← Quay lại trang sách

Phần 1 (2)

Phần 1 (2)

ây là câu hỏi chờ đợi. Lưu cứ buồn mà tưởng rằng Liễu không thích chàng nên không hề hỏi về chàng.

Sự thật thì sự sơ sót ấy chỉ do Liễu thiếu kinh nghiệm sống và xã giao mà thôi. Ngay ở phút đầu, không hiểu sao, nàng cứ đinh ninh rằng Lưu là học trò. Không có dấu hiệu gì chỉ hoạt động của chàng cả, nhưng nàng lại ngỡ như vậy. Nàng lại đinh ninh rằng Lưu chưa có gia đình nên mới nói rằng nàng nghĩ đến ngày Lưu lập gia đình nên thương xót Bích lắm.

Nhận một thanh niên là bạn mà chưa biết gì hết về người ta, chỉ tưởng tượng không mà thôi, là khuyết điểm thông thường của những cô gái ngây thơ.

- Anh là Lưu. Anh học năm thứ hai trường Luật.

- Ông thầy cãi tương lai! Hèn gì mà anh tò mò quá.

- Tò mò hồi nào đâu?

- Cứ muốn biết chuyện nhà em, không tò mò là gì?

Lưu cười xòa, Liễu nói:

- Nhưng anh khiêm tốn lắm thì tha tội tò mò cho anh vậy.

- Em thấy rằng anh khiêm tốn?

- Anh nói “trường” Luật một cách giản dị, chớ không nói “Ðại học” Luật khoa. Nhiều người cứ muốn trường của họ là Đại học, để nghe cho oai, cả đến trong trường của em mà nhiều anh, nhiều chị cứ ước ao nhà nước sửa tên trường lại là Ðại học Mỹ thuật.

- Ðó cái bịnh ở xứ ta hiện nay. Họ cứ tưởng hễ trường nào mà sinh viên phải có bằng Tú tài mới vào được, là được quyền xưng là Ðại học. Họ đâu có dè hai chế độ Cao Đẳng và Ðại học rất khác nhau.

- Mà trường của em không có buộc bằng Tú tài mới chết chớ.

- Vậy à?

- Ừ, trong lớp, mà dễ thường cả trường nữa, chỉ một mình em là có Tú tài I mà thôi.

- Nhưng sao em bỏ học văn hóa để...

- Là tại em mê nghệ thuật hội họa. Ba má em ngăn thế nào cũng không nghe.

- Em là nghệ sĩ đứt đuôi rồi đó.

- Em chỉ mong được như thế thôi.

- Còn anh mê chuyện trường Cao Đẳng Mỹ thuật của em.

- Cũng chẳng còn gì lạ để mà nói.

- Sao lại không! Các anh, các chị ấy đi học ăn mặc thế nào? Anh nghe nói đến đám khói thuốc anh tưởng tượng đến những mái tóc Beatles, những đôi giày Santiago.

- Tưởng tượng của anh không sai sự thật bao nhiêu.

- Còn em, em ăn mặc thế nào?

- Em mặc bơ-lu-din.. [8]. cho gọn.

Liễu đáp xong, cười giòn lên để tự chế diễu mình, ngăn bạn nàng nhạo báng nàng, bởi vì nàng đã tự chế rồi thì chàng hẳn phải thôi.

Nhưng Lưu thôi chỉ vì bận suy nghĩ về chỗ do dự mấy giây của Liễu trước mấy tiếng “cho gọn”. Có lẽ phải thú rằng mình ăn mặc như nữ cao-bồi, nàng bị mặc cảm trước một anh con trai nghiêm trang chăng?

Bỗng Lưu cũng bị mặc cảm luôn. Chàng thấy mình quá nghiêm trang, có vẻ khô khan quá, nhứt là trước một cô gái có thể có tâm hồn đẹp của một nghệ sĩ, nên chàng pha trò:

- Em cũng là một cây xanh dờn.

Đôi bạn cười xòa với nhau. Liễu lại kể thêm chuyện trường nàng, không phải vì thích kể, mà vì một liên tưởng kia:

- Nếu anh nghe các anh ấy nói chuyện, làm ồn, và chạy nhảy trong lớp học thì anh sẽ thấy rằng ở ngoài đời người ta điên nhiều hơn trong nhà thương điên Biên Hòa.

Cả hai lại cười xòa.

Liễu đã nghiêm trang trở lại và hỏi:

- Tuần rồi anh có đi thăm chị ấy không, à chị gì đó anh?

- Nó tên là Bích. Má anh đi thăm nó mỗi tuần, anh bận học nên ít đi lắm. Chúa nhật lại cần nghỉ ngơi.

- Chị ấy mắc bịnh từ bao lâu rồi?

- Hơn ba tháng nay.

- Lạ quá, anh. Sao mà y học, cả Đông y lẫn Tây y đều chữa bịnh tâm trí dỡ quá, em ít nghe có người khỏi bịnh quá.

- Sự thật thì từ ba mươi năm nay Tây y tiến rất nhiều ở địa hạt đó. Nhưng số người lành bịnh vẫn ít hơn số người lành các bịnh thường, vì bịnh tâm trí là bịnh của bản ngã chớ không phải của cơ thể, mà bản ngã là cái gì vô hình, trừu tượng, nên rất khó trị, cho dầu có tiến bao nhiêu đi nữa.

- Té ra không phải do cơ thể mà...

- Chỉ do cơ thể một cách xa xôi mà thôi. À, người bịnh bị chấn động tâm thần, mất thăng bằng nơi tâm trí, rồi bản ngã bị xáo trộn đi.

- Nhưng ai cũng đã bị chấn động tâm thần, ít lắm là một lần trong đời họ, sao chỉ có một số người mới điên thôi?

- Phải bị chấn động mạnh lắm mới điên.

- Ừ, thì em nói “ít lắm là một lần”, tức là lần bị chấn động thật mạnh ấy, chớ còn chấn động thường thì dễ thường mỗi tuần ta đều bị một lần.

- Anh không sành lắm về vấn đề đó và ta không nên đi xa hơn.

- Còn do cơ thể một cách xa xôi là làm sao?

- Tỳ vết nơi tâm thần bắt nguồn ở những nơi khác hơn là cơ thể nhưng đôi khi cũng ở cơ thể, mà nếu như vậy, phải qua nhiều thế hệ người một cơ thể bịnh hoạn mới ảnh hưởng đến tâm thần. Thí dụ đời ông cố mắc một chứng bịnh nguy hiểm...

- Bịnh gi?

- Tốt hơn là em đừng hỏi. Người ông cố ấy chết vì bịnh đó, nhưng con cháu ông không chết, nhưng cơ thể họ không trong trắng nữa. Nhược điểm của cơ thể của họ ảnh hưởng đến tâm thần họ.

- Chấn động tâm thần! Chấn động tâm thần!

Liễu nói khe khẽ cho một mình nàng nghe thôi, gần như là lẩm bẩm. Có lẽ nàng đang thắc mắc tự hỏi không biết bà nội lớn của nàng và Bích đã bị chấn động tâm thần vào dịp nào.

Lưu cũng đang tự hỏi thầm như vậy, nhưng chỉ hỏi về chấn động nơi bà cụ mà thôi. Chớ còn Bích thì chàng đã biết quá rõ rồi.

Không, thế hệ thứ ba khó lòng mà biết được bí mật trong gia đình của thế hệ thứ nhứt, nếu không nhờ một sự tình cờ nào. Chắc Liễu không biết gì hết đâu.

Nhưng bí mật ấy hẳn phải xảy ra trong ngôi nhà nầy. Nhà nầy cũ lắm, chắc cũng cao niên bằng một người năm mươi, thì cả thời thanh xuân của một ông cụ bảy mươi mốt, hiện đang lẫn lụ, rất có thể trải qua ở đây.

Bây giờ Lưu mới đưa mắt nhìn bên trong của nhà nầy. Ngôi biệt thự giả vờ làm châlet nầy không to lắm.

Dưới nhà chỉ có một buồng còn bao nhiêu diện tích còn lại dùng làm phòng tiếp khách và phòng ăn.

Lưu đoán rằng dưới căn buồng hẹp ở bên trong cùng chỉ mới xây về sau nầy thôi, khi ông cụ, bà cụ đã yếu chơn, ngại leo thang lầu, còn cha mẹ của Liễu với lại nàng thì ở trên gác.

Cái cửa buồng mà sau đó chị người nhà lấp ló khi nãy, thật ra là cửa sau, trổ ra một hành lang tối, mới trông cứ ngỡ đó là một cái buồng.

- Anh đang nghĩ gì?

Thấy khách thình lình làm thinh Liễu không thắc mắc lắm, vì nàng tưởng hắn không tìm được đầu đề câu chuyện. Nàng cũng bí như thế và hỏi bậy như vậy, mong rồi câu chuyện sẽ tới.

- À, không, anh không có nghĩ về gì hết. Anh làm quen với gian phòng nầy.

- Chắc anh chưa làm quen với cái sân?

- Chưa.

- Ngày mốt là chúa nhựt, anh tới chơi ban ngày, ta chỉ ở ngoài sân thôi, và anh sẽ biết sân.

- Hay lắm. Anh rất muốn tới đây ban ngày lắm.

- Ðáng lý thì sáng mốt nầy em đi vẽ trên Thủ Ðức, nhưng em thích ở tiếp anh hơn.

- Cám ơn lòng tốt của em. Nhưng bỏ vẽ có hại lắm cho sự học của em hay không?

- Có gì đâu. Đó là bài tập ấy mà. Nhưng sao lại lòng tốt? Em tiếp anh đâu có phải do lòng tốt. Tại em thích tiếp anh đó chớ.

Lưu đứng dậy để xin phép về mặc đầu chàng còn muốn ở lại lâu hơn nữa, nhứt là sau câu nói cuối cùng trên đây của Liễu.

Chàng biết phép lịch sự và thấy rằng không nên kéo dài lâu hơn, buổi sơ giao tốt đẹp nầy, nó có thể hết tốt đẹp khi chủ nhà bực mình.

Chàng lại là một anh con trai rất trầm tĩnh trong chuyện yêu đương, thấy rằng cần xem lại khúc phim nầy ở nhà, cần lắng nghe lại lòng mình hơn là sống trực tiếp với đương sự thứ nhì là Liễu.

Liễu cũng không cầm cọng chàng ở lại, vì nàng chưa biết giả dối xã giao.

Nàng tiễn bạn ra tận lề cỏ, vịn ghi-đông [9] của chếc xì-cút-tơ rồi nói:

- Anh về ngã Hàng Thị hay Hàng Sanh?

- Hàng Thị, vì anh ở đường Hiền Vương.

- Lối nào?

- Lối ngã ba Duy Tân.

- Té ra cũng gần đây.

- Cái đó còn tùy. Nếu đi bộ thì không xa lắm. Em được phép đi ra ngoài với bạn trai hay không?

- Em chưa xin phép ấy lần nào, nhưng chắc được, mà có lẽ khỏi phải xin nữa. Ba má em khoáng đạt lắm.

- Như vậy hôm nào ta đi Biên Hòa bằng xe nầy.

- Hay lắm. Em ngồi xe hơi, nhứt là phải ngồi mãi ở băng sau, em thấy em là bà cụ quá. Em định học lái xe để tự lái lấy, cho bác tài nghỉ việc, nhưng chưa kịp học.

Ngồi xe hơi, em thấy các chị khác ngồi sau xì-cút-tơ, em thèm ghê đi.

Liễu rất thành thật và thẳng thắn mà nói lên sở thích ao ước của một người con gái. Kinh nghiệm, thông minh và khôn ngoan, Lưu không phồng mũi lên khi nghe những lời ấy vì chàng biết rằng nàng thích được đèo theo sau xì-cút-tơ là do tinh thần thể thao, vì tâm trạng của tuổi trẻ thôi chớ không phải vì mê chàng.

Chàng cũng không thất vọng, không thấy đó là lối tán tỉnh ngược đời của con gái lẳng quyết chim con trai như ở nhiều trường hợp khác. Không, Liễu chỉ ngây thơ, thẳng thắn mà tỏ mơ ước của nàng với một người bạn thôi.

- Thôi, anh về em nhé, và xin hẹn sáng chúa nhựt.

Chàng vừa đẩy xe xuống khỏi lề cỏ vừa nói như vậy.

- Rất mong anh.

Khi Lưu quày xe để ngược đại lộ Bạch Đằng thì chàng nghe Liễu nói sau lưng chàng:

- Ưng ai trái thị rớt bị bà già!

Chàng bật cười rồi cả hai cười xòa với nhau. Trận cười nầy sao mà làm cho họ thân với nhau hơn trước nhiều quá. Lưu nghe thương cô em gái tinh nghịch nầy.

Ðó là một lời cầu nguyện trong câu chuyện cổ tích kia mà chàng thì sắp đi trên đường Hàng Thị. Hàng Thị ngày nay bị đốn chỉ còn lưa thưa có mấy cây thôi nhưng lời nguyện xưa không bao giờ chết trong bia miệng của dân tộc.

Sợ cái giây phút đẹp mong manh nầy tan vỡ như một chiếc bong bóng xà bông, Lưu vội lên xe và hô lớn:

- Chúa nhựt em nhé.

- Vâng, tám giờ sáng. Anh ăn điểm tâm với em.

° ° ° ° °

Đây là lần thứ một trăm mà sinh viên lớp dự bị phải vẽ cây chuối.

Trước khi vào lớp, các nghệ sĩ tập sự xì xào với nhau:

- Bữa nay là giờ của ông “Cây Chuối”.

Rồi họ cười ồ lên, mặc dầu viễn ảnh phải vẽ cây chuối làm cho họ ngán ngầm, sợ hãi.

Ông Cây Chuối là một giáo sư chưa già nhưng rất lười mặc dầu đó là một gíáo sư lỗi lạc. Đáng lý gì ông đưa các sinh viên đi tập vẽ trong thành phố, ông lại chỉ bắt họ vẽ cây chuối trong trường để khỏi phải đi đâu cho nhọc xác.

Thật ra, cây chuối ấy không trồng trong sân trường mà thuộc vào một đám chuối của vườn nhà bên cạnh, ở hông trường, hướng Phú Nhuận.

Ông thầy vừa để chơn vào lớp là các sinh viên reo lên:

- Vẽ cây chuối nữa phải không thầy?

- Cố nhiên - Ông giáo sư đáp.

Và hình như nghe được mỉa mai trong câu hỏi của học trò, ông thầy giải thích:

- Các anh chị có biết hay không? Nhà văn Thạch Lam đã nói rất đúng rằng không cần đi năm châu, bốn bể, phiêu bạt giang hồ khỉ khô gì hết ráo mà cũng thành đại văn hào được như thường, nếu ta biết rõ xó hè của ta, ở đó có rất nhiều chuyện đặc biệt đáng viết ra.

- Nhưng tụi tui đã biết rõ cây chuối ấy.

- Biết đâu mà biết, các anh chị vẽ cây chuối ấy chưa nên hình mà.

Không đợi lịnh thầy, sinh viên thu lượm cọ, lượm goách [10], lượm sơn, rần rần kéo nhau để qua vườn hầu vẽ cây chuối bất hủ của thành phố Gia Định.

Nếu ngày sau có anh chị nào trở nên nhà danh họa thì hẳn cây chuối tối tăm nầy phải đi vào lịch sử.

Người học vẽ nào cũng sợ nhứt phải vẽ những thứ gì quá đơn giản như cây thước chẳng bạn, bởi không có gì để vẽ cả, trừ vài đường ngay, nét thẳng, không thể ăn gian được bằng những nét huê dạng nào hết.

Bởi vậy chỉ có những tay danh họa mới vẽ nổi cục nước đá cho ra hồn một cục nước đá vì cục nước đá hình thể đơn giản nhứt thế gian.

Cây chuối, thật ra không quá đơn giản lắm, nhưng nó đâu có ngoạn mục được như cổng Lăng Ông Lê Văn Duyệt, đâu có hấp dẫn như ao sen trong thảo cầm viên, thế nên học sinh phấn khởi xuống... sân để nô đùa chớ không phải vì mê cây chuối.

Các nghệ sĩ tương lai ở mọi môn đều phải qua cảnh khổ nầy, cũng như các anh học nhạc một cách căn bản, đánh đàn, chỉ được đánh có một nốt [11] Do suốt tháng trường chớ cấm chơi các bài bản, thì anh nào nặng kiếp tu lắm mới đi trọn đường nghệ thuật được.

Họ ngồi khít sát nhau trên bệ thềm của ngôi nhà lân cận trường nhìn ra vườn, tức về hướng trường mình. Mấy cây chuối đang tắm nắng, mấy cây chuối quá quen thuộc nầy mỗi ngày mỗi trưởng thành lên, có cây đã cho quả rồi, gần được đốn để nhường chỗ cho chuối non lớp khác kế tiếp lớp nầy cũng như lớp nầy kế tiếp lớp trước nhưng họ vẫn hồn nhiên thương yêu cuộc đời chớ không vì hình ảnh mà bùi ngùi cho kiếp phù du của con người.

- À, sao anh lại vẽ cây chuối tím?

Ông giáo sư Cây Chuối hỏi một anh sinh viên như vậy.

- Chớ thầy đã chẳng dạy là nghệ sĩ phải tung hoành thoát sáo, phải tránh giẫm chơn lên các lối mòn hay sao?

- Nhưng anh đã là nghệ sĩ hay chưa nè mà muốn làm phăng-te-di [12]? Anh cứ vẽ cây chuối màu lục non cho tôi coi nào.

° ° ° ° °

Liễu thừ người ra. Mấy câu đối thoại trên đây làm cho nàng chợt tỉnh và nàng bắt chợt nàng đang vẽ cây chuối màu xám tro.

Nàng kinh ngạc hết sức. Nàng không biết nàng có đủ tâm hồn nghệ sĩ hay không nhưng từ mấy tháng vào học tới nay nàng luôn luôn tuân 1ịnh thầy và tuân mọi kỷ luật nhà trường không hề huê dạng về khía cạnh nào để làm gì cả.

“Thế sao nay bỗng dưng mình lại vẽ cây chuối màu xám tro? Kỳ lạ chưa?”

Liễu không sao đáp được câu hỏi đó. Và, nàng bật cười rồi bạn hữu của nàng cũng cười, rồi nàng quên thắc mắc đi, lấy giấy ra vẽ cây chuối xanh một cách ngoan ngoãn như một cô dâu hiền.

Cây chuối xám tro kỳ dị nầy sẽ đánh dấu vào đời nàng thật đậm và sau đó nó là đầu dây mối nhợ của tấn bi kịch thứ nhì của thế hệ thứ ba của gia đình nàng.

° ° ° ° °

Hôm nay Lưu, ăn mặc mặc như đi làm rể. Chàng thắt cà-vạt [13] hẳn hòi và mặc quần áo trắng cho nó sạch sẽ. Chàng bất cần làm dáng với Liễu mà chỉ chuẩn bị để Liễu trình diện chàng với cha mẹ nàng. Mà như vậy chàng phải có vó đứng đắn, nghiêm trang mới được.

Chắc chắn là chàng phải qua cuộc trình diện nầy vì Liễu mời chàng ăn sáng thì hẳn là phải ăn với cả nhà nàng chớ không lẽ lại ăn riêng hay sao.

Chàng đoán rằng sở dĩ Liễu mời chàng ăn điểm tâm là chỉ vì mục đích chánh thức hóa một người bạn trai trước mắt cha mẹ nàng mà thôi chớ ai lại đãi khách như vậy. Người ta đãi ăn trưa hay ăn tối chớ.

Chàng không đáng được gia đình nàng phải cực khổ đãi cơm, mà không đãi cái gì thì không được ông cụ bà cụ thân sinh ra nàng chính thức biết tới.

Vậy, bữa ăn sáng có lẽ chỉ vì thế.

Vừa thấy mặt bạn, Liễu cười hóm hỉnh rồi hỏi:

- Rồi anh sẽ đi dự tiệc ở đâu?

- Đâu có. Sao em hỏi vậy?

- Anh thắt cà-vạt.

- À, ra vậy... Nhưng anh...

Thấy Liễu thình lình thừ người ra, Lưu bỏ dỡ lời giải thích của chàng.

Liễu chợt thấy bạn của nàng mặc trắng, khác hẳn ba lần mà hắn mặc cả áo sơ-mi lẫn quần tây đều một màu xám tro.

Nàng vụt nhớ đến cây chuối màu xám tro mà nàng đã vẽ hôm kia rồi tư lự rất lâu.

Lưu khó chịu quá, ngỡ chủ nhà đang có chuyện buồn nên chàng tìm cớ để rút lui cho phải lúc, thì bỗng nghe Liễu nói:

- Rất tiếc là anh mặc trắng. Em mặc bờ-lu-din màu để ta cùng ngồi trên sân cỏ. Nhưng thôi, ít ra anh cũng phải tháo cà-vạt ra, chớ em không dám tiếp quan to đâu.

Liễu vui tươi trở lại như thường, nên Lưu bỏ ý định rút lui. Chàng cười rồi vừa tháo cà-vạt vừa nói:

- Anh sợ vô lễ với hai bác, nhưng em đã cấm thì thôi vậy.

- À, anh chưa biết tình trạng trong gia đình em nên mới lo như vậy. Ba má em không có ở đây. Thôi, ta đi ra sau.

Liễu dẫn bạn đi ra sau nhà, như đã nói, mà đi qua cửa trước. Sân trước không có gì đặc biệt, ngoài mấy cây huỳnh liên và hai cây liễu, vì sân nhỏ không trồng gì được nhiều.

Sân bên hữu của nhà nầy là một con đường trải đá đỏ để cho xe chạy vào ga-ra [14].

Sân sau, giữa nhà chính và những căn nhà phụ thuộc như ga-ra, nhà bếp, kho v.v..., rộng minh mông và trồng đủ thứ cây ăn trái chịu đất ẩm như vú sữa, măng cụt, sầu riêng, mận, lý. Lý là một loại trái rất hiếm có ở Sàigòn, và mùa nầy là mùa của nó nên Lưu nhìn mấy cây lý rất lâu rồi nói:

- Năm xưa bà nội anh bị đau nặng thèm một trái lý ghê lắm. Rất tiếc là hồi đó anh chưa quen với em.

- Rồi bà nội...

-... đã qua đời với nỗi thèm khát của bà.

Một chiếc bàn ăn nhỏ đã được đặt sẵn dưới cột một cây vú sữa già và chị người nhà đang dọn ăn.

Liễu không mời Lưu, cứ đi thẳng lại đó và Lưu nối gót theo bạn. Họ ngồi lại trên ghế, đối diện nhau, trước mặt mỗi người có một tách sô-cô-la [15] sữa rất lớn, lên hơi nghi ngút và một dĩa thịt nguội với lại một khúc bánh mì.

Họ ăn ngay, và Liễu giải thích tiếp:

- Ba má em ra riêng từ hồi chưa có em lận. Ổng, bả ở Sàigòn ấy. Em chỉ mới vào đây ở mấy tháng nay để đi học cho gần.

- À, ra vậy. Nhưng sao em nói em ở đây từ thuở nhỏ?

- Ðiều đó cũng đúng nữa. Hồi em còn nhỏ, ba má em còn nghèo chỉ ở một căn phố thôi, nên lại gởi em vô đây cho bà nội em. Ở đây có sân, có vườn mát mẻ, rất lợi cho trẻ con.

- À, cái gì cũng hữu lý hết, mặc dầu mới nghe thì hơi lạ.

Liễu không có nói gì thêm, nhưng Lưu đoán rằng chắc giờ cha mẹ nàng đã giàu rồi, mà có lẽ rất giàu nữa, vì nhà cửa như thế nầy mà họ không ở mặc dầu mẹ nàng khỏi phải sợ cảnh làm dâu nữa, thì hẳn họ đã có nhà lớn hơn và đẹp hơn. Chàng nói:

- Bây giờ anh mới hiểu ý định của em muốn học lái xe lấy, để cho bác tài nghỉ việc. Chắc xe chỉ có một mình em sử dụng?

- Không, em chỉ đi bằng tắc-xi thôi. Chính ra là để đưa ông nội em đi Biên Hòa mỗi tháng một, hai kỳ.

Đúng là gia đình nầy rất giàu. Chiếc Simca 9 cũ gây tốn hao một cách vô ích mà họ cứ để vậy là đích thị họ rất dư tiền.

Ông nội Liễu có thể đi bằng xe của ba Liễu đánh vào đây, thỉnh thoảng một lần, có phải là ít tốn hơn không?

- Nếu em không về đây thì ai săn sóc ông nội?

- Em về, em cũng không săn sóc được. Em có người cô họ, cô em góa chồng và không con, cô ở đây để săn sóc ông nội em.

Đó là tình trạng thường xảy ra trong các gia đình giàu có ở miền Nam, thường thường một người con gái góa chồng, bị hy sinh chịu cực khổ trở về với gia đình để nuôi cha mẹ, chớ không phải là người dâu mà các bậc cha mẹ đặt hết hy vọng vào.

Ðôi bạn đã ăn xong. Liễu không nói gì, đứng lên rồi đi qua sân bên hữu, tức qua mé rạch.

Ở đây có một hàng rào mà hôm đi tìm nhà, Lưu không thấy. Hàng rào làm bằng những cây trụ sứ tráng men màu tím, chơn rào và đầu rào là hai dây bê-tông [16] nhưng dây trên được lót gạch sứ men xanh để tì tay lên đó cho êm.

Hàng rào nầy chỉ có công dụng làm ranh giới cho người trên sân khỏi phải thấy bãi bùn khi nước ròng thôi và khi nước lớn như bây giờ, thì mặt nước lé đé chơn rào.

Ở đây không có trồng cây gì hết trừ một cây phượng vĩ ở mãi trong kia, và sau cây phượng vĩ là mấy cây bần có lẽ tự nhiên mà mọc. Đây là sân cỏ, một thảm cỏ màu rêu nõn trải ra, trông rất mát mắt. Người mình ít chơi thảm cỏ lắm, và thảm cỏ nầy với lại những cửa sổ không chấn song sắt, cho ngôi nhà một vẻ Tây phương đặc biệt.

Liễu nhảy lên ngồi trên một tấm bố, nóc lều cắm trại cũ mà có lẽ nàng đã dặn người nhà trải sẵn ở đó từ lúc thấy Lưu mặc trắng.

- Anh có thích phơi nắng hay không?

- Thích lắm nhưng chỉ có đi biển mới phơi nắng được, ở nhà thiếu phương tiện.

Chàng nghe đau xót lắm khi thú nhận điều đó. Chàng ở với cha mẹ, một căn phố không có sân, dưới nhà lại buôn bán, đó là một hiệu ba-da [17], thành thử cả nhà chàng đều bị bỏ tù trên một căn lầu hẹp từ năm nầy đến năm khác.

Chàng tự hỏi, yêu Liễu, chàng có trèo đèo hay không? Nên biết cho chàng rằng chàng không hề dè Liễu giàu đến mức nầy.

Nhưng chàng không lùi được nữa rồi. Nếu như chỉ tò mò về tấn bi kịch xảy ra hồi nửa thế kỷ trước, chàng bỏ cuộc rất dễ dàng. Nhưng chàng phải tự thú với chàng rằng sự tò mò ấy chỉ là một cái cớ mà chàng đưa ra, tiềm thức của chàng bị một lý do khác chi phối, lý do tình cảm.

Yêu đương nào có tội gì đâu? Ấy, nhưng từ ngày em gái chàng mất trí, chàng tự thấy đó là một tội ác lớn nên ý thức của chàng phải giả dối với chàng như vậy trong khi tiềm thức chàng xui chàng hành động theo sở thích của chàng.

Đôi bạn nhìn mặt nhau, qua hai cặp kiếng mát và trong giây phút, Lưu tin chắc rằng cô gái ngây thơ nầy sẽ là người đàn bà của đời chàng.

“Mình sẽ hóa điên hay không, nếu cha mẹ nó từ chối khi mình cầu hôn?” Lưu tự hỏi như vậy rồi bật cười.

- Anh cười gì?

- Em là một cô Lolita già đang tắm nắng.

Chàng đáp láo, láo nhưng thật, vì quả chàng cũng thấy như vậy. Cái dáng ngồi và cặp mắt kiếng của Liễu giống hệt dáng ngồi và cặp mắt kiếng của Lolita trong phim.

- Em già lắm sao?

- Đâu có. Em chỉ già đối với Lolita thôi chớ.

- Còn anh là lão giáo sư ấy nhưng mà trẻ quá.

- Đúng, nếu đối với lão giáo sư trong phim. Nhưng đối với em thì già quá.

- Anh đứng người thôi chớ không già. Anh có vẻ người lớn chớ không có tướng học trò.

- Tại anh nghĩ nhiều quá nên anh khằn.

- Không khằn. Đứng người là người lớn, chỉ vậy thôi.

Liễu bỏ dáng ngồi Lolita. Nàng khoanh tay lại trên hai đầu gối, cẳng nửa co, nửa duỗi ra trước mặt nàng, thành thử mũi giày của nàng chỉ còn cách gối chàng có một tấc thôi.

Nàng nhịp một bàn chơn theo nhịp 3-4 khiến Lưu có một liên tưởng về nhịp valse nầy, nên hỏi:

- “Dòng sông xanh” bên ngoài hàng song sứ tím nầy tên thật của nó là gì?

Quả nước của con rạch nhỏ này xanh thật.

- Nó tối tăm lắm chớ không vang danh như “Danube xanh đẹp” mà anh vừa nghĩ tới đâu.

Gót giày của Liễu nện một cái, rồi mũi giày nàng nện hai cái. Lưu thấy đó là một con vật chớ không phải là một bộ phận của thân thể người. Một con vật biết nói, biết hát, và nó đang hát lên điệu nhạc quay cuồng ca ngợi cái dòng sông lạnh Ðông Âu danh tiếng:

Một dòng sông xanh xanh

Môt dòng tràn mênh mông

Một dòng nồng ý biếc

Một dòng sầu mấy kiếp

Một dòng trời xao xuyến.

.............

- Trong các bức dư đồ thì em thấy ghi là rạch Cầu Bông - Liễu tiếp - Nhưng có người lại kêu là rạch Sư Muôn.

- Vậy à?

Cả hai đều bật cười.

Sư Muôn là một xì-căn-đan [18] của thế hệ trước, tại khu phố nầy mà báo chí đã làm rùm, họ có nghe kể lại.

Một áng mây trắng lững lờ trôi qua che mặt trời sớm mai một cách đột ngột khiến họ như thình lình bị ai ném vào nhà.

- Yêu cầu em 1ấy kiếng ra.

- Chi vậy?

- Vì đã hết nắng rồi. Với lại anh muốn ngắm mặt em trọn vẹn.

- Chi vậy?

- Em không hiểu đâu. Em chưa hiểu đâu. Nhưng năm tới em sẽ hiểu.

Không, không chắc gì Liễu chưa hiểu mặc dầu vẻ ngây thơ của nàng nó cho nàng cái vó trẻ con. Nàng làm theo lời bạn xin và Lưu thấy đôi mi nàng chớp lia lịa mấy cái, nàng bối rối trong mấy giây rồi thừ người ra.

Liễu đã hiểu. Nàng hiểu cả điều khác nữa. Nàng hiểu tại sao nàng lại vẽ cây chuối màu xám tro một cách bất giác. Tiềm thức nàng bị màu xám tro của y phục Lưu mà được thấy ba lần liên tiếp, bị màu ấy ám ảnh, và nó giao lại cho tri thức một cách ngấm ngầm, ý thức không hay biết gì cả.

“Mình bị ảm ảnh và mình vừa xúc động. Trời, mình đã yêu rồi à?”

Liễu thò tay xuống bứt cỏ, rất nhột nhạt mà bị bạn nhìn nàng. Nàng không còn tự nhiên như đêm ấy và như từ lúc Lưu mới tới đây đến giờ nữa.

“Nhưng cũng chưa có gì, nàng tự nói thầm như vậy. Mầy đã yêu, mà tình cảm của mầy chưa đáng kể đâu nhé. Người ta có yêu mầy hay không, còn điều đó nữa chớ, bởi cái đó mới là quan trọng. Vậy thì tốp lại đi, kẻo phải mắc cỡ với mình”.

Tự nhủ thầm là rất hợp lý, Liễu vẫn không tự nhiên trở lại được.

Nàng mừng quá mà bỗng thấy vài hột sương hiếm hoi trên đầu cỏ chưa kịp khô, lóng lánh lên. Mây đã qua rồi thì nàng có lý do để đeo kiếng trở lại. Nàng vừa đeo kiếng vừa rất muốn nói thật to lên:

- Không, anh đừng tưởng là em còn trẻ con lắm

Con gái dậy thì rất thích làm cô tiểu thơ và rất mích lòng khi bị xem là trẻ con, nhứt là khi kẻ nghĩ như vậy là kẻ mà...

Nhưng nàng vẫn không dám cải chính như ý muốn. Không hiểu sao kể từ lúc chợt hiểu lòng mình, nàng bỗng đâm ra bị mặc cảm nhỏ nhoi, nhỏ nhoi chớ không phải trẻ con đâu.

Nàng hết nghe mình ngang hàng với Lưu nữa, hết dám hách nữa mặc dầu kể từ giây phút vỡ lòng yêu, nàng chợt nghe rằng nàng đã trưởng thành.

Nàng mất cả tự tin, cứ lo rằng bỗng dưng Lưu khám phá được một khuyết điểm nào nơi nhan sắc của nàng, rất muốn che giấu chỗ khuyết điểm ấy và rất khổ mà không biết nó ở nơi đâu.

Bất giác, nàng co chơn lại, ngồi xếp tè he theo lối cổ truyền của dân tộc vì đó là lối ngồi kín đáo nhứt của phụ nữ, đã không biết che giấu cái gì thì cứ kín đáo rồi hẵng hay.

Cho đến đỗi nói, nàng cũng không dám nói gì nữa, vì bỗng dưng cụt hứng cũng có mà vì lo bị Lưu chê nàng nói không hay.

- Em vào ở trong nầy, có nhớ má hay không?

Liễu đang hồi hộp, lo sợ vì hối hận trễ muộn đã đánh nhịp bằng bàn chơn khi nãy, không biết Lưu có chê như vậy là không nên nết hay chăng, thì thình lình nghe bạn hỏi câu đó.

Nàng cười giòn lên rồi hỏi lại:

- Tại sao anh cứ thấy em là trẻ con?

- Tôi biết cô đã xin thẻ kiểm tra rồi hôm đầu năm nầy. Nhưng người lớn ơi, người lớn lại không biết nhớ mẹ hay sao?

- À, như vậy thì em trả lời. Vâng, em nhớ má chớ sao không. Nhưng thỉnh thoảng em về ngoài ấy và thỉnh thoảng ba má vô đây.

- Bây giờ đã mười giờ rồi, nắng không còn lợi cho da nữa, người lớn ơi. Ta vào nhà kẻo hai đứa đều thành khô mực ráo.

- Người lớn xin vâng lời... ông già.

- Anh già lắm hả?

- Em đang là trẻ con được lên chức người lớn thình lình, vậy anh đang là người lớn phải lên ông già chớ.

- Nhưng đêm nọ em lại bảo rằng anh là bà già! Ưng ai trái thị rớt bị bà già.

Đôi bạn cười xòa rồi đi song song với nhau ra sân trước.

Nhà day mặt về hướng Tây. Bóng nhà nơi sân trước đậm đen vì nắng sớm đã to.

Họ đứng trong bóng mát cạnh nhau, dưới gốc một cây huỳnh liên và Lưu nhìn trân trối sợi ruy-băng [19] cột tóc của Liễu.

- Em đẹp lắm, Liễu à.

Liễu mọc óc cùng khắp thân thể và cúi mặt xuống nhìn mũi giày của mình.

- Nhưng không phải đẹp ẻo lả như cây liễu trước mặt ta đâu. Em đẹp rất thể thao, em đẹp rất tân thời.

- Thôi đi vô nhà, anh.

Lưu theo bạn để mà xin phép về. Chàng biết rất đúng lúc nào là lúc phải rút lui. Màn phải hạ sau một lời tỏ tình kín đáo là hay, bởi đào đã bối rối trông thấy, không thể nói được gì nữa cho hay thì khán giả, thính giả không còn gì nữa mà xem.

Màn hạ ở trong rạp hát thì khán giả xao xuyến hoặc ngậm ngùi. Ở đây chính đào sẽ xao xuyến! Nên để cho đào xao xuyến một mình, có lợi hơn.

- Anh đã đòi về rồi à!

Người lớn bây giờ lại có giọng nũng nịu, trái hẳn với giọng kẻ cả của trẻ con hổm nay.

“Đào ngậm ngùi rồi đây, Lưu nói thầm. Nhưng đào chỉ ngậm ngùi trong mấy giây rồi thôi mình đi rồi thì đào chắc sẽ ca hát, và yêu đời hơn lên. Mình chủ quan lắm, nhưng mong rằng sự thật sẽ như vậy”.

Liễu lại tiễn bạn tận lề cỏ, cũng vịn ghi-đông chiếc xì-cút-tơ như đêm nọ và hỏi:

- Chừng nào anh vô nữa?

- Không dám hẹn đích xác. Anh vô thường lắm, em có bực mình hay không?

- Còn hỏi!

- Nhưng anh sẽ vô ban đêm. Ngày chúa nhựt có thể anh bận việc nầy việc khác. Em thấy như vậy có hại hay không?

- Không. Nhưng cứ ban đêm mãi hay sao?

- Thì cũng thỉnh thoảng ban ngày nữa chớ.

- Em rất mong anh.

- Anh cũng rất thích vô thăm em. Thôi, em trở vô nhà kẻo nắng. Bữa nay anh đi vòng đường Hàng Sanh, vì sợ hóa thành bà già nếu rủi ro bị trái thị rơi xuống trúng đầu.

Cả hai cười xòa rồi Lưu cho xe phóng lên dốc cầu.

° ° ° ° °

Dẹp vấn đề tình cảm lại một bên, Lưu thấy rằng hôm nay chàng khám phá ra được một việc. Không biết khám phá ấy có lợi gì cho sự tìm tòi để đi đến khám phá lớn hay không, nhưng cũng khá ngộ nghĩnh.

Chàng vừa được biết rằng gia đình nầy giàu lắm. Nhưng sự khám phá của chàng là họ bị Âu hóa rất đậm.

Người Âu Châu, hễ lối trên bốn mươi lăm là họ mới bắt đầu sống cho họ. Vào tuổi ấy, con cái của họ đã lớn khôn, hoặc đã lấy vợ lấy chồng rồi, hoặc vào nội trú, mà dầu còn ở chung với họ, họ cũng khỏi phải cực khổ lắm để săn sóc chúng tỉ mỉ như khi chúng còn bé.

Ông bố của Liễu có xe nhà, có lẽ có tới hai ba chiếc nữa không chừng, thì nàng đi học đâu có mệt. Vậy mà họ gởi con họ vào đây để... đi học cho gần.

Đó chỉ là cái cớ thôi. Họ muốn hoàn toàn rảnh rang sống cho họ. Có lẽ ông bà đang vui chơi vớt vát, trong đời sống “mông-đen” [20], nay tiệc, mai tùng, mốt tiếp tân, ngày kia dạ hội.

Chàng cũng bị Âu hóa, nên không thấy đó là một điểm xấu. Chàng nghĩ rằng thuở con người lập gia đình, thì người ta vui chơi chưa thỏa! Rồi bận bịu con dại, người ta đành để mất nhiều năm xuân trẻ, thì về sau, thành công trên đường đời rồi người ta vớt vát, cũng là chánh đáng chớ sao.

Tuy nhiên, xuất thân từ một gia đình tiểu tư sản, chàng hơi không thích nếp sống giàu sang ấy. Không hiểu sao có người lại lên án giai cấp tiểu tư sản là giai cấp tập sự làm nhà giàu, giai

cấp mơ ước làm nhà giàu. Chàng rất biết giai cấp của mình. Phần đông người trong giai cấp ấy thủ phận lắm và họ không ưa nhà giàu chút nào.

Giai cấp vô sản vẫn không ưa nhà giàu, nhưng còn thán phục nhà giàu, chớ giai cấp của chàng thì coi nhà giàu không đáng giá. Đó là giai cấp đã cho mọi dân tộc các nhà trí thức, các nhà bác học, các văn nghệ sĩ, nói tóm lại đó là giai cấp ý thức nhứt.

Những người đầu tiên đã biết thương xót kiếp nhà nghèo, không phải ở trong giai cấp tiểu tư sản đó hay sao?

Không, giai cấp tiểu tư sản không ưa nhà giàu đâu như có người đã tố cáo.

Vì vậy mà tình cảm của Lưu trên đường về, thật là hỗn độn. Chàng không vui trọn vẹn, như đáng lý chàng phải được vui, sau khi làm cho một thiếu nữ rung động vì chàng.

Chàng cứ không quên được rằng Liễu là con nhà giàu và tuy không bị mặc cảm vì nghèo hơn họ, chàng vẫn không cảm tình trọn vẹn được với gia đình ấy.

Khám phá thứ nhì của Lưu thuộc loại ăn trợt, tức là loại vắng bóng cái gì mới mẻ mà chính sự vắng bóng ấy lại chứng tỏ được rằng một giả thuyết của chàng là không đúng.

Nói một cách khác, chàng đã loại bớt được một nghi ngờ nhờ tìm không ra bằng chứng, tức là khám phá ra rằng sự nghi ngờ ấy là sai.

Chàng đã về tới nhà, và rất buồn cười khi đẩy xe vào trong. Chàng thấy mình giàu tưởng tượng quá vì bị ảnh hưởng của loại truyện nghẹt thở.

Câu chuyện toát mồ hôi lạnh do Hít-cốc [21] chọn lựa ấy tả một gia đình bà mẹ hóa điên, còn cậu con mười bốn sợ cha như sợ cọp.

Cậu bé cố phân tích lòng mình vì cậu ngạc nhiên cho tình cảm sai lầm của cậu. Cha cậu rất hiền lành và rất thương yêu cậu, cớ sao cậu lại sợ ổng đến thế? Cậu cố nhớ, cố nhớ thật mãnh liệt những gì đã qua trong đời cậu, ngược dòng thời gian mãi rồi trí nhớ của cậu dừng lại nơi một hình ảnh ghê rợn kia, thuở cậu còn bé tí tẹo.

Mẹ cậu dắt tay cậu, hồi chạng vạng tối, đứng núp sau một bụi bông bụp để rình cha cậu đập chết ai đó không rõ, dưới một cây lê, rồi chôn kẻ bị giết ngay tại gốc lê ấy.

Mẹ cậu hóa điên trong đêm đó, còn cậu thì không điên nhưng cứ sợ hãi con người mà cậu thấy là một kẻ hung tợn, tàn ác vô cùng.

Nhớ ra cái dĩ vãng xa vời ấy, cậu bé vội chạy đi tìm xẻng, tìm cuốc để đào bới.

Và cậu tìm thấy những mảnh xương. Vừa lúc đó thì cha cậu cũng về với một người làm y sĩ.

Ông bố hỏi:

- Mầy làm gì đó?

Cậu bé nhìn cha bằng đôi mắt thù hằn và khinh bỉ, rồi tiếp tục vừa đào vừa nói:

- Tôi đã hiểu tại sao mà mẹ tôi hóa điên đêm đó và tôi bắt đầu ghê sợ ông kể từ đêm đó.

Hai người lớn lặng người đi rồi vị y sĩ bạn của gia đình nói:

- Trời! Mầy có nhớ cái đêm mà tao biểu mầy đập chết con chó ở nhà vì nó có dấu hiệu mắc chứng dại, mầy chôn nó ở đâu không?

- Ở chỗ thằng nầy đang đào bới đây.

- Tao cũng nghĩ là thế. Nó có thấy gì không? Với lại chị ấy nữa?

- Tao không biết.

- Mà thuở ấy nó mấy tuổi?

- Ba tuổi.

- Thôi chết rồi. Vào tuổi đó, nó có thể hiểu biết được. Chắc chị ấy và nó đã rình xem và đã ngộ nhận. Hèn chi mà tao tìm mãi không ra nguyên nhơn của bịnh chị ấy và của tình cảm kỳ dị của nó đối với mầy từ thuở giờ.

Vừa lúc ấy, cậu bé đã tìm đủ bộ xương với cả cái đầu... chó.

Cậu ta vụt hiểu, vội quăng cuốc xẻng để chạy lại ôm cha mà khóc ròng.

Tác giả đã tả sự sợ hãi, sự nghi ngờ của đứa bé khéo quá, khiến ta ngỡ đó là một án mạng thật, cho tới câu chót mới biết đâu là đâu.

Câu chuyện, đoạn đầu, gợi cho Lưu một giả thuyết. Biết đâu ông nội của Liễu giết ai rồi chôn ngoài vườn và bà nội nàng bắt chợt được rồi hóa điên.

Vì thế mà suốt buổi sáng trải qua với Liễu ngoài sân chàng đã cho mắt lục lạo mọi xó vườn, mọi gốc cây. Chàng không thấy nơi nào mà mặt đất có chửa cả, hoặc sụp xuống cả, vì bộ xương người bị giết, mục nát đi, tạo một chỗ rỗng nên đất hụt chơn.

Lưu vụt cười khan lên, khiến mẹ chàng đang ngồi bán hàng hỏi:

- Gì mà vui dữ vậy?

- À, chuyện về anh em hồi nãy ấy mà má.

Chàng tự chế giễu mình là một tay trinh thám sách vở. Khó lòng mà một người vợ hóa điên khi thấy chồng giết người.

Dầu sao, sự vắng bóng dấu vết và vẻ vô lý của giả thuyết của chàng cũng giúp chàng vui lòng được mà đã loại bớt một ẩn số trong bài toán bể đầu.

Vả lại, chàng định bỏ cuộc luôn, yêu đương thú vị hơn nhiều, tội gì phải thắc mắc những chuyện không đâu bởi có thể bà cụ điên chỉ vì điên vậy thôi, chớ không hề có tấn bi kịch nào cả.

Vậy, chàng yêu.

Đã hăm ba tuổi rồi mà Lưu chưa yêu thật sự lần nào cả. Có những người chàng gặp gỡ tình cờ rồi vì không tìm lại được họ, vì bận việc nầy, việc nọ, chàng bỏ trôi luôn. Có những cô gái quen mà không vừa mắt. Có những cô gái vừa mắt và cũng quen, nhưng lại không được nết na.

Người đẹp sao quá nhiều, ở đất Sàigòn nầy và vào thời buổi đua đòi ăn diện nầy, nhưng tìm một người để mà yêu cũng khó lắm thay!

Giờ đã tìm được thì yêu vậy.

Nhưng yêu là sao nhỉ? Là nhớ, là thương chăng? Nếu chỉ giản dị có thế thì chàng đang yêu. Chàng thương Liễu ghê lắm, cứ muốn ẵm Liễu lên, mà Liễu phải nhõng nhẽo như một đứa em bé kia, để cho chàng vỗ về, năn nỉ. Chàng nhớ Liễu ghê lắm. Mới gặp nhau khi sáng đây, mà giờ ngồi lại bàn để ăn cơm trưa, chàng đã nghe thèm trở vào ngôi nhà ở đầu đường Hàng Thị rồi. “Tối nay, tối nay mình sẽ đi thăm Liễu”.

Nhưng không lẽ chỉ giản dị có thế.

Đành rằng rồi đôi bạn sẽ đi đến chỗ gần gũi xác thịt, bằng hôn nhơn hay ngoài vòng lễ giáo, nhưng đó là chuyện sau. Trong giai đoạn nầy phải còn cái gì. Nhưng cái gì kia?

Lưu không biết cái ấy nhưng cứ nghe rằng như thế nầy chưa đủ, chưa trọn vẹn là một mối tình, và cứ mang máng cảm thấy rằng còn cái gì.

Mẹ của chàng thì ngược lại, vui tươi ghê lắm, chớ không phải tư lự như chàng bây giờ.

Lưu nhìn mẹ, hơi ngạc nhiên. Bà cầm đũa lên rồi nói với ông:

- Tôi vừa bước vô phòng là nghe nó kêu “Má!” liền. Tôi mừng suýt bay bổng lên khỏi mặt đất. Cứ ngỡ mình mất luôn một đứa con, không dè mà...

Thì ra, khi sáng mẹ chàng đã đi thăm em gái chàng.

- Nó khỏi rồi hả má? Nhưng nó ăn uống có nhiều hay không?

- Cũng chưa thật khỏi đâu. Nó chỉ nhận diện được tao thôi, chỉ nhớ ra ba mầy với lại mầy, hỏi thăm hai cha con mầy rồi thì nó nói xàm trở lại, không trúng chỗ nào hết.

- Nhưng bà có hỏi nhà thương...

- Có chớ. Họ nói có nhiều hy vọng lắm. Dẫu sao nó cũng bớt tiều tụy vì nó đã chịu ăn uống như thường.

- Nghe bà nói, tôi mới dám bàn về nó chớ thật ra mấy tháng nay, tôi trốn câu chuyện, khiến bà cứ ngỡ tôi không thương con, không hỏi thăm hỏi lom gì nó hết.

Tôi đi thăm nó trên ấy có một lần mà đã mất hết tinh thần, không phải tại thấy nó, mà tại thấy một việc khác.

- Ba đã thấy gì? Lưu hỏi cha.

- Tao thấy một người đầm già.

- Ba thương đầm lắm bả? Như chị sáu Nhiệm?

Lưu hỏi rồi cười ngất. Cả nhà cũng cười với chàng sau lời nhắc nhở nầy.

Chị sáu Nhiệm là chị họ của chàng, nhưng cao niên gần bằng mẹ chàng lận. Năm ấy, hồi còn Tây ở đây, chị từ dưới tỉnh lên chơi.

Nhơn dịp có một chiếc tàu buôn lớn và mới đóng xong, hạ thủy đi chuyến đầu qua Viễn Ðông ba chàng đưa cả nhà đi xem tàu.

Năm ấy chàng mới có mười ba, nhưng biết tiếng Pháp nên làm cái công việc dìu dắt được.

Thấy thủy thủ người Pháp rửa hông tàu bằng bàn chải và sà-bông [22], chị Nhiệm thương xót đến rơi lệ. Chị kêu than lên:

- Trời ơi, sao họ bắt “ông” Tây phải làm công việc của “cu-ly” [23]?

Chị đã quen thấy Tây làm chúa ở đây, như một số người mình, và thương xót người Tây khổ hơn là người mình khổ.

Cha chàng không cười nói:

- Tao đâu có óc nô lệ như con Nhiệm. Chẳng, tao không dè có đầm nằm dưỡng bịnh trên ấy, nên tao ngạc nhiên, hỏi thăm người nhà thương, nhờ vậy mà biết một điều rất đáng thương.

Người đầm ấy vào nằm ở đó năm 1950. Vợ của một công chức cao cấp. Tới năm 1954 Tây phải về Tây hết - nghĩa là quân đội và công chức của họ - thì bà vợ ấy bị bỏ rơi lại.

Dĩ nhiên là ông chồng không bạc bẽo lắm, nhưng làm sao mà đưa người điên đi như đi du lịch cho được; điên tại xứ nào, ở luôn xứ đó thôi chớ.

Nhưng mình không làm sao mà khỏi đau lòng khi biết một kẻ bị gia đình bỏ rơi.

- Nhưng nhà mình có bỏ rơi con Bích đâu - Mẹ chàng cãi.

- Đành vậy. Hiện giờ thì mình không bỏ rơi nó. Nhưng tôi với bà đâu có sống hoài. Nếu nó không lành bịnh thì ngày kia...

- Còn thằng Lưu đây chi.

- Thằng Lưu nó sẽ có vợ, có con rồi bận sống, nó quên em nó đi chớ. Tình anh em đâu có được như tình mẹ con.

Lưu không đính chánh lời của cha chàng, vì ý thức về lòng người, chàng không dám tin chắc rằng chàng sẽ “thương hoài ngàn năm” như ông nội của Liễu, mà nhứt là vì chàng bận nhớ Liễu.

Câu chuyện điên nào cũng nhắc đến bà nội của Liễu, rồi tới Liễu. Có lẽ ngày kia, nội cái địa danh Biên Hòa hoặc Bà Chiểu, cũng đủ làm cho chàng thẫn thờ và về sau nầy, nếu chẳng may, việc không thành thì có lẽ chàng sẽ giựt nẩy mình khi nghe ai thốt lên địa danh Hàng Thị chẳng hạn, giựt nẩy mình rồi bồi hồi thương tiếc một mối tình tan vở.

Chàng nghe chàng đã yêu đậm đà rồi, mặc dầu cứ khó chịu vì cảm giác rằng còn thiếu thiếu cái gì.

° ° ° ° °

Liễu đã hóa thành nghệ sĩ thật rồi, nhưng không phải nghệ sĩ trong ngành họa đâu. Nàng thành thi sĩ.

Ừ, tại sao người con trai y phục màu xám tro biệt dạng luôn, không trở lại nữa?

Nửa tháng qua rồi, kể từ buổi sáng mà đôi bạn tắm nắng và nàng chợt hiểu rằng hắn yêu nàng, chợt nghe rằng lòng nàng đang đi thơ thẩn trong giấc mơ yêu nhẹ nhàng của thiếu nữ, đã dừng bước lại nơi một người.

Sự rung động đầu mùa đã biến đổi cả tánh tình nàng trong mấy ngày đầu, sau buổi sáng “lịch sử” ấy.

Lạ quá, tinh thần và xác thịt liên hệ mật thiết với nhau, chi phối lẫn nhau chớ không phải cái nầy làm chúa cái kia, hoặc cái kia làm chủ tể cái nầy như có hai quan niệm lớn đã tin tưởng như vậy.

Thố lộ kín đáo của Lưu đã làm cho nàng vui rộn lên. Đó chỉ là chuyện lòng thôi. Vậy mà bạn hữu nàng lại quả quyết rằng nàng đẹp hơn trước nhiều lắm và như là lớn lên thình lình, và bề ngang nở ra thêm thình lình.

Đó là chuyện trong mấy ngày đầu.

Rồi mỏi mòn trông đợi bạn, nàng tuyệt vọng lắm. Mà đó cũng là chuyện lòng thôi. Vậy mà bạn hữu của nàng cũng lại quả quyết rằng trông nàng sao mà già hẳn đi một cách đột ngột.

Liễu như kẻ mất hồn. Nàng không vẽ cây chuối sai màu sắc nữa, mà vẽ cây chuối ra hình người, hình hai người ngồi tắm nắng bên hàng trụ sứ tráng men tím.

Nàng không cười giỡn trong lớp nữa và co rút lại sống trong thế giới riêng biệt của nàng.

Không thế nào mà nàng hiểu được những mặc cảm và tâm trạng thật của Lưu trong hai tuần lễ khổ sở ấy, khổ sở cho cả hai, chớ không riêng gì cho hắn và cho nàng.

Đã bảo hắn không ưa nhà giàu. Hắn cứ lo rằng cô gái ngây thơ kia, giờ còn là gái thơ thì khiêm tốn, dễ thương như vậy, nhưng ngày sau, thành người lớn rồi nàng sẽ có tác phong kiêu hãnh, hách dịch và thị đời của nhà giàu.

Không, chàng mơ một người vợ nội trợ, chớ không phải một người vợ mông-đen. Chàng hơi lạc hậu, thích cái nếp phu xướng phụ tùy của Á Đông hơn là sự đồng đẳng của Âu Châu, và sở dĩ chưa yêu lần nào là vì chàng mâu thuẫn với chính chàng, một mặt thì mê các cô gái tân thời ở bên ngoài, trong cách trang phục, một mặt thì sợ họ quá văn minh về cảm nghĩ, về quan niệm 1uyến ái, quan niệm vợ chồng.

Nếu chàng thiếu đạo đức, hễ yêu thì cứ nhào vô mà yêu, bất kể ngày sau ra sao, không hạp nhau thì đoạn tuyệt như là vứt đi một chiếc áo cũ, nếu như thế thì không thành vấn đề.

Nhưng chàng lại ghét các cuộc yêu đương ngoài vòng lễ giáo lắm rồi, vì cái họa trong gia đình chàng còn mới ràng ràng. Như vậy chàng chỉ có thể yêu Liễu trong hôn nhơn mà thôi.

Mà khi Liễu thành vợ chàng rồi, thành người lớn rồi, Liễu sẽ khó chịu như một số các bà nhà giàu khác hay không?

Còn cha mẹ Liễu nữa. Ông bà ấy liệu sẵn lòng gả con họ cho một thanh niên không có tương lai như chàng hay không? Các ông cử nhơn luật ngày nay thất nghiệp nhiều quá, có ông phải đi dạy sử địa ở các trường tư thì liệu họ chịu để cho con họ sống đời tối tăm, làm vợ một kẻ chỉ xê dịch bằng loại xe hai bánh?

Lưu bị tình yêu và dè dặt chèo kéo nhau đến muốn rách lòng chàng. Chàng đã vô Bà Chiểu nhiều đêm, nhưng lần nào, xe chạy qua khỏi rạp hát Cao Đồng Hưng rồi thì chàng cũng đâm ra hoang mang, sợ hãi, và rốt cuộc cho xe chạy luôn lên dốc cầu, mượn đường Hàng Sanh để về nhà qua ngã Thị Nghè.

Với lại chàng bị bịnh điên ám ảnh nữa.

Gia đình nào mắc tai họa nào thì họ chỉ thấy tai họa ấy trong bất cứ do dự nào của đời họ.

Một nhà có con em lỡ bước phong trần thì họ cứ bị cái họa buôn hương bán phấn đe dọa họ mỗi khi họ nghĩ đến tương lai con em họ. Một nhà có con em tự tử vì tình duyên trắc trở, luôn luôn thấy ống thuốc ngủ, hay cái vòng thắt cổ hiện lên, mỗi bận có xung đột trong gia đình, giữa người lớn và lớp tuổi trẻ.

Lưu cứ lo lắng rằng Liễu thành một cô Bích thứ nhì nếu như chàng đi xa quá và rốt cuộc gặp một gãy đổ nào.

Nhưng trong địa hạt yêu đương, thường thì lý trí phải chịu lép vế trước tình cảm. Trong một ngàn kẻ đã yêu có đến 999 kẻ liều mà yêu, nhắm mắt đưa chơn mà yêu.

Và kẻ ấy tìm cớ để tự gạt gẫm mình trong cái bước liều ấy.

Lưu tự nhủ thầm: “Nếu cha mẹ nó không khứng gả nó cho mình thì mình mới hóa điên, chớ đâu phải nó. Phàm những kẻ làm áp lực, họ rất biết cái mức độ tối đa mà áp lực không gây nổ bùng. Họ ép duyên con họ, họ ngăn duyên con họ, tới mức nào đó thôi, liệu khi nào cô bé nổi loạn hoặc khủng hoảng tinh thần thì họ nhượng bộ. Bằng như mà họ không nhượng bộ tức là cô bé cũng xuôi chèo mát mái với họ, và như thế, cô bé đâu có phải hóa điên mà lo.

“Chính mình sẽ đi nhà thương Biên Hòa nếu việc không thành, mà như vậy, mình chỉ gây hại cho mình thôi, thì khỏi phải thắc mắc nữa”.

Thế nên người nữ nghệ sĩ tập sự suýt biến thành nữ sĩ thơ thẩn, chưa kịp hóa đá vọng phu thì anh chàng thám tử tập sự đã lù lù dẫn xác đến, vào một đêm kia.

Chàng bấm chuông điện và chuông mới reo lên tiếng đầu là đèn ngoài sân được thắp lên liền. Người mở đèn có lẽ đang ngồi sẵn nơi phòng khách, cạnh cái cửa chánh hay sao mà đèn đã được bật lên tức khắc và liền đó, cửa cũng mở banh ra liền.

Liễu chạy bay ra sân, trước khi cả con chó sau nhà sủa nữa và chị người nhà vừa thấp thoáng ở bên hông thì thụt vào ngay vì chị thấy nữ tiểu chủ của chị đã ra cổng trước chị mất rồi.

- Dữ hôn, Liễu nói, giọng hờn dỗi, tưởng anh không bao giờ để chơn tới xóm nầy nữa chớ.

- Hổm nay anh cúm em à.

- Ủa, người lớn mà cũng cúm nữa sao? Em ngỡ chỉ có trẻ con như em mới cúm thôi chớ.

Giọng của Liễu bây giờ ranh mãnh và hóm hỉnh rất tức cười.

- Thôi mà người lớn, người lớn oán làm chi mà dai lắm vậy. Vả hiện giờ “em” rất giận người lớn mở đèn sân.

- Phải tiếp anh long trọng chớ, kẻo anh lại trách là thiếu lễ độ, rồi anh không đến nữa.

- Đèn sân sáng quá sức. Anh không ưa làm cái đích cho người qua đường nhìn rõ quá như vậy. Hơn nữa, anh muốn thấy em một lần dưới ánh trăng.

- Anh cứ đứng đây, để em vô tắt đèn. Nhưng nếu anh sợ sáng thì từ rày phải có ám hiệu gì chớ ở đây vắng lắm, phải đề phòng mới được.

- À, anh quên mất điều đó. Thôi, em tắt đèn sân đi rồi hẵng hay.

Liễu chạy bay vào thềm, vói tay vào trong mà tắt đèn, rồi khép cửa chính lại từ bên ngoài.

Đôi bạn sánh vai nhau mà đi qua thảm cỏ rồi cả hai không rủ nhau, mà đều thót lên ngồi ở đầu rào, chân thòng ra ngoài phía rạch.

Trăng mọc ở hướng đông, tức sau nhà. Nhưng chị Hằng chưa lên cao mà ở hướng ấy cây bần mọc nhiều quá nên mặc dầu đêm nay cũng nước lớn đầy “mà” [24], nhưng họ chỉ thấy “cây lồng bóng” [25] mà không được thưởng thức cảnh “vàng gieo ngấn nước”.

- Sao hổm nay hổng vô?

Liễu hỏi trống không, không có tiếng xưng hô, khiến Lưu nghe chàng thân với bạn hơn hôm trước nhiều lắm.

- Hãy khoan. Nói về ám hiệu cái đã. Em muốn ám hiệu gì?

- Em đâu có biết.

- Vậy anh sẽ bấm chuông hai tiếng ngắn, tiếng thứ ba rất dài.

- Đồng ý. Con chó nó đã quen hơi anh rồi, hôm anh ăn sáng ở đây. Rồi nó sẽ quen với giọng chuông của anh.

- Nó quen được với giọng chuông sao?

- Ðược chớ. Mỗi người có mỗi lối bấm chuông khác nhau, mình không phân biệt được mà nó nghe thì biết ngay. Chẳng hạn nó nghe tiếng chuông của ba, nó ngoắc đuôi lia lịa chớ không hề sủa.

Một lần nữa Lưu nghe sung sướng vô cũng. Liễu nói “ba” chớ không nói “ba của em”. Có lẽ nàng ăn nói sai mẹo luật, theo con trẻ, chớ không có ý gì khác, nhưng cái “ba” ngắn ngủn ấy lại có nghĩa là “ba của chúng ta” theo mẹo văn phạm, ít lắm là của riêng miền Nam.

- Thế nào, Lưu hỏi đùa, người lớn hổm nay có lớn thêm phân nào hay không? À, em đo bao nhiêu?

- Một thước năm mươi lăm.

- Năm tới, em sẽ cao một thước sáu. Em mang giày cao gót nguyên ta-lông thì sẽ cao một thước bảy mươi hai, em cao hơn cả đàn ông nữa.

- Ừ, nhưng chỉ cao hơn đờn ông lùn thôi, chớ không thể cao hơn anh.

- Cao hơn anh chắc ăn, anh chỉ có thước sáu mươi lăm thôi.

- Như vậy thì một là anh cũng nên đi giày cao gót, hai là em hy sinh phân nửa ta-lông.

Đôi bạn cười xòa với nhau, Liễu trách:

- Em tức mình lắm đó nghe hông.

- Tức mình cái gì?

- Hổm nay trăng mùng mười, trăng mười hai, anh không vô chơi để ta ngồi ở đây được vài lần. Nay đã mười sáu rồi, mai mốt anh có vô nữa, tới lúc anh về trăng cũng chưa mọc.

- Em khéo lo, trăng khuyết rồi trăng lại tròn, tháng nầy ta không được hưởng thì tháng sau.

- Nhưng cũng mất hết một mùa trăng.

- Em nè, hình như em gầy hơn hôm trước, có đúng hay không?

- Em không có cân, nhưng chắc là gầy hơn.

- Sao vậy?

- Vì em thức khuya.

- Thức để làm gì?

- Tại mất ngủ.

- Nguyên nhơn?

Liễu đã khỏi được chứng mất ngủ của tuổi dậy thì rồi. Cơ thể nàng trưởng thành sớm hơn các thiếu nữ khác chớ nhiều cô cậu cho đến mười chín vẫn còn mất ngủ.

Nàng mất ngủ vì cứ tưởng nhớ tới Lưu, trên giường, sau khi mong ngóng chàng suốt mỗi đầu hôm. Nhưng nàng chỉ có thể giải thích láo thôi, láo nhưng thật phần nào.

- Em cứ băn khoăn về hội họa, thao thức hoài.

- Sao lại băn khoăn về cái mà em đã làm mỗi ngày bảy tiếng đồng hồ?

- Anh không biết đâu. Hay anh biết mà làm bộ hỏi cho vui. Không băn khoăn sao được khi mà hai bức tranh, một bức vẽ giống hịt như ảnh thật, một bức bôi lọ lem lên bố, mà các ông thầy nói cả hai bức đều có giá trị.

Cái đó đã điên đầu sơ sơ rồi, điều nầy mới là muốn đi Biên Hòa luôn. Họ chia ra làm ba phe, một phe thì nói như trên, phe thứ nhì nhứt quyết rằng chỉ có bức tranh bôi lọ lem mới có giá trị, phe thứ ba binh vực tới cùng bức tranh vẽ giống cảnh thật như chụp hình. Lộn xộn trí óc em quá.

- Thì em thích thứ nào, cứ theo phe ấy là xong chớ gì.

- Ác lắm là cả ba phe đều biện luận hữu lý.

Lưu cười ngất mà rằng:

- Anh không dốt lắm về chuyện ấy đâu. Bây giờ em chỉ mới băn khoăn sơ sơ vậy thôi, vài năm nữa em sẽ phải uống cà-phê đen để thức mà tìm tòi, mà sáng tạo.

- Thì em đã uống cà-phê đen rồi.

- Sớm dữ vậy? Em mà đã sáng tạo gì đâu.

- Sáng tạo chớ. Em biết rằng chưa ra trò trống gì nhưng cứ thích sáng tạo.

- Mệt lắm, các anh, các chị nghệ sĩ!

- Làm thầy cãi như anh mà khỏe ru hớ? À, trường anh chắc các chị đẹp lắm hả?

- Đẹp thua em.

- Thôi đi. Em có quen với mấy chị văn khoa, đẹp số dách.

- Cũng thua em tuốt.

- Nịnh!

- Không tin thì thôi.

- Anh còn thiếu nợ em tới hai câu hỏi.

- Gì với lại gì?

- Cái chuyện “Câu lạc bộ bảy người” với lại tại sao hai tuần nay anh không vô chơi.

- Anh không vô chơi vì nằm nhà, anh nhớ em. Mà nhớ thú vị lắm, thú vị hơn cả gặp nhau nữa.

- Mồm mép thầy cãi nói xuôi cũng được mà nói ngược cũng trôi. Còn chuyện “Câu lạc bộ”...

- À, đó là một chuyện trinh thám Ăng-lê trào lộng.

- Trinh thám mà lại trào lộng?

- Ừ. Câu chuyện như thế nầy.

“Có bảy người bạn kia, nam có, nữ có, cả b?