc chính bọn đàn ông cũng mê mẩn về da thịt đàn bà phơi ra ngồn ngộn trước mũi và trong tay mình, chúng cuồng lên, gào thét, đập vỡ bát đĩa, còn bọn lính thì cứ điềm nhiên đứng sau lưng chúng mà hầu hạ.
Duy có tên thiếu tá là còn giữ gìn được tư cách.
Cô Fifi đặt Rachel lên đùi và vờ bốc, khi thì hôn như điên như dại những sợi lông tơ xoăn đen nhánh trên cô ả, và gí mũi vào tận lần áo mỏng dính sát vào da thịt và hít lấy cái hơi ấm áp dịu dàng, cái hơi hướng của thân hình ả; khi thì trong cơn hung dữ điên cuồng và thúc đẩy vì ý muốn phá phách lần vải khiến ả phải kêu lên. Lại có nhiều lần hắn ôm chầm, ghì chặt lấy ả, gí mãi cặp môi vào cái miệng tươi tắn của người phụ nữ Do Thái, hôn ả tưởng đến đứt hơi; nhưng đột nhiên hắn bập răng mạnh vào môi ả đến nỗi máu chảy ròng ròng xuống cằm rồi chảy vào bên trong áo người thiếu phụ.
Một lần nữa, ả lại nhìn thẳng vào mặt hắn rồi chùi vết thương lẩm bẩm:
“Cái này phải trả nợ đây.”
Hắn phá lên bật cười, một tiếng cười dữ tợn:
“Ta sẽ trả,” hắn đáp.
Rồi đến món tráng miệng; rượu sâm-banh được rót ra. Tên thiếu tá đứng dậy và với cái giọng như hắn dùng khi chúc sức khoẻ nữ hoàng Augusta, hắn cạn cốc:
“Xin chúc sức khoẻ các phu nhân!” Và một loạt chúc tụng chạm cốc bắt đầu, những lời chúc tụng theo kiểu lịch sự của bọn lính tráng và những tên say rượu lẫn với những lời bông đùa tục tĩu mà do chỗ không ai biết tiếng nên càng sống sượng.
Chúng lần lượt đứng dậy, hết tên này đến tên khác, cố nặn óc, cố gắng pha trò, còn mấy ả thì say mềm, hai mắt lờ đờ, mồm miệng lè nhè, cứ mỗi lần lại ra sức vỗ tay.
Tên đại uý chắc hẳn muốn cho bữa tiệc dâm cuồng thêm phần lịch sự, lại nâng cốc một lần nữa và hô:
“Chúc mừng cuộc chiến thắng của chúng ta trên mặt trận trái tim!”
Thế là tên trung uý Otto, nom như con gấu khu Rừng đen, bốc lên, hơi men đã ngấm, đứng dậy. Và đột nhiên bừng bừng nổi lòng yêu nước của thằng say rượu, hắn hô to:
“Chúc mừng những cuộc chiến thắng của chúng ta trên đất Pháp!”
Mặc dù say các ả cũng im bặt; và Rachel rùng mình quay lại:
“Đây bảo cho anh biết có những người Pháp, anh không nói thế trước mặt họ được đâu!”
Song tên tử tước loắt choắt vẫn để ả ngồi trên lòng, bật lên cười, ma men làm hắn vui hẳn lên:
“A ha! riêng ta chẳng gặp đứa nào như thế bao giờ, vừa thấy bóng bọn ta là chúng đã chuồn hết!”
Người con gái nổi xung lên, hét thẳng vào mặt hắn:
“Nói láo, đồ khốn!”
Thoáng một giây đồng hồ, với cặp mắt trong hắn chằm chằm nhìn thẳng vào cô như những lúc hắn cầm súng ngắm bắn thủng các bức hoạ rồi hắn bật cười:
“À được, hãy nói về chuyện ấy đi cô em! Nếu chúng can đảm thì sao bọn ta lại ở đây?”
Rồi hắn bốc:
“Chủ chúng là bọn ta! Nước Pháp là của ta!”
Cô ta giãy một cái rời khỏi đùi hắn, ngồi phịch xuống ghế. Hắn đứng lên, giơ cốc ra tận giữa bàn và nhắc lại:
“Nước Pháp và cả người Pháp là của ta, rừng núi, cánh đồng, nhà cửa nước Pháp là của ta.”
Mấy tên kia hoàn toàn say mềm, cái máu hăng hái nhà binh đột nhiên được kích động, thứ hăng máu của những tên cục súc vội vồ lấy cốc, gào lên:
“Nước Phổ vạn tuế!” và nốc một hơi cạn.
Mấy người đàn bà buộc phải ngậm miệng, sợ sệt không dám ho he. Đến Rachel cũng im tiếng, không nói lại được một lời.
Lúc đó tên tử tước loắt choắt liền đặt lên đầu người đàn bà Do Thái chiếc cốc mới rót đầy ắp sâm-banh, hắn la to:
“Tất cả phụ nữ Pháp cũng đều là của ta nốt.”
Rachel đứng phắt dậy nhanh đến nỗi chiếc cốc pha-lê nghiêng ngả tung toé rượu nho vàng vào mớ tóc đen như trong buổi lễ rửa tội rồi rơi xuống đất vỡ tan. Cặp môi run rẩy, cô trừng mắt nhìn tên sĩ quan vẫn đang cười và lúng búng, giọng nghẹn ngào vì giận dữ:
“Cái đó, cái đó thì không đúng, bọn anh không thể chiếm đoạt được phụ nữ Pháp!”
Tên kia liền ngồi xuống để cười cho thoả và cố lấy giọng người Paris:
“Thật buồn cười, vậy thì hỏi cô em đến đây làm gì, hử cô em?”
Cô sững sờ im bặt vì trong lúc bối rối chưa hiểu ra nhưng khi vỡ lẽ về ý hắn muốn nói gì, cô liền phẫn nộ sồn sồn quát thẳng vào mặt hắn:
“Tao ấy à? Tao ấy à? Tao không phải là một phụ nữ, tao là một con đĩ, với bọn Phổ chúng mày thì đáng có thế thôi!”
Cô chưa dứt lời thì đã bị hắn thẳng cánh tát cho một cái nhưng khi thấy hắn lại giơ tay lên lần nữa thì cô giận dữ điên lên vớ lấy ở trên bàn một con dao nhỏ lưỡi bạc dùng ăn lúc tráng miệng và đánh loáng một cái, nhanh đến nỗi mới đầu không ai kịp nom thấy gì, đâm thẳng vào cổ hắn, đúng vào chỗ lõm ngay phía trên ngực.
Một lời hắn định nói tắt ngang trong cổ họng, hắn há hốc miệng ra với cặp mắt khủng khiếp.
Tất cả đều hét lên và ầm ầm đứng dậy, nhưng cô liền quăng chiếc ghế ngồi vào cẳng tên trung uý Otto làm hắn ngã sóng soài, rồi chạy ra cửa sổ, mở cửa trước khi bọn chúng đuổi kịp cô, lao mình vào trong đêm tối dưới làn mưa vẫn đang trút xuống.
Hai phút sau cô Fifi tắt thở. Thế là hai tên Fritz và Otto liền rút gươm ra định giết những người đàn bà đương phục xuống dưới chân chúng. Tên thiếu tá phải vất vả lắm mới ngăn được cuộc chém giết đó, cho đem nhốt bốn người con gái đang sợ chết khiếp vào một căn buồng có hai tên lính canh rồi dàn quân như sắp sửa ra trận, hắn tổ chức cuộc lùng bắt cô gái chạy trốn, chắc mẩm mười mươi là tóm được.
Năm mươi tên lính bị những lời hăm doạ kích động được xua vào khu vườn. Hai trăm tên khác sục sạo các khu rừng và tất cả các nhà trong thung lũng.
Bàn ăn được dọn sạch trong chốc lát bây giờ dùng làm linh sàng và bốn tên sĩ quan người cứng đơ, hết cả say, vẻ mặt rắn câng của bọn lính chiến làm nhiệm vụ đứng bên cạnh cửa sổ, đôi mắt xoi mói nhìn vào đêm tối.
Trời vẫn mưa tầm tã. Một tiếng rí rách liên hồi tràn vang trong bóng tối, một thứ tiếng rì rầm phảng phất của giọt mưa rơi và nước mưa chảy, của tiếng nước nhỏ giọt và tiếng nước bắn tung toé.
Bỗng một tiếng súng nổ rồi một tiếng nữa xa tít tắp và suốt bốn tiếng đồng hồ, thỉnh thoảng lại nghe thấy những tiếng nổ hoặc gần hoặc xa, những tiếng kêu tập hợp, những tiếng lạ tai hét lên gọi nhau bằng những giọng ồ ồ.
Đến sáng thì tất cả bọn đều trở về. Có hai tên lính chết và ba tên khác bị thương do đồng đội bắn phải trong khi hung hăng lùng bắt và hốt hoảng săn đuổi trong đêm tối.
Không tìm thấy Rachel.
Thế là dân chúng bị khủng bố, nhà cửa bị lục lộn nhào, khắp vùng bị càn đi quét lại tơi bời. Người đàn bà Do Thái dường như không để lại một dấu vết nào.
Tên tướng được tin ra lệnh dập tắt câu chuyện để tránh gương xấu trong quân đội và thi hành kỷ luật tên thiếu tá, tên này liền phạt bọn hạ cấp. Tên tướng quở: “Chiến trận có phải để phè phỡn và đú đởn với bọn nhà chứa đâu.” Và tên hầu tước Farlsberg điên tiết liền rắp tâm trút thù lên đầu địa phương đó.
Vì phải kiếm một ]ý do để thẳng tay trừng trị, hắn cho gọi vị cha xứ đến và hạ lệnh phải kéo chuông làm lễ đưa đám tên tử tước d’Eyrik.
Trái với mọi dự đoán, vị cha xứ tỏ ra ngoan ngoãn, nhẫn nhục, lễ phép. Và khi linh cữu cô Fifi do mấy tên lính khiêng đằng trước, đằng sau và bốn chung quanh đều có lính vác súng nạp đạn sẵn đi hộ tống, rời khỏi lâu đài Uville đi ra nghĩa địa thì lần đầu tiên tiếng chuông cầu hồn vang lên với những tiếng bính boong linh lợi, tựa hồ như được một bàn tay thần tình nào vuốt ve.
Mãi đến tối chuông vẫn kêu và cả ngày hôm sau nữa, và rồi ngày nào cũng thế, chúng muốn chuông kêu bao lâu cũng được. Thậm chí có lúc đêm khuya chuông tự nhiên rung lên buông nhẹ hai ba tiếng vào bóng tối, như mắc phải chứng vui kỳ quặc thức tỉnh dậy không rõ vì sao. Hồi ấy bà con nông dân đều cho là chuông có ma và không ai dám đến gần gác chuông nữa ngoài vị cha xứ và thầy quản lễ.
Là vì một cô gái tội nghiệp đang sống trên đó trong niềm kinh hãi và cô đơn, được hai người giấu giếm nuôi ăn.
Cô ta ở mãi đây cho đến khi quân Đức rút đi. Rồi một buổi tối, vị cha xứ mượn chiếc xe ngựa có ghế dài của bác thợ làm bánh mì, thân hành đưa người nữ tù nhân của mình đến tận cổng thành Rouen. Tới nơi, nhà tu hành ôm hôn người con gái, cô xuống xe lanh lẹ đi bộ về ngôi nhà chứa, mụ chủ cứ ngỡ cô chết rồi.
Ít lâu sau cô gái được một người yêu nước chẳng quản ngại tiếng tăm, mến cô vì cái cử chỉ đẹp đẽ kia, chuộc cô ra, rồi sau yêu cô thực sự, cưới cô làm vợ, cô trở nên một vị phu nhân chẳng kém gì nhiều bà khác.
Trung Hiếu dịch