Paris Còn chảy mãi dòng Seine
Tôi yêu Paris kể từ khi còn chưa đặt chân đến thành phố này. Khi tôi còn ở trong căn phòng nhỏ hẹp ở ngoại ô London, những ngày mưa buồn nhìn ra dòng sông mờ ảo, nghe vọng về những câu hát ngọt ngào của Ella Fitzgerald.
“I love Paris in the springtime.
I love Paris in the fall.
I love Paris in the winter when it drizzles,
I love Paris in the summer when it sizzles”.
(Tôi yêu Paris mùa xuân
Tôi yêu Paris mùa thu
Tôi yêu Paris mùa đông những khi mưa bay
Tôi yêu Paris mùa hạ những ngày rực rỡ)
Rồi một ngày cầm lòng chẳng đặng, tôi xách túi lên xe bus đi vòng vèo qua những con phố làng mạc miền Đông Nam nước Anh hướng xuôi ra biển. Chỉ cần nhìn ngắm những hàng cây hai bên đường cũng thấy thu đã về thật đậm ở xứ này. Tới cảng Dover, tôi lên phà đi qua kênh đào Anh, bên kia đã là Calais đất Pháp; chừng vài tiếng sau, tôi đã tới Paris.
Không giống như những dịp đi du lịch khác, tôi đến thành phố này không người đưa đón, không bản đồ trong tay, không tìm hiểu chi tiết sẽ đi đâu, xem gì, ăn thế nào. Tôi muốn để mình có những cảm giác về Paris mà không cần một sự chỉ dẫn, một kỳ vọng, một phán xét nào ảnh hưởng, có chăng chỉ vọng về đôi lời thoại trong bộ phim “Trước bình minh, trước hoàng hôn” và những lời hát da diết của cô nàng Celine “Hãy để em hát anh nghe một điệu waltz/Chẳng phải đến từ đâu, đến từ suy nghĩ của em/Hãy để em hát anh nghe một điệu waltz” (“Let me sing you a waltz/Out of nowhere, out of my thoughts/Let me sing you a waltz”).
Từ bến Gallieni tôi lò dò tìm cách đi vào trung tâm. Sau những giờ lạc dưới lòng đất vì hệ thống tàu điện ngầm rối rắm của Paris, đến khi chui lên mặt đường, trời đã ngả sang chiều, tôi ngỡ ngàng thấy mình đang ở trên Đại lộ Champs-Élysées lộng lẫy. Trước mặt tôi, Khải Hoàn Môn đường bệ vững vàng cùng năm tháng, phía bên kia đường tọa lạc cửa hàng sang trọng của hãng thời trang cao cấp Louis Vuitton.
Người ta thường nói nhiều về những ấn tượng đầu tiên khi bạn tới một thành phố. Sau này khi ngẫm lại nếu tôi bắt đầu đến với Paris từ một cửa ngõ khác ví như khu nghệ sĩ Montparnasse hay khu thương mại mới La Defense, đồi Montmartre hay khu ngoại ô vắng vẻ Vincennes, có lẽ tôi đã nghĩ về “nàng” rất khác. Đằng này từ Champs-Élysées, với tôi, Paris giống như một quý tiểu thư điệu đà và tự nhiên đâm ra tôi lại thấy xa lạ. Cái chất “người nhà quê” trong tôi trỗi dậy, tôi rảo bước tránh Champs-Élysées càng nhanh càng tốt, tôi lò dò tìm đường ra sông Seine khi “con trăng vừa nhú trên trời cao, hoàng hôn chìm dần vào mặt nước”.
Bên bờ sông, vài cụ già đang uể oải thu lại những chồng sách báo cũ cho vào chiếc hòm sắt sơn xanh, kết thúc một ngày thu dềnh dàng như mọi ngày. Tôi dừng lại trước một sạp hàng, xin phép ông cụ ngắm nghía những cuốn sách đã ố màu thời gian, tờ tạp chí LIFE từ những năm nào đã sờn gáy, cô đào Marilyn Monroe vẫn lộng lẫy trên những tấm poster quăn mép, bên cạnh nụ cười ngạo nghễ của Che Guevara.
Ai đó từng nói rằng “Tôi yêu những gì đã cũ, sách cũ, rượu cũ, bạn cố tri”. Tôi tin rằng cái cách người Paris cố tình vương vấn những sạp báo cũ bên bờ sông Seine là để họ níu kéo lòng mình với quá khứ, với hoài niệm, mà hoài niệm lúc nào chẳng đẹp, thay vì chỉ mải miết chạy theo ánh đèn hào nhoáng trên Đại lộ Ánh Sáng Champs-Élysées hay những mặt hàng xa xỉ trong Galeries Lafayette.
Những ngày sau của tôi ở Paris gắn chặt với những con đường lát đá thơ mộng bên bờ sông Seine. Tôi đi bộ dọc theo Quai de l’Hôtel de ville ghé thăm Nhà thờ Đức Bà Notre-Dame cổ kính, ngồi trong thánh đường hồi lâu đợi những nhịp chuông rung huyền hoặc, chờ giây phút nhiệm màu nào đó chàng gù Quasimodo sẽ hiện ra cùng nàng Esmeralda xinh đẹp.
Tôi đi qua chín cây cầu bắc ngang dòng sông trong khu trung tâm thành phố từ bờ Đông sang bờ Tây trong những tiếng thì thầm của của Apollinaire - thi sĩ Pháp mà tôi yêu quý.
“Dưới chân cầu Mirabeau chảy mãi dòng Seine
Đêm cứ buông chuông giờ cứ điểm
Tháng ngày trôi, mình tôi đứng lặng yên”
Tôi đã say mê với những họa tiết trang trí kiểu hoàng gia cuối thế kỷ XIX trên cầu Alexandre III, ngẩn ngơ với những pho tượng cổ xưa trên Cầu Neuf, mải mê ngắm những đôi tình nhân nắm tay nhau trên cầu nghệ thuật Pont des Arts - được người ta nhắc tới như “cầu khóa”, “cầu tình yêu”.
Tôi nhịp bước dọc theo từ Quai Malaquais ngược lên Quai Voltaire vào thăm bảo tàng nghệ thuật Orsay - nơi từng là một nhà ga xe lửa cũ, xem tác phẩm của những bậc thầy trường phái Ấn Tượng từ Claude Monet, Paul Cézanne, từ Auguste Rodin, Pierre-Auguste Renoir cho tới Vincent van Gogh.
Tôi đã ngồi nhâm nhi một ly café thơm lừng tại một quán nhỏ ven sông Seine vào buổi sáng với chiếc bánh sừng bò tươi còn thơm mùi hạnh nhân, đã thưởng thức baguettes với phô mai Camembert béo ngậy khai vị cho bữa tối tiếp nối bởi một lát thịt bò nướng sốt cùng Roquefort – loại phô mai xanh nổi tiếng xứ Pháp với cái mùi đặc trưng còn theo tôi vào tận giấc ngủ.
Tôi đã tìm đến hiệu sách Shakespeare & Company ở rue de la Bûcherie lúc ban chiều những mong gặp lại Hemingway, Scott Fitzerald và một “thế hệ đã mất” của văn đàn thế giới. Tôi hẹn hò cùng Julie một cô bạn xinh đẹp khi trời chạng vạng, uống một ngụm bia Kronenbourg 1664 trong một quán bar cạnh khu Latin để thấy lòng mình say say và đời mình yêu yêu.
Tôi đã lòng vòng theo Quai d’Orsay đến ngắm tháp Effief, công trình sắt cao khổng lồ ấy chẳng hiểu sao cứ khiến tôi liên tưởng tới những viền đăng ten mềm mại trên chân váy của một nàng thiếu nữ. Tháp truyền hình này hằng năm thu hút tới hơn hai trăm triệu lượt khách tới viếng thăm ấy thế mà khi vừa khánh thành, nó bị không ít người ghét bỏ. Văn hào Maupassant thậm chí đã dằn dỗi: “Tôi rời bỏ Paris và cả nước Pháp bởi vì tháp Eiffel hoàn thành làm tôi quá chán nản”.
Tôi vốn yêu Maupassant nhưng không thể học theo ông mà chán Paris được. Bởi vì Paris với tôi là những tháng ngày hội hè miên man, là cảm giác say đắm với thơ và nhạc trên đồi Montmartre, là sự tò mò trước những tác phẩm nghệ thuật đương đại ở trung tâm Georges- Pompidou, là phút giây một mình ngắm những cột đèn soi bóng dưới dòng Seine tĩnh lặng, là thời khắc lãng mạn nắm tay một người trong vườn Tuileries đợi hoàng hôn buông xuống, là buổi sáng trong veo giữa Père Lachaise; nghĩa địa rộng lớn, đi hoài không hết, chỉ thấy mình lạc giữa không gian phiêu diêu và tiếng quạ xao xác, vừa thấy cô đơn, vừa thấy thanh thản đến lạ kỳ. Paris còn là những lần thơ thẩn đi dạo qua con phố không cần biết tên, những phố thưa người lắm về đêm; duy ở góc một ngã tư có cái quán “Con mèo” vẫn thấy những đôi tình nhân ngồi ngắm nhau say mê qua những ngụm rượu vang và rót vào tai nhau những lời thì thầm. Chợt thấy mình như gã nhà văn khờ khạo trong bộ phim “Nửa đêm ở Paris” của Woody Allen, chỉ cần nhắm mắt lại một chút thôi, bạn sẽ thiếp đi trong mùi hương dìu dịu của những bông hoa hồng và lạc bước vào một thế giới kỳ ảo.
“Nếu bạn may mắn được sống ở Paris khi còn trẻ, thì rồi sau này bạn có đi đâu, quãng thời gian đó sẽ luôn bên bạn”. Hemingway đã viết về thành phố tình yêu này như thế. Sau những ngày tháng yêu dấu ở Paris, tôi về lại căn phòng nhỏ ở London, nghe tiếng mưa rơi lặng thinh. Căn phòng lặng lẽ với những cánh hoa freesia mỏng manh in thân hình gầy guộc trên nền tường trắng xóa, chỉ riêng tôi thấy lòng mình đầy ắp những hoài niệm. Ngoài kia mùa thu đang chầm chậm đi qua. Tôi nghe vọng về đâu đây lời hát “I love Paris every moment, every moment of the year. I love Paris, why, oh why do I love Paris? Because my love is near”(Tôi yêu Paris, yêu mọi lúc yêu từng khoảnh khắc, yêu trọn cả năm, mà sao tôi lại yêu Paris đến thế? Bởi vì tình yêu tôi luôn gần kề).
Bởi tình yêu thật gần, thế thì cứ đến Paris tận hưởng những ngày thơ mộng và cứ yêu đi tôi nhỉ?