← Quay lại trang sách

Chương 4

Nhân danh Allah, Đấng Rất Mực Độ Lượng, Đấng Rất Mực Khoan Dung, tôi biết khi anh đọc lá thư này, anh Markos, thì tôi đã không còn trên cõi trần nữa, vì lúc trao thư cho anh tôi đã yêu cầu anh sau khi tôi qua đời hẵng mở nó ra. Tôi xin bày tỏ niềm vinh hạnh to lớn khi được quen biết anh bảy năm qua, anh Markos. Khi viết những dòng này, tôi vui vẻ nghĩ về nghi thức trồng cà chua trong vườn vẫn diễn ra hằng năm của chúng ta, những sáng anh đến chỗ tôi dùng trà và chuyện gẫu, những buổi trao đổi các bài học tiếng Farsi và tiếng Anh đầy ngẫu hứng. Tôi xin cảm ơn anh vì tình bạn, sự chu đáo, và vì công việc anh đảm nhiệm ở đất nước này, và tôi nhờ anh gửi lời biết ơn tới cả những đồng nghiệp tử tế của anh, đặc biệt là bạn tôi, cô Amra Ademovic, một con người giàu lòng trắc ẩn, và con gái dũng cảm đáng yêu của cô, cháu Roshi.

Tôi xin mạn phép nói rằng lá thư này không chỉ dành cho anh, anh Markos, mà còn cho một người khác nữa, người mà tôi hy vọng anh sẽ chuyển thư đến giùm tôi, như tôi sắp giải thích đây. Thứ lỗi cho tôi, nếu tôi có lặp lại vài điều mà anh đã biết. Tôi nói cả những điều ấy vì cần thiết, vì lợi ích của con bé. Như anh sẽ thấy, lá thư này không chỉ là một lời thú tội, anh Markos, mà còn có những vấn đề thực tế đưa đẩy tôi cầm bút viết. Với những vấn đề đó, tôi e rằng sẽ phải cậy nhờ anh giúp đỡ, bạn của tôi.

Tôi đã nghĩ rất lâu không biết phải bắt đầu câu chuyện này từ đâu. Chẳng phải một nhiệm vụ dễ dàng, việc mà tôi sắp làm đây, đối với một người giữa độ bát tuần như tôi. Tôi không biết chính xác mình bao nhiêu tuổi, giống như nhiều người Afghanistan cùng thế hệ, nhưng tôi có thể tự tin ước chừng vì tôi nhớ khá rõ trận đánh nhau với bạn tôi, sau này là em rể tôi, Saboor, vào cái ngày chúng tôi nghe tin Nāder Shah bị bắn và giết chết, và rằng con trai của Nāder Shah, Zahir trẻ tuổi, lên ngôi. Đó là năm 1933. Tôi nghĩ mình có thể bắt đầu từ đây. Hoặc một lúc nào đó khác. Một câu chuyện như một đoàn tàu đang chuyển động: cho dù ta nhảy lên tàu từ đâu, thì sớm hay muộn cũng phải đến đích. Nhưng tôi cho rằng tôi phải mở đầu và kết thúc câu chuyện này với một điểm chung. Phải, tôi nghĩ có lẽ cũng hợp lý khi tôi chốt hai đầu câu chuyện với Nila Wahdati.

❆❆❆

Tôi gặp bà ấy năm 1949, năm bà kết hôn với ông Wahdati. Vào thời gian đó, tôi đã làm việc cho ông Suleiman Wahdati được hai năm, sau khi từ Shadbagh, ngôi làng nơi tôi sinh ra, lên Kabul năm 1946 - tôi đã làm cho một gia đình khác ở cùng khu phố trong một năm. Hoàn cảnh khiến tôi rời Shadbagh chẳng phải điều khiến tôi tự hào gì, anh Markos ạ. Hãy xem đó là lời thú tội đầu tiên của tôi, khi tôi nói rằng tôi cảm thấy ngột ngạt với cuộc sống ở làng cùng các em gái, trong đó một đứa bị tật nguyền. Hoàn cảnh không bào chữa được cho tôi, nhưng hồi đó tôi còn trẻ, anh Markos à, hăm hở đương đầu với đời, ngập tràn ước mơ, dù những ước mơ ấy có tầm thường và mơ hồ đến mức nào, và tôi đã hình dung tuổi trẻ của mình tàn dần, tiền đồ ngày càng thu hẹp. Vậy nên tôi đi. Để đỡ đần các em, phải, đúng vậy. Nhưng cũng để trốn tránh nữa.

Vì làm việc toàn thời gian cho ông Wahdati nên tôi cũng sống tại nhà ông toàn thời gian luôn. Hồi đó, ngôi nhà chẳng có mấy nét giống với tình trạng tiêu điều như anh thấy khi đến Kabul năm 2002 đâu, anh Markos ạ. Nó đẹp và huy hoàng lắm. Ngôi nhà ánh lên sắc trắng lấp lánh trong những năm xưa ấy, như thể được dát kim cương vậy. Cánh cổng trước mở ra lối vào rải nhựa rộng rãi. Ta bước vào một tiền sảnh trần cao được trang trí với những chiếc bình gốm thon dài và một tấm gương tròn được đóng khung bằng gỗ óc chó chạm khắc, chính là chỗ mà một thời gian anh từng treo bức ảnh cũ chụp người bạn thuở ấu thơ trên bãi biển bằng máy ảnh tự chế. Sàn phòng khách lát đá cẩm thạch sáng lấp lánh và được che phủ một phần với tấm thảm Turkmen đỏ. Giờ tấm thảm không còn nữa, cả những chiếc sofa da, bàn cà phê thủ công, bộ cờ vua bằng đá, tủ cao bằng gỗ gụ. Những món nội thất sang trọng ấy chẳng mấy thứ còn tồn tại, và tôi e rằng khung cảnh nơi đây chẳng còn được như xưa.

Lần đầu tiên tôi bước vào căn bếp lát đá, miệng tôi há hốc. Tôi nghĩ nó được xây đủ lớn để nuôi cả làng Shadbagh quê tôi. Tôi có cái bếp sáu lò, một tủ lạnh, một máy nướng bánh mì, vô thiên lủng xoong, nồi, dao, và các món đồ bếp tùy nghi sử dụng. Phòng tắm, cả bốn căn, được lát cẩm thạch chạm khắc tinh xảo và có bồn rửa tay bằng sứ. Còn những cái lỗ vuông trên kệ phòng tắm lầu trên của anh hiện nay ư, anh Markos? Một thời chúng được nạm đá thiên thanh đấy.

Rồi đến sân sau. Hôm nào anh phải ngồi trong phòng làm việc trên lầu, anh Markos ạ, nhìn xuống khu vườn, và cố hình dung thuở xưa của nó. Ta bước vào qua một sân hiên bán nguyệt được bao quanh bởi hàng rào phủ dây leo xanh rì. Bãi cỏ ngày ấy tươi xanh mơn mởn, điểm những khóm hoa - nhài, tầm xuân, mỏ hạc, tulip - và được rào quanh bởi hai hàng cây ăn quả. Ta có thể nằm dưới một cây anh đào, anh Markos ạ, nhắm mắt lại mà lắng nghe tiếng gió rì rào qua những tán lá và nhủ rằng trên đời này chẳng có chốn ở nào đẹp hơn thế.

Không gian sống của riêng tôi là một căn nhà nhỏ ở cuối sân. Nó có một ô cửa sổ, những bức tường sạch sẽ quét vôi trắng, và đủ rộng để đáp ứng các nhu cầu sơ sài của một thanh niên chưa vợ. Tôi có một giường, một bàn, một ghế và đủ chỗ để trải thảm cầu nguyện năm lần một ngày. Ngày đó tôi thấy ổn và đến giờ vẫn vậy.

Tôi nấu ăn cho ông Wahdati, kỹ năng mà ban đầu tôi học được từ việc quan sát người mẹ đã khuất của tôi và sau này là từ người đầu bếp già người Uzbekistan làm việc cho một gia đình ở Kabul nơi tôi đã làm phụ bếp cho ông ấy một năm. Tôi, thật mừng, còn là tài xế của ông Wahdati. Ông ấy sở hữu một chiếc Chevrolet đời giữa thập niên bốn mươi, màu xanh dương với mui màu vàng cát, hài hòa với ghế vinyl cũng màu xanh dương, và bánh xe mạ crôm, một chiếc xe đẹp mã khiến chúng tôi đi đâu cũng thu hút những ánh nhìn vương vấn. Ông ấy cho phép tôi cầm lái vì tôi đã chứng tỏ mình là một tài xế thận trọng và lành nghề, và ngoài ra, ông ấy thuộc giống người hiếm hoi không thích lái xe.

Xin đừng nghĩ là tôi khoe khoang, anh Markos à, khi tôi nói mình là một gia nhân tốt. Nhờ quan sát cẩn thận, tôi đã quen với những điều ưa, ghét, thói tật của ông Wahdati. Tôi cũng nắm rõ các sở thích và thói quen của ông ấy. Chẳng hạn như, ông ấy thích tản bộ mỗi ngày sau bữa sáng. Tuy nhiên ông lại không thích đi một mình, thành thử tôi phải đi cùng. Tôi tuân theo ý ông, tất nhiên, dù tôi thấy sự hiện diện của mình chẳng có ý nghĩa gì. Ông hầu như không nói một lời với tôi suốt quãng đường và tựa hồ đắm chìm mãi mãi trong những suy nghĩ của riêng mình. Ông bước nhanh, hai tay chắp sau lưng, gật đầu với người qua đường, gót đôi giày da bóng loáng gõ lộp cộp trên vỉa hè. Và bởi đôi chân dài của ông sải những bước mà tôi không bắt kịp nên lúc nào tôi cũng tuột lại đằng sau và buộc phải đuổi theo. Thời gian còn lại trong ngày, ông chủ yếu lui về thư phòng trên lầu, đọc sách hoặc đấu cờ một mình. Ông thích vẽ - dù tôi không thể chứng thực tài hoa của ông, ít nhất hồi đó cũng không, vì ông chẳng bao giờ chia sẻ những tác phẩm nghệ thuật với tôi - và tôi thường bắt gặp ông trong thư phòng, bên cửa sổ, hoặc trên sân hiên, lông mày nhíu lại tập trung, chiếc bút chì than đảo quanh cuốn sổ.

Cứ vài ngày một lần tôi lại chở ông vòng quanh thành phố. Ông đi thăm mẹ một tuần một lần. Có cả những cuộc họp mặt gia đình nữa. Và dù tránh mặt phần lớn bọn họ, ông Wahdati thi thoảng cũng có tham dự, thế là tôi chở ông đến đó, những đám tang, tiệc sinh nhật, lễ cưới. Hằng tháng tôi lái xe đưa ông đến cửa hàng dụng cụ mỹ thuật để ông bổ sung những chiếc bút chì sáp dầu, chì than, tẩy, gọt bút chì và sổ ký họa. Đôi khi, ông thích ngồi ở ghế sau và chỉ muốn được chở đi dạo. Tôi hỏi, Ta đi đâu đây, thưa Sahib? nhưng ông chỉ nhún vai, tôi bèn đáp, Vâng, thưa Sahib, rồi vào số lên đường. Tôi lái quanh thành phố, hàng giờ liền, không điểm đến hay mục đích, từ khu dân cư này sang khu dân cư khác, dọc theo sông Kabul, lên Bala Hissar, khi thì tới tận cung điện Darulaman. Có những ngày, tôi lái khỏi Kabul đến hồ Ghargha, tới đó tôi đỗ gần bờ nước. Tôi tắt máy, còn ông Wahdati vẫn ngồi im như tượng nơi ghế sau, không nói một lời với tôi, chừng như đủ hài lòng để hạ cửa kính xuống ngắm lũ chim vút từ cây này sang cây kia, và những tia nắng chiếu xuống hồ, rắc hàng ngàn đốm lấp lánh nhỏ xíu lên mặt nước. Tôi nhìn ông qua gương chiếu hậu và thấy ông như người cô đơn nhất trên đời.

Mỗi tháng một lần, ông Wahdati, thật hào phóng, cho tôi mượn xe, thế là tôi lái về Shadbagh, ngôi làng chôn rau cắt rốn của tôi, thăm em gái tôi, Parwana, và chồng nó, Saboor. Lần nào về làng, tôi cũng được đám trẻ hò la chào đón, chúng chạy dọc theo xe, đập lên thanh chắn bùn, gõ kính cửa sổ. Mấy đứa còi còi còn cố trèo lên nóc xe, khiến tôi phải xùy chúng đi vì sợ chúng cào xước sơn hay làm lõm thanh chắn bùn.

Nhìn anh mà xem, Nabi, Saboor nói với tôi. Anh là người nổi tiếng rồi.

Vì các con của chú ấy, Abdullah và Pari, đã mất mẹ đẻ (Parwana là mẹ kế của chúng), nên tôi luôn cố gắng quan tâm đến chúng, nhất là thằng anh, đứa có vẻ thiếu thốn tình thương nhất. Tôi đề nghị chở riêng nó đi chơi, dù lúc nào nó cũng đòi mang em gái theo bằng được, ôm chặt con bé vào lòng, trong khi chúng tôi lượn quanh đường khắp Shadbagh. Tôi để nó bật cần gạt nước, bấm còi. Tôi chỉ cho nó cách chỉnh đèn pha từ sáng mờ sang sáng hết cỡ.

Sau khi mấy trò ồn ào với chiếc xe lắng xuống, tôi ngồi xuống dùng trà với em gái và Saboor, và tôi kể cho họ nghe về cuộc sống của tôi ở Kabul. Tôi cẩn thận không nói nhiều về ông Wahdati. Tôi thực lòng quý mến ông ấy, vì ông ấy đối xử tốt với tôi, nên tôi có cảm giác mình chẳng khác gì kẻ phản bội nếu nói sau lưng ông ấy. Nếu tôi là gã làm thuê vụng giữ mồm giữ miệng hơn thì tôi đã nói rằng với tôi, Suleiman Wahdati là một kẻ bí ẩn, một người có vẻ hài lòng sống nốt phần đời còn lại với khoản thừa kế kếch xù, một người không nghề nghiệp, không có đam mê rõ ràng, và hiển nhiên không có động lực để lại chút dấu ấn nào trên đời. Một cuộc đời sống từ nơi ghế sau, quan sát nó nhạt nhòa trôi qua. Một cuộc đời dửng dưng.

Đó là những gì lẽ ra tôi đã nói, nhưng lại không nói. Và may thay tôi đã không làm thế. Vì tôi đã sai lầm biết mấy.

❆❆❆

Một hôm, ông Wahdati vào sân trong bộ com lê kẻ tăm bảnh bao mà tôi chưa từng thấy ông bận bao giờ, bảo tôi chở ông đến một khu dân cư giàu có trong thành phố. Khi chúng tôi tới nơi, ông bảo tôi đỗ vào lề đường bên ngoài một ngôi nhà tường cao đẹp đẽ, và tôi nhìn ông bấm chuông ngoài cổng rồi bước vào khi gia nhân ra mở. Ngôi nhà thật đồ sộ, to hơn nhà ông Wahdati, thậm chí còn đẹp hơn nữa. Những cây bách cao mảnh điểm tô lối vào, cùng với một loạt bụi hoa ken dày mà tôi không nhận ra là hoa gì. Sân sau ít nhất cũng to gấp đôi sân nhà ông Wahdati, còn tường thì đủ cao để nhỡ một người có trèo lên vai một người khác thì cũng khó lòng liếc trộm vào trong. Một mức độ giàu sang tầm cỡ khác, tôi nhận ra.

Đó là một ngày đầu hè rạng rỡ, bầu trời rực nắng. Không khí ấm áp mơn man qua ô cửa kính mà tôi vừa hạ xuống. Dù công việc của tài xế là lái xe, thực ra anh ta mất phần lớn thời gian để chờ đợi. Đợi bên ngoài cửa hàng, động cơ chạy không; đợi bên ngoài sảnh cưới, nghe tiếng nhạc nghèn nghẹt. Hôm đó để giết thời gian, tôi chơi vài ván bài. Chơi chán, tôi ra khỏi xe đi vài bước về một hướng, rồi đến hướng kia. Rồi tôi lại vào xe ngồi, tính lén chợp mắt một lát trước khi ông Wahdati quay lại.

Đúng lúc đó cổng trước mở ra và một phụ nữ trẻ tóc đen xuất hiện. Bà đeo kính mát và mặc bộ váy ngắn tay màu cam dài trên đầu gối. Chân bà ấy để trần, cả bàn chân cũng thế. Tôi không biết liệu có thấy tôi ngồi trong xe không, mà nếu có thì bà cũng không biểu lộ gì cả. Bà chống một bên gót giày vào bức tường sau lưng và khi làm vậy, viền váy hơi co lên để lộ một phần đùi bên dưới. Tôi cảm thấy hơi nóng râm ran lan từ má đến cổ.

Cho phép tôi đưa ra một lời thú tội nữa, anh Markos à, một lời thú tội mà bản chất có phần xấu xa, dẫn đến hành xử không được thanh nhã lắm. Thời gian đó, hẳn là tôi mới ngót ba mươi, một thanh niên đang độ rạo rực khao khát có phụ nữ bầu bạn. Không giống như đám trai làng tôi cùng lớn lên - những thanh niên chưa bao giờ nhìn thấy đùi trần của một phụ nữ trưởng thành và kết hôn, một phần là để cuối cùng cũng được quyền nhìn thấy cảnh ấy - tôi quả đã có một trải nghiệm đáng nhớ. Tôi đã tìm thấy ở Kabul, và thi thoảng cũng có đến, những nơi vừa kín đáo vừa tiện lợi cho đám đàn ông trẻ tuổi thỏa mãn nhu cầu. Tôi nhắc đến chuyện này cốt để nói rõ rằng không có cô gái làng chơi nào mà tôi từng vui vẻ cùng có thể sánh với người phụ nữ xinh đẹp, duyên dáng vừa bước ra khỏi ngôi nhà lớn kia.

Dựa lưng vào tường, bà châm một điếu thuốc và thư thái hút với vẻ duyên dáng mê hồn, kẹp điếu thuốc giữa ngay hai đầu ngón tay và khum tay trước miệng mỗi lần bà đưa nó lên môi. Tôi mê mải ngắm bà. Cung cách tay bà ấy cong lại nơi cổ tay mảnh mai gợi tôi nhớ đến hình minh họa tôi từng thấy trong một tập thơ bằng giấy bóng về một phụ nữ có hàng mi dài và mái tóc đen bồng bềnh nằm bên tình nhân trong vườn, những ngón tay thanh tú nhợt nhạt đưa cho anh ta chén rượu. Đến một lúc, có gì đó ở hướng đối diện trên phố dường như thu hút sự chú ý của người phụ nữ ấy, và tôi nhân cơ hội ngắn ngủi này bèn nhanh tay vuốt lại mớ tóc đang chớm dính bết vì nóng. Khi bà quay lại, tôi lại đờ người ra. Bà thả thêm vài làn khói, đoạn dụi điếu thuốc vào tường, rồi thong thả vào trong.

Cuối cùng, tôi cũng thở được.

Đêm đó, ông Wahdati gọi tôi vào phòng khách và nói, “Tôi có tin này, Nabi. Tôi sắp kết hôn.”

Rốt cuộc, có vẻ tôi đã đánh giá quá cao lòng yêu thích cuộc sống độc thân của ông ấy.

Tin tức về lễ đính hôn lan ra nhanh chóng. Cả những lời đồn cũng vậy. Tôi nghe được qua những người làm thuê khác tới lui nhà ông Wahdati. Kẻ hay đưa chuyện nhất là Zahid, một thợ làm vườn đến ba ngày một tuần để coi sóc bãi cỏ, cắt tỉa cây to và cây bụi, một gã khó chịu có thói quen ghê tởm là cứ đánh lưỡi sau mỗi câu nói, cái lưỡi mà gã dùng để tung tin đồn cũng tự nhiên như khi quăng những nắm phân bón. Gã cũng thuộc thành phần dân lao động cả đời, những kẻ như tôi, làm đầu bếp, thợ làm vườn, chân sai vặt ở khu dân cư này. Một hoặc hai tối mỗi tuần, sau khi xong việc trong ngày, họ lại chen chúc vào cái ổ của tôi để dùng trà sau bữa tối. Tôi không nhớ cái lệ này bắt đầu từ khi nào, nhưng một khi đã làm rồi, tôi không cách nào dừng nó lại được, sợ rằng sẽ tỏ ra thô lỗ và kém hiếu khách, hoặc tệ hơn, ra vẻ nghĩ rằng bản thân cao quý hơn những người giống như mình.

Một tối trong bữa trà, Zahid kể với những người khác rằng gia đình ông Wahdati không ủng hộ cuộc hôn nhân này vì cô dâu tương lai là người không đoan chính. Gã nói ở Kabul ai cũng biết bà ấy không có nang* và namoos*, không có đức hạnh, và rằng dù mới đôi mươi thôi nhưng bà ấy đã “đi hoang khắp chốn” như cái xe của ông Wahdati rồi. Tệ hơn cả, gã nói, bà không những chẳng thèm cố gắng phủ nhận lời đồn mà còn làm thơ về nó. Gã nói đến đấy liền có tiếng lầm bầm phản đối lan ra căn phòng. Một người bảo rằng nếu ở làng anh ta thì giờ bà đã bị cắt cổ.

Chu Thich: Danh dự.

Chu Thich: Lòng kiêu hãnh.

Đúng lúc đó tôi đứng lên bảo họ rằng tôi đã nghe đủ rồi. Tôi mắng họ vì đã ngồi lê đôi mách như mấy bà già trong hội khâu vá và nhắc cho họ nhớ nếu không có những người như ông Wahdati thì đám chúng tôi đã phải cuốn gói về làng mà nhặt phân bò. Lòng trung thành của các anh, sự tôn trọng của các anh ở đâu? tôi hỏi vặn.

Một thoáng im lặng trôi qua, trong khoảnh khắc ấy tôi tưởng mình đã khiến đám xuẩn ngốc kia choáng váng, nhưng đáp lại tôi là tiếng cười. Zahid nói tôi là kẻ xu nịnh, và có lẽ bà chủ tương lai của ngôi nhà sẽ viết một bài thơ mang tên “Thơ tặng Nabi, kẻ Xu nịnh Thiên hạ”. Tôi giận dữ giậm chân ra khỏi nhà giữa một tràng cười khùng khục nổ ra om sòm.

Nhưng tôi không đi quá xa. Những chuyện ngồi lê đôi mách của họ, hết khiến tôi ghê tởm lại làm tôi thích thú. Và dẫu có tỏ ra đàng hoàng, vì tôi luôn nói phải cư xử đúng mực và thận trọng, tôi vẫn không để những câu chuyện kia lọt khỏi tai. Tôi không muốn bỏ lỡ một chi tiết gai chướng nào.

Lễ đính hôn kéo dài chỉ vài ngày và đỉnh điểm không phải một buổi đại tiệc với những ca sĩ và vũ công biểu diễn trực tiếp cùng niềm hân hoan khắp chốn mà chỉ là một chuyến viếng thăm chóng vánh của một giáo sĩ, một nhân chứng, và hai chữ ký nguệch ngoạc trên giấy. Và thế là, chưa đầy hai tuần sau khi tôi thấy bà Wahdati lần đầu tiên, bà ấy chuyển đến sống tại nhà này.

❆❆❆

Cho tôi ngừng lại một chút, anh Markos à, để nói rằng từ đây tôi sẽ gọi vợ ông Wahdati là Nila. Khỏi cần phải nói, hồi đó tôi không được phép làm vậy, mà dẫu được thì tôi cũng nào dám. Tôi luôn gọi bà là Bibi Sahib, với sự tôn kính nên có. Nhưng vì mục đích của lá thư này, tôi sẽ bỏ qua phép xã giao mà gọi người đó theo cách tôi luôn nghĩ về bà.

Vâng, từ đầu tôi đã biết đây là một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Hiếm khi tôi thấy một ánh mắt dịu dàng được trao gửi giữa hai vợ chồng hay nghe thấy một lời âu yếm được thốt ra. Họ là hai kẻ sống chung dưới một mái nhà mà hai con đường riêng chừng như hiếm khi giao nhau.

Vào buổi sáng, tôi dọn bữa sáng truyền thống cho ông Wahdati - một miếng bánh naan nướng, nửa chén óc chó, trà xanh không đường rắc bạch đậu khấu, và một quả trứng luộc. Ông ấy thích lòng đào tràn ra sóng sánh vừa đúng độ khi chọc vào quả trứng, và những thất bại ban đầu của tôi để đạt đến độ đặc nhất định đó chứng tỏ rằng tôi đã phải lao tâm khổ tứ biết bao nhiêu. Trong khi tôi hộ tống ông Wahdati tản bộ mỗi sáng thì Nila vẫn ngủ nướng, thường là đến trưa hoặc có khi muộn hơn. Đến khi bà dậy thì tôi đã sắp sửa dọn bữa trưa cho ông Wahdati.

Cả sáng khi làm việc nhà, tôi cứ mong ngóng cái khoảnh khắc Nila đẩy cánh cửa lưới dẫn từ phòng khách ra sân hiên. Đầu tôi quanh quẩn trò chơi, đoán xem bà sẽ xuất hiện với vẻ ngoài thế nào trong cái ngày cụ thể ấy. Bà vấn tóc lên, tôi tự hỏi, thắt thành búi sau gáy, hay tôi sẽ thấy mái tóc ấy buông lơi, xõa xuống bờ vai? Bà có đeo kính mát không? Bà có chọn xăng đan không? Bà chọn chiếc áo choàng lụa xanh dương kèm đai lưng hay chiếc đỏ thẫm với cúc áo to tròn?

Cuối cùng khi cũng xuất hiện, tôi sẽ bận rộn ngoài sân, vờ như nắp ca pô cần được lau chùi, hoặc tôi sẽ tìm ra một bụi tầm xuân để tưới nước, nhưng suốt lúc đó tôi cứ ngắm nhìn. Tôi nhìn bà đẩy cặp kính mát lên để dụi mắt, hay khi bà tháo sợi dây thun khỏi tóc và ngửa đầu ra sau để những lọn tóc xoăn đen óng bung tỏa, và tôi nhìn bà ngồi tựa cằm lên đầu gối, đăm đăm nhìn khoảng sân, rít những hơi thuốc trễ nải, hoặc khi bà bắt tréo chân, một chân hất lên xuống, điệu bộ cho thấy vẻ chán nản, bồn chồn hay có lẽ là nét tinh quái hờ hững hầu như không kìm giữ nổi.

Ông Wahdati thi thoảng ở bên bà, nhưng thường thì không. Ông dành phần lớn thời gian như trước kia, đọc sách trong thư phòng trên lầu, phác họa, những việc thường nhật hầu như không vì kết hôn mà thay đổi. Nila thì viết lách hầu hết mọi ngày, hoặc trong phòng khách hoặc trên sân hiên, bút chì trong tay, giấy tràn khỏi lòng, và không lúc nào thiếu thuốc lá. Tối đến thì tôi dọn cơm, và mỗi người họ dùng bữa trong bầu im lặng nhức nhối, cúi mặt xuống đĩa cơm, không khí lặng yên chỉ bị phá vỡ bởi tiếng Cảm ơn lí nhí và tiếng thìa dĩa khua lanh canh vào các món đồ sứ.

Một hoặc hai lần mỗi tuần, tôi phải chở Nila ra phố khi bà cần một bao thuốc hay một lố bút mới, một cuốn sổ mới, đồ trang điểm. Nếu biết trước khi nào phải chở bà đi, tôi đều cẩn thận chải đầu, đánh răng. Tôi rửa mặt, chà một lát chanh vào ngón tay để khử hết mùi hành tây, đập bụi khỏi bộ com lê, đánh bóng giày. Bộ com lê màu ô liu ấy thực ra là của ông Wahdati cho tôi, và tôi hy vọng ông đừng kể cho Nila biết chuyện đó - dù tôi ngờ ông có thể đã kể rồi. Không phải vì ác ý, mà bởi những người ở địa vị ông Wahdati thường không nhận thấy những chuyện nhỏ nhặt, vặt vãnh thế này có thể khiến một gã đàn ông như tôi tủi hổ thế nào đâu. Có lúc tôi còn đội chiếc mũ lông cừu vốn thuộc về người cha quá cố của mình. Tôi đứng trước gương, nghiêng chiếc mũ trên đầu kiểu này kiểu nọ, say sưa chuẩn bị để xuất hiện chỉnh tề trước Nila đến nỗi nếu một con ong bắp cày có đậu lên mũi tôi thì nó cũng phải đốt xong thì kẻ này mới nhận ra sự có mặt của nó.

Khi chúng tôi đã lên đường, tôi tìm những con đường vòng không quá xa điểm đến, nếu có thể, những con đường vòng nhằm kéo dài chuyến đi thêm một phút - hoặc hai, nhưng không hơn để tránh bị nghi ngờ - nhờ thế mà tôi có thêm chút thời gian ở bên bà. Tôi lái xe với hai tay nắm chặt vô lăng, mắt chăm chú nhìn đường. Tôi rèn tính tự chủ vững vàng và không nhìn bà qua gương chiếu hậu, trừ phi bà nói chuyện với tôi. Chỉ cần bà ngồi nơi ghế sau, được hít bao mùi hương của bà - mùi xà phòng đắt tiền, sữa dưỡng da, nước hoa, kẹo cao su, thuốc lá - là tôi mãn nguyện lắm rồi. Hầu hết mọi ngày, thế là đủ để làm tôi vui phơi phới.

Chính trong chiếc xe ấy chúng tôi đã lần đầu nói chuyện với nhau. Cuộc nói chuyện thực sự đầu tiên của chúng tôi, không tính vô số lần bà sai tôi đi lấy cái này hoặc mang vác cái kia. Lúc đó tôi đang đưa bà tới hiệu dược phẩm mua thuốc thì bà lên tiếng, “Nó như thế nào nhỉ, Nabi, làng anh ấy? Anh nhắc lại tên được không?”

“Shadbagh, thưa Bibi Sahib.”

“Shadbagh, phải rồi. Nó như thế nào? Nói tôi nghe đi.”

“Chẳng có gì nhiều mà nói, thưa Bibi Sahib. Nó là một ngôi làng như bao ngôi làng khác thôi ạ.”

“Ồ, chắc chắn phải có điểm khác biệt chứ.”

Bề ngoài tôi vẫn bình tĩnh, nhưng trong lòng thì rối loạn, nôn nóng muốn nhớ ra điều gì đó, một nét khác biệt hay ho khiến bà thấy vui, thấy thú vị. Vô ích. Làm sao một kẻ như tôi, một gã trai làng, một người đàn ông tầm thường với cuộc sống tầm thường, có thể nói điều gì đó thu hút một phụ nữ như bà chứ?

“Nho ở đó ngon tuyệt,” tôi nói, và vừa mới thốt những lời đó ra tôi đã muốn vả vào mặt mình. Nho ư?

“Ra thế,” bà nói thờ ơ.

“Ngọt lắm.”

“À.”

Lòng tôi đang chết cả ngàn lần. Tôi cảm thấy hơi ẩm bắt đầu rịn ra bên dưới cánh tay.

“Có một loại nho đặc biệt,” tôi nói từ cái cổ họng đột nhiên khô khốc. “Người ta nói nó chỉ mọc được ở Shadbagh. Nó rất dễ chết, ừm, rất yếu. Nếu ta cố trồng ở bất cứ nơi nào khác, kể cả ngay làng bên, thì nó cũng úa tàn mà chết. Nó sẽ héo quắt. Nó chết vì buồn, người dân Shadbagh nói thế, nhưng, tất nhiên rồi, đó đâu phải sự thật. Mà là do đất và nước. Nhưng đó là những gì người ta nói, thưa Bibi Sahib. Buồn.”

“Thú vị thật đấy, Nabi à.”

Tôi liều mình liếc bà qua gương chiếu hậu thì thấy bà đang nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng tôi còn thấy, nhẹ nhõm tới vô bờ, khóe miệng bà cong lên trong một nụ cười thấp thoáng. Yên tâm rồi, tôi nghe thấy mình nói, “Tôi xin hầu một câu chuyện nữa được không, thưa Bibi Sahib?”

“Được chứ.” Bật lửa đánh lên, và khói từ ghế sau lãng đãng bay tới chỗ tôi.

“Ừm, ở Shadbagh chúng tôi có một giáo sĩ. Làng nào cũng có giáo sĩ, đương nhiên rồi ạ. Với làng tôi thì là giáo sĩ Shekib, và ông ấy có cả một kho tàng chuyện. Ông ấy biết bao nhiêu câu chuyện nhỉ, tôi không rõ. Nhưng chuyện mà ông ấy hay kể đi kể lại với chúng tôi là chuyện này: nếu ta nhìn vào bất cứ lòng bàn tay nào của một người Hồi giáo, dẫu ở bất cứ đâu trên thế giới, ta sẽ thấy một điều đáng ngỡ ngàng. Tất cả đều có đường chỉ tay giống nhau. Tức là sao? Tức là những đường chỉ tay trên bàn tay trái của một người Hồi giáo tạo thành số tám mốt trong tiếng Ả Rập, còn trên bàn tay phải tạo thành số mười tám. Lấy tám mốt trừ đi mười tám ta được bao nhiêu? Sáu ba. Số tuổi của Đấng Tiên tri* khi Người tạ thế, chúc Người an lành.”

Chu Thich: Tức Thánh Muhammad, sứ giả của Allah, người sáng lập đạo Hồi.

Tôi nghe thấy tiếng cười khúc khích khẽ vang lên từ ghế sau.

“Thế rồi, một hôm có một vãng khách ghé qua, và tất nhiên theo phong tục, tối đó ông ấy ngồi dùng bữa với giáo sĩ Shekib. Vãng khách nghe xong câu chuyện bèn ngẫm nghĩ, rồi ông ấy hỏi, ‘Nhưng, thưa giáo sĩ Sahib, với tất cả lòng tôn kính, tôi đã từng gặp một người Do Thái và tôi thề rằng lòng bàn tay ông ấy cũng có đường chỉ tay y hệt như vậy. Ngài giải thích sao đây?’ Và giáo sĩ trả lời, ‘Thế thì người Do Thái ấy trong tâm vốn là người Hồi giáo rồi.’”

Tiếng cười bất chợt của bà ấy làm tôi ngây ngất cả ngày còn lại. Như thể - xin trời cao tha thứ tội báng bổ này - nó từ trên trời rớt xuống đầu tôi, khu vườn chính nghĩa*, như sách nói, nơi những dòng sông chảy êm đềm bên dưới, cây ăn quả và bóng râm trải dài tít tắp.

Chu Thich: The Garden of the Righteous among the Nations, thuộc khu tưởng niệm Yad Vashem, Jerusalem, nơi vinh danh những người không thuộc dân tộc Do Thái nhưng đã hy sinh để cứu người Do Thái trong nạn diệt chủng.

Hãy hiểu cho, anh Markos à, rằng không phải chỉ vì vẻ đẹp của bà ấy mà tôi say mê đến vậy, dẫu chỉ thế thôi cũng đã đủ rồi. Đời này tôi chưa từng gặp một người phụ nữ trẻ nào như Nila. Mọi việc bà làm - cách bà nói, cách bà đi, phục sức, mỉm cười - đều mới lạ với tôi. Nila đi ngược lại với mọi quan điểm trước đó của tôi về cách hành xử của phụ nữ, một nét riêng mà tôi biết những người như Zahid - và chắc chắn là cả Saboor nữa, cũng như mọi người đàn ông ở làng tôi, và tất cả phụ nữ - phản đối dữ dội, nhưng với tôi nó chỉ làm tăng thêm sự hấp dẫn và bí ẩn vô cùng của bà.

Và rồi tiếng cười vẫn cứ ngân vang trong tai tôi khi tôi làm việc hôm ấy, và sau đó, khi những người làm khác kéo đến dùng trà, tôi cười tươi và chặn tiếng cười khùng khục của họ bằng tiếng cười lảnh lót ngọt ngào của bà, và tôi tự hào vì biết rằng câu chuyện thú vị của mình đã giúp bà khuây khỏa phần nào khỏi cuộc hôn nhân bất hạnh. Bà là một phụ nữ đặc biệt, và đêm ấy khi đi ngủ, tôi có cảm giác mình cũng bớt tầm thường hơn. Bà đã tác động đến tôi như vậy đó.

❆❆❆

Chẳng bao lâu sau, chúng tôi đã ngày ngày nói chuyện với nhau, thường là vào cuối buổi sáng khi bà nhấm nháp cà phê trên sân hiên. Tôi thong thả lại chỗ bà, vờ làm việc này việc kia, và thế là lúc thì tôi dựa vào chiếc xẻng, lúc lại nhâm nhi chén trà xanh mà nói chuyện với bà. Tôi cảm thấy thật vinh hạnh khi bà chọn tôi. Xét cho cùng, tôi không phải là gia nhân duy nhất; tôi đã nhắc đến con cóc vô sỉ Zahid, và còn có một phụ nữ người Hazara cằm xị tuần đến hai lần để giặt giũ quần áo. Nhưng tôi mới là người bà dựa vào. Tôi là người duy nhất trong số đó, tôi tin thế, bao gồm cả chồng bà, người chỉ làm bà thêm cô đơn. Thường thì bà chủ yếu là người nói, việc này với tôi không vấn đề gì; được làm cái thùng cho bà trút những câu chuyện là tôi đủ hạnh phúc rồi. Chẳng hạn như, bà kể về một chuyến săn tới Jalalabad mà bà từng đi với cha mình và đã bị cơn ác mộng về những con nai chết với cặp mắt đờ đẫn ám ảnh hàng tuần ra sao. Bà kể rằng hồi nhỏ, trước Thế chiến II, bà đã được đi Pháp cùng mẹ. Để đến đó, bà phải đi cả tàu hỏa lẫn tàu thủy. Bà tả cho tôi nghe bà ấy cảm thấy tiếng bánh tàu hỏa xóc nẩy như thể trong xương sườn mình thế nào. Và bà nhớ rõ những tấm rèm rủ xuống từ móc treo và các khoang tàu riêng rẽ, cùng tiếng tu tu xình xịch nhịp nhàng của động cơ hơi nước. Bà kể về sáu tuần ở Ấn Độ cùng cha năm trước, khi đó bà đã bị ốm rất nặng.

Thi thoảng, khi bà quay sang vẩy tàn thuốc vào chiếc đĩa lót, tôi bèn liếc mắt nhìn trộm màu sơn móng chân đỏ, bắp chân cạo nhẵn lấp lánh ánh vàng, hõm sâu của bàn chân, và không lúc nào bỏ qua bầu ngực đầy đặn tuyệt đẹp của bà. Có bao nhiêu gã đàn ông trên đời này, tôi tự hỏi, đã được chạm vào bầu ngực ấy và đặt môi hôn lên đó khi làm tình với bà. Đời còn gì để mong ước một khi ta đã được mãn nguyện như vậy đây? Một gã đàn ông biết hướng tới điều gì một khi đã đứng trên đỉnh cao thế giới? Chỉ có ý chí mạnh mẽ mới khiến tôi đánh mắt về nơi an toàn khi bà quay sang nhìn tôi.

Khi ngày càng thoải mái hơn, bà bèn phàn nàn với tôi, trong những cuộc trò chuyện buổi sáng, về ông Wahdati. Một hôm bà nói rằng bà ấy thấy ông là người lãnh đạm và trịch thượng.

“Ông chủ rất hào phóng với tôi,” tôi nói.

Bà khinh bỉ phẩy tay. “Thôi đi Nabi. Anh không cần phải làm thế.”

Tôi lịch sự nhìn xuống. Những gì bà nói không hoàn toàn sai. Chẳng hạn như, ông Wahdati đúng là có thói quen chỉnh lại cách nói chuyện của tôi với vẻ bề trên có thể xem là, có lẽ không nhầm, trịch thượng. Đôi khi tôi vào phòng, đặt đĩa kẹo xuống trước mặt ông, châm thêm trà, lau vụn bánh khỏi bàn, vậy mà ông chú ý tới tôi không hơn gì một con ruồi bò trên cửa lưới, biến tôi thành hạng tầm thường mà chẳng thèm ngước mắt một cái. Tuy vậy xét cho cùng, đó chỉ là chút bất mãn không đáng kể, vì tôi biết có những người hàng xóm - những người trước kia từng thuê tôi làm - còn dùng roi và thắt lưng đánh gia nhân.

“Ông ấy chẳng có máu hài hước và phiêu lưu gì cả,” bà nói, hờ hững khuấy cà phê. “Suleiman là một ông già ủ ê bị nhốt trong thân thể một người đàn ông trẻ tuổi.”

Tôi thoáng giật mình trước sự thẳng thắn sỗ sàng của bà. “Thực ra thì ông Wahdati đặc biệt thoải mái khi ở một mình,” tôi nói, chọn cách ứng đối thận trọng.

“Có lẽ ông ấy nên sống với mẹ mình. Anh thấy sao, Nabi? Họ hợp nhau lắm đấy, tôi nói anh nghe.”

Mẹ ông Wahdati là một phụ nữ to béo, hơi khoa trương, sống ở một khu khác trong thành phố, với một đội gia nhân túc trực và hai con chó cưng. Lũ chó được bà lão nuông chiều và đối xử không phải như thứ ngang hàng với gia nhân mà như kẻ thượng đẳng hơn vài bậc. Chúng là giống vật nhỏ bé, không lông, gớm guốc, dễ hoảng hốt, nơm nớp lo lắng, và thường sủa những tiếng chói tai ghê người. Tôi khinh ghét chúng, vì tôi vừa bước vào ngôi nhà đó thôi là chúng đã nhảy lên chân tôi và ngu ngốc tìm cách trèo lên.

Tôi thấy rõ là lần nào tôi chở Nila và ông Wahdati tới nhà bà lão, không khí nơi ghế sau cũng trĩu nặng vì căng thẳng, và nhìn nếp nhăn phiền muộn trên đôi mày của Nila là tôi biết họ vừa cãi nhau. Tôi nhớ khi cha mẹ tôi cãi nhau, họ chỉ chịu thôi khi có người thắng rõ ràng. Đó là cách họ chặn đứng sự khó chịu, bịt kín nó lại bằng một phán quyết, ngăn không cho nó rò rỉ vào nhịp sống bình thường của ngày hôm sau. Nhà Wahdati thì không như vậy. Sóng gió giữa họ tạm lắng chứ không tan hẳn, như một giọt mực trong bát nước, với vết loang dư tàn cứ nấn ná đọng lại.

Chẳng cần phải vắt óc suy nghĩ cũng đoán được bà lão ấy không ủng hộ cuộc hôn nhân này và rằng Nila biết điều đó.

Khi chúng tôi tiếp tục trò chuyện, Nila và tôi, một câu hỏi về bà cứ quanh quẩn trong đầu tôi. Tại sao bà lại lấy ông Wahdati? Tôi không dám hỏi. Một cung cách không đúng mực như vậy vốn không phải con người tôi. Tôi chỉ có thể đoán rằng đối với một số người, nhất là phụ nữ, thì hôn nhân - kể cả một cuộc hôn nhân bất hạnh như thế này - là sự thoát ly khỏi nỗi bất hạnh còn lớn hơn.

Một ngày mùa thu năm 1950, Nila gọi tôi đến.

“Tôi muốn anh đưa tôi tới Shadbagh,” bà nói. Bà bảo muốn gặp gia đình tôi, xem quê tôi thế nào. Bà bảo rằng tôi đã dọn bữa cho bà và chở bà đi khắp Kabul một năm rồi thế mà bà hầu như chẳng biết gì về tôi cả. Đề nghị của bà làm tôi bối rối, ấy là còn nói giảm hết mức, vì thật bất thường khi một người ở địa vị bà lại yêu cầu được đưa đến một nơi xa xôi để gặp gia đình của người làm. Tôi vừa khấp khởi vui mừng vì Nila quan tâm đến tôi sâu sắc như vậy, vừa phấp phỏng lo lắng, bởi tôi đã dè trước được sự ngại ngùng của mình - và, phải, cả nỗi tủi hổ - khi cho bà thấy tôi đã sinh ra trong cảnh nghèo khó thế nào.

Chúng tôi khởi hành vào một buổi sáng u ám. Bà đi giày cao gót và mặc chiếc váy không tay màu đào, nhưng tôi thấy mình chẳng có tư cách gì mà khuyên bà đừng làm vậy. Trên đường đi, bà ấy hỏi làng tôi, những người tôi quen biết, em gái tôi và Saboor, về lũ trẻ.

“Cho tôi biết tên chúng đi.”

“Vâng,” tôi đáp, “một đứa là Abdullah, gần chín tuổi. Mẹ nó mất năm ngoái, tức nó là con ghẻ của Parwana. Em gái nó là Pari, sắp lên hai. Mùa đông vừa rồi Parwana sinh được một thằng cu tên là Omar, nhưng nó đã chết lúc hai tuần tuổi.”

“Có chuyện gì vậy?”

“Mùa đông, thưa Bibi Sahib. Năm nào mùa đông về làng cũng cướp đi một hai đứa trẻ bất kỳ. Người ta chỉ có thể hy vọng nhà mình sẽ được bỏ qua.”

“Trời ơi,” bà nói khẽ.

“Tin vui là,” tôi nói, “em gái tôi lại mang thai rồi.”

Về đến làng, chúng tôi được chào đón bởi đám trẻ chân đất quen thuộc đuổi theo xe, dù một khi Nila ngó ra từ ghế sau, chúng im bặt và lùi lại, có lẽ sợ bị mắng. Nhưng Nila tỏ ra hết sức kiên nhẫn và dịu dàng. Bà khom gối mỉm cười, nói chuyện với từng đứa, bắt tay, vuốt bầu má lem nhem, vò mớ tóc dính bết của chúng. Tôi lúng túng khi thấy mọi người túm tụm lại nhìn bà. Có Baitullah, người bạn thuở ấu thơ của tôi, nhìn xuống từ rìa mái nhà, ngồi xổm với mấy ông anh như mấy con quạ đậu thành hàng, cả bọn đều nhai thuốc lá naswar*. Có cha của ông, chính là giáo sĩ Shekib, và ba người đàn ông râu trắng ngồi dưới bóng một bức tường, hờ hững lần tràng hạt, những đôi mắt không tuổi dán vào Nila và cánh tay trần của bà với vẻ khó chịu.

Chu Thich: Một loại thuốc gây nghiện làm từ lá thuốc, vôi và tro gỗ.

Tôi giới thiệu Nila với Saboor, rồi chúng tôi đi về phía ngôi nhà nhỏ trát bùn của hai vợ chồng, theo đuôi là cả đám người xem. Đến cửa, Nila khăng khăng cởi giày, dù Saboor bảo là không cần đâu. Khi chúng tôi vào trong, tôi thấy Parwana ngồi lặng im trong góc, co mình lại thành một quả bóng cứng ngắc. Nó chào Nila bằng cái giọng chẳng to hơn tiếng thì thầm là mấy.

Saboor nhướng mày với Abdullah. “Mang trà ra đây, cu.”

“Ôi, thôi thôi,” Nila nói, đoạn ngồi xuống đất cạnh Parwana. “Không cần đâu.” Nhưng Abdullah đã biến vào gian bên mà tôi biết vừa là bếp vừa là chỗ ngủ của nó và Pari. Một tấm mành nhựa hoen ố gắn nơi bậu cửa ngăn với căn buồng mà tất cả chúng tôi đang tụ tập. Tôi ngồi xuống, nghịch nghịch chùm chìa khóa xe, ước gì mình có cơ hội báo trước cho em gái về chuyến thăm, cho nó thời gian dọn dẹp một chút. Những bức vách bùn nứt nẻ lấm muội đen sì, tấm nệm rách Nila đang ngồi phủ đầy bụi, ô cửa sổ duy nhất trong buồng lốm đốm vết phân ruồi.

“Tấm thảm xinh quá,” Nila vui vẻ nói, lướt tay trên tấm thảm. Nó có màu đỏ tươi với họa tiết dấu chân voi. Đó là vật dụng có giá trị duy nhất mà Saboor và Parwana sở hữu - hóa ra cũng bị đem bán mùa đông năm ấy.

“Nó vốn là của cha tôi,” Saboor nói.

“Là thảm Turkmen à?”

“Vâng.”

“Tôi rất thích loại lông cừu mà họ dùng. Tay nghề tinh xảo quá.”

Saboor gật đầu. Chú ấy không nhìn bà lấy một lần kể cả khi nói chuyện với bà.

Tấm mành nhựa lật phật vén ra khi Abdullah quay lại với một khay trà và đặt nó xuống đất trước mặt Nila. Thằng bé rót cho bà một chén rồi ngồi khoanh chân đối diện bà. Nila cố bắt chuyện với nó, hỏi nó vài câu đơn giản, nhưng Abdullah chỉ gật cái đầu cạo trọc lốc, lí nhí lời đáp vỏn vẹn một hai từ, và chằm chằm nhìn bà đầy cảnh giác. Tôi nhắc mình lát nữa phải nói chuyện với thằng bé, nhẹ nhàng mắng nó vì đã cư xử như vậy. Tôi sẽ làm thế với vẻ ân cần vì tôi quý nó, một đứa vốn nghiêm túc và thạo việc.

“Cô được mấy tháng rồi?” Nila hỏi Parwana.

Đầu cúi xuống, em gái tôi đáp đứa trẻ sẽ chào đời vào mùa đông này.

“Cô thật có phúc,” Nila nói. “Khi được chờ đón một đứa con. Và còn có một đứa con chồng bé bỏng ngoan ngoãn dường này nữa.” Bà mỉm cười với Abdullah bấy giờ vẫn giữ nét mặt vô cảm.

Parwana lí nhí câu gì đó nghe như Cảm ơn.

“Tôi nhớ là còn có một đứa bé gái nữa thì phải?” Nila nói. “Pari à?”

“Nó đang ngủ ạ,” Abdullah đáp cụt ngủn.

“Thế à. Bác nghe nói là con bé đáng yêu lắm.”

“Mang em con ra đây,” Saboor nói.

Abdullah chần chừ, hết nhìn cha rồi lại nhìn Nila, rồi đứng lên bế em ra với vẻ miễn cưỡng thấy rõ.

Nếu tôi có bất cứ điều ước nào, kể cả vào giờ khắc muộn màng này, để bằng cách nào đó xá tội cho chính mình, tôi ước rằng sự gắn bó giữa Abdullah và em gái nó không quá sâu đậm. Nhưng không được vậy. Chỉ có trời mới biết tại sao hai đứa nó lại chọn nhau. Đó là một bí ẩn. Tôi chưa bao giờ thấy hai kẻ nào yêu thương nhau đến vậy. Thực ra, Abdullah giống cha Pari hơn là anh trai. Khi con bé còn ẵm ngửa, lúc ban đêm quấy khóc, chính thằng anh bật dậy khỏi giường bế em đi rong. Chính nó đảm nhận việc thay tã bẩn, quấn tã mới cho em, dỗ em ngủ lại. Lòng kiên nhẫn của nó dành cho em gái là vô bờ bến. Nó bế em đi khắp làng, khoe em như thể con bé là phần thưởng đáng khao khát nhất trên đời.

Khi nó ẵm Pari hẵng còn ngái ngủ vào buồng, Nila xin được bế con bé. Abdullah chuyền em cho bà với ánh mắt nghi ngại sắc lạnh, như thể còi báo động bản năng trong lòng nó đã cất tiếng réo.

“Ôi, con bé đáng yêu quá,” Nila thốt lên, cách bà vụng về nựng nịu đã tiết lộ rằng bà không có kinh nghiệm với trẻ nhỏ. Pari hoang mang ngắm Nila, nhìn về phía Abdullah, rồi bắt đầu khóc. Nó vội giằng em khỏi tay Nila.

“Nhìn mắt nó này!” Nila nói. “Ôi, cả bầu má nữa! Con bé đáng yêu quá, Nabi nhỉ?”

“Đúng vậy, thưa Bibi Sahib,” tôi đáp.

“Nó còn được đặt một cái tên hoàn hảo nữa: Pari. Con bé đúng là xinh như tiên.”

Abdullah nhìn Nila, tay đung đưa Pari, khuôn mặt trở nên u ám.

Trên đường trở lại Kabul, Nila ngồi thõng thượt nơi ghế sau, tựa đầu vào cửa kính. Suốt hồi lâu, bà chẳng nói một lời. Và rồi đột nhiên, bà bật khóc.

Tôi bèn tấp xe vào vệ đường.

Mãi lâu sau bà vẫn không nói gì. Vai bà rung rung khi bà úp mặt vào tay mà nức nở. Cuối cùng, bà hỉ mũi vào khăn tay. “Cảm ơn Nabi,” bà nói.

“Vì lẽ gì, thưa Bibi Sahib?”

“Vì đã đưa tôi tới đó. Được gặp gia đình anh là vinh dự của tôi.”

“Là vinh dự của họ mới phải. Cả của tôi nữa. Chúng tôi rất hân hạnh ạ.”

“Các con của em gái anh xinh quá.” Bà bỏ kính mát ra và chấm chấm mắt.

Tôi suy nghĩ một lát xem nên làm gì, trước tiên tôi chọn cách giữ yên lặng. Nhưng bà đã khóc trước mặt tôi, và khoảnh khắc thân mật đó đòi hỏi những lời an ủi. Nhẹ nhàng, tôi cất tiếng, “Bà sẽ sớm có con thôi, thưa Bibi Sahib. Inshallah, ông trời sẽ phù hộ. Bà hãy đợi đi ạ.”

“Có lẽ Người không làm vậy đâu. Ngay cả Người cũng không phù hộ được.”

“Tất nhiên Người có thể, thưa Bibi Sahib. Bà còn rất trẻ. Nếu Người muốn gì thì chuyện đó sẽ thành.”

“Anh không hiểu đâu,” bà mệt mỏi nói. Tôi chưa bao giờ thấy bà rệu rã đến vậy, kiệt quệ đến vậy. “Hết rồi. Họ đã nạo sạch tôi lúc ở Ấn Độ. Bên trong tôi trống rỗng rồi.”

Đến lúc này tôi không biết nói gì. Tôi khao khát được trèo vào ghế sau bên cạnh bà và kéo bà vào vòng tay, vỗ về bà bằng những nụ hôn. Trước khi nhận ra mình đang làm gì, tôi đã với ra sau nắm tay bà. Tôi tưởng bà sẽ rút ra, nhưng ngón tay bà lại siết chặt tay tôi đầy biết ơn, và chúng tôi ngồi trong xe, không nhìn nhau mà nhìn vùng bình nguyên bao quanh, úa vàng và tàn tạ từ chân trời này đến chân trời khác, hằn sâu những con mương tưới nước khô cạn, điểm xuyết cây bụi, đá, và những nét khuấy động cuộc sống đó đây. Nắm tay Nila, tôi nhìn những ngọn đồi và những cột điện. Mắt tôi dõi theo một chiếc xe thùng ì ạch phía xa, bụi bốc mù mịt đằng sau, và tôi hạnh phúc được ngồi đó đến khi bóng tối buông xuống.

“Đưa tôi về nhà đi,” cuối cùng bà nói, buông tay tôi ra. “Tối nay tôi định ngủ sớm.”

“Vâng, thưa Bibi Sahib.” Tôi hắng giọng, đoạn đẩy cần sang số một với bàn tay run run.

❆❆❆

Bà về phòng và mấy ngày liền không rời khỏi đó. Đây không phải lần đầu tiên. Thi thoảng, bà kéo ghế ra cửa sổ phòng ngủ trên lầu và ngồi mãi ở đó, hút thuốc, đung đưa một chân, nhìn đăm đăm ra ngoài với vẻ mặt vô hồn. Bà không nói gì. Bà mặc nguyên bộ váy ngủ. Bà không tắm rửa, đánh răng hay chải đầu. Lần này bà còn chẳng thiết ăn và nông nỗi ấy khiến ông Wahdati lo lắng bất thường.

Vào ngày thứ tư, có tiếng gõ ngoài cổng trước. Tôi mở ra thì thấy một ông cụ cao ráo vận bộ com lê là lượt phẳng phiu và đôi giày bóng lộn. Có gì đó oai nghiêm và hơi đe dọa ở ông cụ này trong cách cụ hiện ra sừng sững chứ không hẳn là chỉ đứng, cách cụ phớt lờ tôi, cách cụ nắm chiếc ba toong sáng bóng bằng cả hai tay như thể nó là cây quyền trượng. Cụ chưa nói một lời nào, nhưng tôi đã cảm thấy đây là người quen với việc được phục tùng.

“Tôi nghe nói con gái tôi không được khỏe,” cụ cất tiếng.

Ra đây là cha bà. Tôi chưa từng gặp cụ trước đó. “Vâng, thưa Sahib. Tôi e là vậy,” tôi đáp.

“Thế thì tránh ra đi, chàng trai trẻ.” Cụ xô qua tôi.

Tôi lúi húi trong vườn, bổ củi để đốt lò. Từ chỗ tôi làm việc có thể thấy rõ cửa sổ phòng ngủ của Nila. Trong khung cửa đó là người cha, cúi gập thắt lưng, ngả người về phía Nila, một tay đặt lên vai con gái. Nét mặt Nila giống hệt nét mặt của người bị giật mình bởi một tiếng động lớn đột ngột, kiểu tiếng pháo, hoặc tiếng cửa đóng sầm vì gió thốc bất ngờ.

Tối đó, bà đã ăn.

Mấy hôm sau, Nila gọi tôi vào nhà và bảo rằng bà định tổ chức một bữa tiệc. Nếu có mở tiệc ở nhà thì chúng tôi cũng hiếm khi làm vậy hồi ông Wahdati còn độc thân. Sau khi Nila chuyển đến, bà sắp xếp mỗi tháng đôi ba dịp. Hôm trước bữa tiệc, Nila sẽ đưa cho tôi hướng dẫn chi tiết về các món khai vị và món chính mà tôi phải chuẩn bị, và tôi sẽ đi chợ mua những thức đồ cần thiết. Quan trọng nhất trong những thức đồ cần thiết ấy là rượu, món mà tôi chưa bao giờ kiếm được trước đó, vì ông Wahdati không uống rượu - dù lý do của ông ấy chẳng liên quan gì đến tôn giáo, ông chỉ không thích tác động của nó mà thôi. Nila, tuy nhiên, lại biết rõ chỗ bán - hiệu thuốc, như bà gọi đùa - nơi mà người ta có thể mua trái phép một chai thuốc tương đương với hai tháng lương của tôi. Trong tôi lẫn lộn cảm xúc khi chạy thứ việc vặt đó, đóng vai kẻ tiếp tay cho hành vi sai trái, nhưng như thường lệ, làm vui lòng Nila quan trọng hơn hết thảy.

Anh phải hiểu rằng, anh Markos à, khi chúng tôi tổ chức tiệc ở Shadbagh, dù là đám cưới hay lễ cắt bao quy đầu, thì sự kiện đó đều diễn ra ở hai căn nhà riêng biệt, một cho nữ giới, một cho nam giới chúng ta. Trong bữa tiệc của Nila thì phụ nữ và đàn ông cùng tụ họp. Phần lớn phụ nữ đều ăn bận như Nila, diện những bộ váy phô trọn cánh tay và phóng khoáng khoe chân. Họ hút thuốc, cả uống rượu nữa, những chiếc ly vơi nửa sóng sánh thứ rượu trắng, đỏ hoặc màu đồng, họ kể chuyện vui, cười vang, và thoải mái chạm vào cánh tay những người đàn ông mà tôi biết là đã kết hôn với ai đó trong căn phòng này. Tôi bê những đĩa bolani* và lola kabob* từ đầu này đến đầu kia căn phòng mù mịt khói thuốc, từ nhóm khách này đến nhóm khách kia, trong khi đĩa hát chơi trên máy quay đĩa. Không phải nhạc Afghanistan mà là jazz, theo như Nila gọi, một thể loại nhạc mà vài thập kỷ sau tôi mới biết rằng anh cũng hâm mộ, anh Markos à. Với tôi thì tiếng piano réo rắt ngẫu hứng cùng tiếng kèn săn nỉ non lạ lùng ấy nghe thật chối tai. Nhưng Nila thích nó, và tôi cứ nghe thấy bà nói với khách rằng họ nhất định phải nghe bản thu âm này hay bản thu âm kia. Cả tối bà cầm ly rượu và mải uống hơn là động đến những món ăn mà tôi phục vụ.

Chu Thich: Bánh mì nhân rau.

Chu Thich: Thịt xiên quay.

Ông Wahdati chẳng mấy cố gắng để làm vui lòng khách. Ông hòa nhập lấy lệ, còn phần lớn thời gian thì chui vào một góc với nét mặt xa xăm, xoay xoay ly soda, mím môi cười xã giao khi có người nói chuyện với mình. Và, theo thói quen, ông lại cáo lui khi khách đề nghị Nila đọc thơ.

Đây là phần tôi thích nhất của buổi tối, hơn hết thảy mọi thứ. Khi bà bắt đầu, tôi luôn tìm thấy việc gì đó để giữ chân tôi gần đó. Vậy là tôi đứng ngây ra, khăn lau trong tay, căng tai lắng nghe. Thơ của Nila không giống với những bài thơ đã cùng tôi lớn lên cùng. Như anh rõ đấy, người Afghanistan chúng tôi yêu thơ ca; kể cả những người ít học nhất trong chúng tôi cũng có thể đọc những khổ thơ của Hafez, Khayyám hay Saadi. Anh có nhớ không, anh Markos, rằng năm ngoái anh đã bảo với tôi là anh yêu người Afghanistan biết bao? Và khi tôi hỏi anh lý do, anh đã cười mà rằng, Bởi vì ngay cả những nghệ sĩ graffiti nước bác cũng phun hình Rumi lên tường.

Nhưng thơ của Nila lại phi truyền thống. Nó không tuân theo thể thơ hay luật vần điệu nào cả. Nó cũng không lấy những đề tài quen thuộc như cây cối, hoa xuân, chim chào mào. Nila viết về tình yêu, và tình yêu ở đây không phải nỗi khát khao được hòa nhập với Thượng đế* như trong thơ Rumi hay Hafez mà là tình yêu thể xác. Bà viết về những cặp tình nhân thì thầm bên gối, vuốt ve nhau. Bà viết về khoái cảm. Tôi chưa bao giờ nghe thấy thứ ngôn ngữ nào như vậy được thốt ra từ miệng một người phụ nữ. Tôi cứ đứng đó, lắng nghe giọng nói nhẹ như khói của Nila tỏa lan khắp gian sảnh, mắt nhắm lại và tai đỏ bừng, tưởng tượng bà ấy đang đọc cho tôi nghe, rằng chúng tôi là cặp tình nhân trong bài thơ ấy, cho đến khi tiếng ai đó gọi trà hoặc trứng rán phá bỏ bùa chú, rồi Nila gọi tên tôi và tôi liền chạy đi.

Chu Thich: Nguyên văn: Sufi yearnings. Đạo Sufi (Hồi giáo Mật tông) là một khuynh hướng Hồi giáo hướng tới sự hòa nhập với Thượng đế thông qua cầu nguyện, suy tưởng, và sống giản đơn.

Đêm ấy, bài thơ bà chọn đọc khiến tôi ngỡ ngàng. Nó viết về một người đàn ông và vợ ông ta, ở một ngôi làng, khóc thương đứa con còn ẵm ngửa bị giá lạnh mùa đông cướp mất. Những vị khách có vẻ yêu thích bài thơ, dựa trên những cái gật đầu và tiếng tán thưởng rì rầm khắp căn phòng, và dựa trên tràng vỗ tay nồng nhiệt khi Nila ngước lên khỏi trang giấy. Tuy vậy, trong tôi vẫn có chút sửng sốt xen lẫn thất vọng khi nỗi bất hạnh của em gái mình lại được đem ra mua vui cho khách, và tôi không thể rũ bỏ cái cảm giác rằng mình phải hứng chịu một sự phản bội mơ hồ.

Vài ngày sau bữa tiệc, Nila nói rằng bà cần một chiếc túi mới. Ông Wahdati lúc ấy đang đọc báo bên bàn, tôi đứng đó dọn bữa trưa cho ông với xúp đậu lăng và bánh naan.

“Anh có cần gì không, Suleiman?” Nila hỏi.

“Không, aziz. Cảm ơn,” ông ấy đáp. Tôi hiếm khi nghe thấy ông ấy gọi bà bằng từ nào khác ngoài aziz, có nghĩa là “em yêu”, “bà xã”, tuy nhiên chưa bao giờ hai vợ chồng họ lại có vẻ xa cách đến thế khi ông nói vậy, và chưa bao giờ tiếng gọi yêu thương ấy lại nghe cứng nhắc quá chừng khi nó cất lên từ môi ông Wahdati.

Trên đường tới cửa hàng, Nila bảo muốn đón một người bạn và chỉ đường cho tôi tới nhà người ấy. Tôi đỗ xe ngoài đường và nhìn bà men theo khối phố tới một ngôi nhà hai tầng với những bức tường sơn màu hồng rực. Ban đầu tôi để động cơ chạy không, nhưng khi năm phút đã trôi qua mà Nila vẫn chưa trở ra, tôi bèn tắt máy. Làm thế là đúng vì mãi hai tiếng sau tôi mới thấy dáng người mảnh mai của bà lướt dọc vỉa hè về phía ô tô. Tôi mở cửa khách phía sau ra và khi ấy bà chui vào, tôi ngửi thấy, bên dưới lớp nước hoa quen thuộc của bà là một mùi khác, phảng phất như gỗ tuyết tùng và có lẽ thoảng hương gừng, hương thơm tôi nhận ra do nghe mùi từ bữa tiệc cách đây hai đêm.

“Tôi không tìm thấy cái mình thích,” Nila nói từ ghế sau trong khi thoa một lớp son môi mới.

Bà bắt gặp khuôn mặt bối rối của tôi qua gương chiếu hậu. Bà hạ thỏi son xuống và nhìn tôi từ bên dưới hàng mi. “Anh đưa tôi tới hai cửa hàng khác nhau nhưng tôi không tìm được chiếc túi mình thích.”

Mắt bà khóa chặt mắt tôi trong gương và nấn ná một lúc, chờ đợi, và tôi hiểu rằng mình đã được chia sẻ một bí mật. Bà đang thử lòng trung thành của tôi. Bà đang bắt tôi lựa chọn.

“Tôi nghĩ có lẽ bà đã đến ba cửa hàng ạ,” tôi yếu ớt nói.

Bà cười tươi. “Parfois je pense que tu es mon seul ami, Nabi.”

Tôi chớp mắt.

“Nghĩa là, ‘Đôi khi tôi nghĩ anh là người bạn duy nhất của tôi.’”

Bà mỉm cười rạng rỡ với tôi, nhưng nụ cười ấy chẳng thể vực dậy tinh thần suy sụp của tôi.

Thời gian còn lại của ngày hôm đó, tôi làm việc nhà với phân nửa tốc độ bình thường và một phần nhỏ lòng nhiệt tình quen thuộc. Buổi tối khi mấy anh bạn ghé qua dùng trà, một người hát cho chúng tôi nghe, nhưng bài ca ấy không thể làm tôi vui lên. Tôi cảm giác như mình là gã chồng bị cắm sừng. Và tôi chắc chắn rằng sức ảnh hưởng của bà với tôi cuối cùng cũng đã lơi dần.

Nhưng buổi sáng tôi thức dậy thì nó vẫn ở đó, lấp đầy không gian sống của tôi, từ sàn nhà tới trần nhà, ngấm vào những bức tường, thấm đẫm bầu không khí tôi thở, như hơi nước. Chẳng ích gì, anh Markos à.

❆❆❆

Tôi không biết chính xác khi nào ý tưởng đó manh nha.

Có lẽ vào buổi sáng mùa thu lộng gió mà tôi dọn trà cho Nila, khi tôi đang khom mình cắt cho bà ấy một lát bánh roat* thì chiếc đài trên bậu cửa sổ thông báo rằng mùa đông năm 1952 sắp tới có thể được xem là còn khắc nghiệt hơn mùa đông năm trước. Có lẽ là trước đó, hôm tôi đưa bà tới ngôi nhà với những bức tườ