Đi tìm hoàng tử thành Rome
Ngày xửa ngày xưa, khi xem bộ phim “Kỳ nghỉ lãng mạn” (Roman Holiday), tôi cũng thầm ước mình sẽ giống như nàng công chúa may mắn kia, tình cờ gặp anh chàng ký giả lãng tử đẹp trai giữa thành Rome cổ kính, ngồi sau chiếc Vespa của anh phóng vút giữa những con đường lịch sử. Tôi mơ màng nghĩ tới ngày sẽ gặp hoàng tử của riêng mình để viết nên câu chuyện cổ tích thành Rome. Mà đâu phải chỉ riêng mình tôi, cô gái nào chẳng có ước mơ về hoàng tử của lòng mình như thế.
Cái thời xưa xửa xừa xưa ấy rồi cũng qua. Ai biết rằng rồi cho đến ngày nảy ngày nay, bước chân phiêu lãng tình cờ đưa tôi đến Rome và ước mơ thuở nào tự dưng vọng lại.
Hoàng tử đầu tiên tôi gặp là anh chàng Francesco làm lễ tân tại khách sạn sát ngay ga Termini. Vừa đưa bút khoanh tròn những điểm tôi nên đến thăm trên bản đồ, anh vừa nhiệt tình kể câu chuyện đầy huyền bí về sự hình thành của Rome.
Nằm trên hợp lưu của sông Aniene vào sông Tiber, Rome là tên ghép của hai anh em sinh đôi là Romulus và Remus, con của thần chiến tranh. Theo truyền thuyết cặp song sinh này sẽ được thừa kế vương quốc Anpơ nhưng bị cướp mất ngôi và thả trôi sông Tiber. May mắn thay, hai đứa trẻ được chó sói cho bú và chim gõ kiến cho ăn. Romulus và Remus lớn lên trở thành những người hùng mạnh và tìm ra một mảnh đất trù phú để xây dựng thành Rome. Bởi thế biểu tượng của Rome chính là hình ảnh con sói cho hai đứa trẻ bú. Sau khi giết người em Remus, Romulus trở thành vị vua đầu tiên của La Mã và còn cai trị vương quốc 38 năm sau cho tới khi biến mất trong một cơn bão.
Francesco còn nói nhiều chuyện dài hơn thế nhưng tôi nghe câu được câu mất. Như muôn ngàn người Ý khác, Francesco ăn mặc bảnh bao như người mẫu, nói tiếng Anh pha ngữ điệu Ý đặc sệt. Anh nói chuyện bằng cách ra hiệu với hai bàn tay đầy lôi cuốn, thỉnh thoảng dường như còn cố tình đưa tay vén những lọn tóc xoăn lưa thưa vừa xòa xuống hai bên má. Thú thật, mọi khi cử chỉ “nữ tính” ấy thường làm tôi khó chịu, nhưng có lẽ các chàng trai Ý có phong cách làm điệu đến tự nhiên khiến tôi chỉ biết cười trừ.
Bước ra khỏi cửa khách sạn, tôi tìm đến điểm đầu tiên Francesco đã đánh dấu trên bản đồ - đài tưởng niệm Vittorio Emanuele II, vị vua đầu tiên của nước Ý thống nhất. Nằm giữa quảng trường Venezia và đồi Capioline, đài tưởng niệm này được thiết kế bởi Giuseppe Sacconi từ năm 1885, là một công trình kiến trúc khá mới so với vô vàn những kiến trúc hàng nghìn năm tuổi ở Rome. Chất liệu đá hoa cương trắng dùng cho xây dựng khiến công trình này có màu sắc nổi bật hơn trong cả khu vực. Có lẽ chính màu sắc ấy mà nhiều du khách khi tới đây đã gọi Vittorio Emanuele II là “chiếc bánh cưới” còn dân Roma cho rằng hình dạng tòa nhà gần giống với một “chiếc máy đánh chữ”.
Khi tôi còn đang cùng một nhóm khách du lịch Mỹ tạo dáng chụp ảnh trên quảng trường Venezia thì phía bên kia đường, một đoàn hàng nghìn người đông đảo, chủ yếu là thanh niên đang diễu hành với khẩu hiệu, cờ quạt rực rỡ và hàng chục xe cảnh sát hộ tống theo sau. Tính tò mò trỗi dậy, tôi hòa cùng nhóm người đang hát hò vui vẻ. Một thành viên dúi vội vào tay tôi một lá cờ và nói với tôi một tràng tiếng Ý. Sau phút đầu ngơ ngác, nhìn lá cờ đủ bảy màu sắc cầu vồng, tôi mới nhận ra mình đang tham gia vào một cuộc tuần hành lớn ủng hộ quyền của người đồng tính trên đất Ý.
Vậy là tôi bỏ dở hành trình mà Francesco đã vẽ cho, đi bộ cùng những người bạn Ý một quãng dài qua trung tâm thành phố. Vệt nắng chiều vàng ruộm chiếu lên bao kỳ quan mà tôi đã thuộc làu trên mặt bưu thiếp du lịch: Đấu trường La Mã (Colosseum), Khải Hoàn Môn, đền Pantheon, khu quảng trường La Mã (Roman forum)… Trong một phút giây nào đó, tôi có cảm giác như mình đang sống ở cả hai thế giới. Ngoài kia, những đền đài hàng nghìn năm tuổi tưởng như chìm trong sự yên tĩnh vĩnh hằng, còn ở đây là những con người ngập tràn tinh thần tuổi trẻ, đang lên tiếng vì những giá trị mới.
Chiều muộn, khi đoàn diễu hành về tới điểm cuối, tôi chia tay họ và liếc nhìn bản đồ, tìm đường vòng lại quảng trường Tây Ban Nha, nơi có những bậc thang nổi tiếng rộng nhất châu Âu, Spanish Steps dẫn từ Piazza di Spagna ở dưới chân lên tới Piazza Trinità dei Monti và nhà thờ Trinità dei Monti trên đỉnh. Nhớ năm xưa, cô diễn viên xinh đẹp Audrey Hepburn từng ăn cây kem ngọt lịm trên những bậc tam cấp này, hình ảnh khiến cho dân Mỹ mê như điếu đổ về một cuộc sống tươi đẹp theo phong cách Ý.
Khi tôi đến, trời muộn thêm, khách du lịch đã tản đi hết, chỉ còn từng nhóm thanh niên Ý ngồi hò hẹn chuyện trò râm ran. Tôi leo 135 bậc thang lên cao để ngắm nhìn thành phố. Phía dưới, những giỏ hoa đỗ quyên đang rung rinh trong gió; bên tay trái tôi là ngôi nhà màu hồng nơi thi sĩ Anh lừng danh John Keats đã qua đời lặng lẽ ở tuổi 25. Tôi ngồi trên bậc tam cấp vấn vương hồi lâu. Chỉ vài tuần trước đó thôi, tôi đã từng thăm ngôi nhà xinh xắn của Keats ở làng Hampstead, phía Bắc London. Bây giờ tôi đang đứng trước cửa một ngôi nhà lịch sử khác. Cuộc đời thi nhân tài hoa bạc mệnh, nhưng những vần thơ của Keats còn sống mãi với thời gian “Beauty is truth, truth beauty, - that is all ye know on earth, and all ye need to know” (Cái đẹp là chân lý, chân lý là cái đẹp, nhân gian bao điều chỉ thế và người cần biết thế thôi)!
Ngày hôm sau, tôi dậy từ sớm, đi lòng vòng ra đài phun nước Trevi. Thành phố dường như còn ngái ngủ, thỉnh thoảng chỉ thấy một chiếc Vespa vèo qua. Trevi có lẽ là một trong những điểm đến nổi tiếng nhất ở thành phố này. Tôi nghĩ người Rome làm du lịch quá giỏi khi “sáng tác” ra truyền thuyết “Để có cơ hội quay lại Rome, hãy ném một đồng xu xuống đài phun nước”. Để cho câu chuyện thêm kỳ bí, người ta còn yêu cầu bạn phải quay mặt lại, ném xu bằng tay phải vòng qua phía vai trái. Đài BBC từng đưa tin rằng mỗi ngày, ước tính có tới 3.000 Euros được ném xuống đây, số tiền này sau đó được tài trợ cho Caritas, một tổ chức từ thiện của Ý. Riêng lượng tiền “ném xuống giếng” này đủ cho thấy khách du lịch tới Trevi đông cỡ nào.
Chia tay thần Nepturn và những cô gái mang biểu tượng bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của ngài, tôi đi vào khu Quảng trường La Mã.
Từng là kinh đô của đế chế La Mã hùng mạnh, cho tới nay qua 2.800 năm lịch sử, Rome còn lưu giữ vô vàn những di sản quý giá về văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc, khoa học từ thời kỳ này. Vì thế, không thể nói là đã đến Rome nếu chưa tới thăm khu Quảng trường La Mã. Nơi đây từng là khu trung tâm hành chính, tôn giáo và sinh hoạt thương mại của đế chế La Mã với vô vàn những hội trường lớn để hội họp, những đền thờ, cung điện, chợ búa phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của dân chúng.
Nằm trong một thung lũng nhỏ, xen giữa đồi Capitoline và Palatine, ngày nay, khu quảng trường này là một khối kiến trúc đổ nát khổng lồ, một di chỉ khảo cổ còn dang dở. Ai biết được ở dưới sâu trong lòng đất, người La Mã cổ xưa còn ấn giấu những gì? Có thể là một hệ thống dẫn nước chằng chịt, đôi chiếc bình gốm cổ, vài bức điêu khắc lớn, những đường hầm ngang dọc hay còn nhiều kho báu giá trị hơn thế? Cả một khu quảng trường rộng lớn từng là nơi ca khúc khải hoàn mừng chiến thắng, nơi tổ chức những buổi tế lễ, cầu nguyện, nơi giao thương buôn bán rộn ràng, nay chỉ còn là những mảng tường vỡ, dăm hàng cột dựng cao và những chú mèo đi hoang nhẩn nhơ đùa giỡn cùng ánh trăng lai láng.
Đời thực không như mơ, những ngày ở Thành Phố Vĩnh Hằng trôi thoảng qua như gió, tôi vẫn không tìm ra hoàng tử đâu cả, chỉ thấy đấu trường La Mã vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt. Và Rome vẫn ở đó như một “người tình nghìn năm tuổi còn đợi chờ”.
Nhưng cuộc sống thật nhiều tình cờ. Tôi đã gặp hoàng tử của mình ở một nơi cách Rome 60km xuôi về phương Nam. Mà có lẽ ở đây, tôi chỉ kể về Rome thế thôi. Để tôi kể chuyện hoàng tử của mình và cái nơi cách Rome một giờ đi tàu ấy vào một dịp khác.
“Mọi con đường đều dẫn tới thành Rome”! Tôi muốn mượn lời của một bạn lữ hành vừa gửi cho tôi một vài phút trước để kết thúc bài viết này, chính lá thư của anh là cảm hứng để tôi cầm bút.
“Gửi người độc hành lặng lẽ!
Tôi đang viết cho em từ một quán café nhỏ của thành Rome. Chắc em đã từng tới đây vài lần, tôi biết thế. Từ duy nhất tôi có thể nghĩ về thành phố này là một áng anh hùng ca, một thiên sử thi diễm lệ. Những vương cung thánh đường trên quảng trường Thánh Peter, Khải Hoàn Môn, bảo tàng Vatican, và hàng nghìn nhà thờ lớn nhỏ, thành quách, cung điện, tượng đài, công trình tôn giáo… Tôi đã tham dự một buổi hành lễ tại một nhà thờ Thiên Chúa giáo theo nghi thức truyền thống với tất cả sự huyền ảo và mê hoặc của nó. Đẹp tới không tin nổi.
Và tôi nghĩ tới em. Chắc em sẽ trở lại Rome chứ?”
Phải rồi, chắc chắn tôi sẽ quay lại thành phố chứ, vì tôi đã trót ném xu xuống đài phun nước Trevi. Tôi sẽ tới Rome để còn được lên đồi Palentino, đi dạo dọc bờ sông Tiber, thăm Castel Sant’Angelo - lăng mộ Hoàng đế Hadrian, ngồi nghỉ trên những bậc tam cấp Tây Ban Nha hay chỉ đơn giản được nếm một que kem hay ăn chiếc bánh pizza margarita giữa cái nắng tháng sáu ngọt ngào và hát bài Cuộc sống tươi đẹp - La Dolce Vita.