← Quay lại trang sách

Chương 6 THÁNG HAI NĂM 1974-GHI CHÚ CỦA BIÊN TẬP VIÊN-Parallaxe số 84 (MÙA ĐÔNG NĂM 1974), TRANG 5

Các độc giả thân mến:

Cách đây năm năm, khi chúng tôi mở chuyên đề hằng quý với các bài phỏng vấn những nhà thơ chưa được nhiều người biết đến, chúng tôi không ngờ họ lại được yêu thích nhường ấy. Nhiều độc giả đã yêu cầu thêm nhiều bài phỏng vấn như thế nữa, và quả vậy, những lá thư nhiệt tình của các bạn đã mở đường cho chuyên đề này trở thành một truyền thống thường niên trên tờ Parallaxe. Những hồ sơ ấy cũng trở thành món yêu thích nhất của các cây bút ở tòa soạn chúng tôi. Các chuyên đề đã dẫn tới sự khám phá, hay tái khám phá, một số nhà thơ giá trị, và sự nhìn nhận quá muộn về tác phẩm của họ.

Tuy nhiên, đáng buồn thay, chuyên đề kỳ này của chúng tôi lại phủ một bóng đen u ám. Gương mặt nghệ sĩ quý này là Nila Wahdati, một nhà thơ Afghanistan được Étienne Boustouler phỏng vấn vào mùa đông năm ngoái tại thị trấn Courbevoie, gần Paris. Phu nhân Wahdati, chúng tôi chắc bà sẽ đồng ý với cách gọi này thôi, đã đem lại cho ông Boustouler một trong những bài phỏng vấn cởi mở và thẳng thắn nhất mà chúng tôi từng đăng tải. Chúng tôi vô cùng đau buồn khi hay tin bà đã mất sớm, không lâu sau khi thực hiện phỏng vấn. Cộng đồng thi nhân sẽ nhớ đến bà. Bà còn sống mãi trong lòng con gái mình.

❆❆❆

Thật kỳ dị, cái thời điểm ấy. Cửa thang máy mở ra đúng lúc - đúng lúc - điện thoại bắt đầu đổ chuông. Pari có thể nghe thấy tiếng chuông vì nó phát ra từ trong căn hộ của Julien, vốn nằm ở đầu hành lang hẹp, tù mù, nên thành ra gần thang máy nhất. Linh cảm mách bảo cô là ai đang gọi. Nhìn nét mặt Julien thì xem ra anh cũng biết.

Julien, đã bước vào trong thang máy, nói vọng ra, “Kệ nó.”

Đằng sau anh là một người phụ nữ mặt đỏ au nom khó gần sống ở tầng trên. Bà ta trừng trừng nhìn Pari, vẻ nôn nóng. Julien gọi bà ta là La chèvre*, vì bà ta có nhúm lông cằm trông giống như râu dê vậy.

Chu Thich: Con dê cái (tiếng Pháp).

Anh nói, “Đi thôi, Pari. Mình muộn rồi đấy.”

Anh đã đặt bàn lúc bảy giờ tại một nhà hàng mới mở ở quận 16, vốn nổi tiếng với món poulet braisé, sole cardinale* và gan bê ngâm giấm rượu sherry. Họ sẽ gặp Christian và Aurelie, bạn cũ ở trường đại học của Julien - từ thuở sinh viên, không phải từ khi anh giảng dạy. Họ phải gặp mặt để uống rượu khai vị lúc sáu rưỡi, mà giờ đã sáu giờ mười lăm rồi. Họ còn phải đi bộ tới ga tàu điện ngầm, đến Muette, rồi đi bộ qua sáu dãy nhà nữa mới tới được nhà hàng.

Chu Thich: Gà om, cá bơn xốt kem tôm (tiếng Pháp).

Điện thoại cứ reo.

Bà dê húng hắng ho.

Julien gọi, lần này giọng cứng rắn hơn, “Pari?”

“Chắc là Maman đấy,” Pari nói.

“Ừ, anh biết chứ.”

Một cách vô lý, Pari nghĩ Maman - với tài năng không bao giờ thui chột là làm loạn mọi chuyện - lại nhè đúng lúc này để gọi điện, đẩy cô vào thế phải đưa ra đúng lựa chọn này: bước vào thang máy với Julien hay nghe điện.

“Nhỡ có chuyện quan trọng,” cô nói.

Julien thở dài.

Khi cửa thang máy đóng lại sau lưng, anh dựa vào tường hành lang. Anh thọc tay vào túi áo măng tô, khoắng một lúc như nhân vật trong một bộ phim cảnh sát của đạo diễn Melville.

“Em chỉ mất một phút thôi,” Pari nói.

Julien buông ánh nhìn nghi hoặc.

Căn hộ của Julien khá nhỏ. Bước nhanh sáu bước là cô đã băng qua sảnh, qua bếp, và ngồi trên mép giường, với lấy điện thoại trên chiếc bàn đầu giường duy nhất mà họ có chỗ kê. Quang cảnh, tuy nhiên, lại khá bắt mắt. Trời đang mưa, nhưng vào những hôm quang đãng, cô có thể trông ra cửa sổ hướng Đông, thấy phần lớn quận 19 và 20.

“Oui, allo*?” cô nói vào ống nghe.

Chu Thich: Vâng, a lô (tiếng Pháp).

Một giọng đàn ông vang lên. “Bonsoir*. Có phải Mademoiselle* Pari Wahdati không ạ?”

Chu Thich: Xin chào (tiếng Pháp).

Chu Thich: Cô - danh xưng của người phụ nữ trẻ, chưa chồng (tiếng Pháp).

“Ai gọi đấy ạ?”

“Cô là con gái Madame Nila Wahdati ạ?”

“Vâng.”

“Tôi là bác sĩ Delaunay. Tôi gọi vì chuyện mẹ cô.”

Pari nhắm mắt lại. Một thoáng tội lỗi nhói lên trong lòng cô trước khi bị cơn sợ hãi quen thuộc chiếm lĩnh. Trước đây cô từng nhận được những cuộc gọi như thế này, nhiều tới mức không thể nhớ nổi, từ thuở cô còn thiếu nữ, đúng vậy, và thậm chí trước đó - một lần hồi lớp năm, cô đang làm dở bài kiểm tra môn địa lý thì thầy giáo phải xen ngang, dẫn cô ra hành lang, và thì thào giải thích chuyện gì đã xảy ra. Những cuộc gọi này quá quen thuộc với Pari, nhưng không vì thế mà cô đâm ra thờ ơ. Cứ mỗi cuộc gọi, cô lại nghĩ, Lần này, đúng là lần này rồi, và lần nào cô cũng gác máy rồi cuống cuồng chạy tới chỗ Maman. Theo lối nói của kinh tế học, Julien bảo Pari rằng nếu cô cắt nguồn cung chú ý, có lẽ nhu cầu ấy cũng chấm dứt.

“Bà ấy bị tai nạn,” bác sĩ Delaunay nói.

Pari đứng bên cửa sổ nghe bác sĩ giải thích. Cô hết xoắn rồi gỡ dây điện thoại quanh ngón tay trong khi ông thuật lại chuyện mẹ cô vào viện, cái trán rách, những mũi khâu, tiêm phòng uốn ván, rửa ôxy già, điều trị kháng sinh cục bộ, băng bó. Tâm trí Pari vụt trở về hồi mười tuổi, khi một ngày cô đi học về thì thấy hai tư franc và một mẩu ghi chú viết tay trên bàn bếp. Mẹ đến Alsace với Marc. Con nhớ chú ấy mà. Hai hôm nữa mẹ về. Ở nhà ngoan nhé. (Đừng thức khuya đấy!) Je t’aime*. Maman. Pari đã đứng run rẩy trong bếp, mắt rưng rưng, tự nhủ rằng hai hôm không đáng sợ đến thế đâu, không lâu đến thế đâu.

Chu Thich: Mẹ yêu con (tiếng Pháp).

Bác sĩ hỏi cô một câu.

“Sao cơ?”

“Tôi hỏi là cô có đến đón mẹ cô về nhà không, mademoiselle? Vết thương không nghiêm trọng lắm, cô biết đấy, nhưng có lẽ tốt nhất là bà ấy không nên về nhà một mình. Hay chúng tôi gọi taxi cho bà ấy cũng được.”

“Không. Không cần đâu ạ. Nửa tiếng nữa tôi đến.”

Cô ngồi xuống giường. Julien sẽ bực mình, có khi còn xấu hổ nữa trước Christian và Aurelie, những người mà có vẻ anh rất tôn trọng ý kiến. Cô cũng không muốn đến Courbevoie đối mặt với mẹ mình. Việc cô muốn làm hơn là nằm xuống, lắng nghe gió hắt những hạt mưa vào cửa kính cho đến khi ngủ thiếp đi.

Cô châm một điếu thuốc lá, và khi Julien vào phòng cất tiếng hỏi sau lưng cô, “Em không đi chứ gì?” cô không đáp lại.

TRÍCH TỪ “TIẾNG HÓT AFGHANISTAN”,

BÀI PHỎNG VẤN NILA WAHDATI

DO ÉTIENNE BOUSTOULER THỰC HIỆN

Parallaxe số 84 (MÙA ĐÔNG NĂM 1974), TR. 33

EB: Tôi nghe nói thực ra bà mang nửa dòng máu Afghanistan, nửa dòng máu Pháp?

NW: Vâng, mẹ tôi là người Pháp. Bà là người Paris.

EB: Nhưng mẹ bà lại gặp cha bà ở Kabul. Bà được sinh ra tại đó.

NW: Vâng. Cha mẹ tôi gặp nhau năm 1927. Tại một buổi tiệc tối trọng thể ở Cung điện Hoàng gia. Mẹ tôi tháp tùng cha mình - tức ông ngoại tôi, ông tôi được cử tới Kabul để cố vấn cho vua Amanullah về vấn đề cải tổ. Anh có nghe nói nhiều đến ông ấy không, vua Amanullah ấy?

Chúng tôi đang ngồi trong phòng khách căn hộ nhỏ bé của Nila Wahdati trên tầng ba mươi của một khu chung cư tại thị trấn Courbevoie, ngay ở Tây Bắc Paris. Căn phòng nhỏ, ánh sáng tù mù, được trang trí sơ sài: một chiếc sofa bọc da màu nghệ tây, một bàn cà phê, hai giá sách cao nghệu. Bà ngồi quay lưng ra cửa sổ đã được mở sẵn để bay khói thuốc lá mà bà vẫn hút thường xuyên.

Nila Wahdati nói rằng bà bốn mươi bốn tuổi. Bà là một phụ nữ đặc biệt thu hút, có lẽ đã qua thời xuân sắc nhưng nét đẹp chưa phai mờ bao nhiêu. Gò má cao quý phái, làn da đẹp, bờ eo mảnh mai. Bà có một đôi mắt thông minh, lả lơi, và ánh nhìn thấu suốt khiến ai bị chiếu tướng cũng cảm thấy bị soi xét, đánh giá, mê hoặc và trêu đùa cùng lúc. Tôi ngờ rằng đôi mắt ấy vẫn là thứ công cụ quyến rũ đáng gờm. Bà để mặt mộc, chỉ thoa mỗi son môi, viền môi có một vết lem nhỏ. Bà quàng tấm khăn vuông rủ xuống lông mày, áo tím nhạt với quần jean, không giày, không tất. Dù mới mười một giờ trưa, bà đã rót chai rượu Chardonnay chưa được ướp lạnh. Bà ân cần mời tôi một ly nhưng tôi từ chối.

NW: Ông ấy là vị vua tốt nhất họ từng có.

Tôi thấy thú vị với cách lựa chọn đại từ nhân xưng này.

EB: “Họ”? Bà không coi mình là người Afghanistan sao?

NW: Hãy nói là tôi đã ly hôn với nửa bản thân rắc rối hơn rồi.

EB: Tôi tò mò là sao lại như vậy đấy.

NW: Nếu ông ấy thành công, ý tôi là vua Amanullah ấy, có lẽ tôi đã trả lời câu hỏi của anh khác đi rồi.

Tôi yêu cầu bà giải thích.

NW: Anh biết không, một sáng ông ấy thức dậy, nhà vua ấy, và công bố kế hoạch cải tổ đất nước - một cách đầy miễn cưỡng, nếu cần - thành một quốc gia mới mẻ và được khai sáng. Có trời chứng giám! Ông ấy nói. Không còn phải đeo mạng che mặt nữa, ví dụ thế. Tưởng tượng mà xem, Monsieur* Boustouler, một phụ nữ ở Afghanistan bị bắt vì mặc burqa*. Khi phu nhân của ông ấy, hoàng hậu Soraya, xuất hiện trước công chúng với khuôn mặt để trần? Oh là là. Lá phổi của các giáo sĩ phập phồng với những nhịp thở gấp, đủ để thổi bay hàng ngàn chiếc khinh khí cầu Hindenburg. Và không còn chế độ đa thê nữa, ông ấy nói! Chuyện này, anh hiểu không, ở một đất nước nơi các vị vua có hàng đàn thê thiếp và không thèm để mắt đến phần lớn lũ trẻ mà họ đã nông nổi sinh ra. Từ giờ trở đi, ông ấy tuyên bố, không người đàn ông nào có thể cưỡng ép một phụ nữ kết hôn. Và không còn tục lệ của hồi môn nữa, hỡi những phụ nữ dũng cảm của Afghanistan, cũng chẳng còn tảo hôn. Và quan trọng hơn: Tất cả sẽ được đi học.

EB: Ông ấy thật là người nhìn xa trông rộng.

NW: Hoặc là một kẻ ngốc. Bản thân tôi luôn thấy ranh giới đó mong manh đến nguy hiểm.

EB: Vậy chuyện gì xảy ra với ông ấy?

NW: Câu trả lời đáng buồn như dự đoán, thưa Monsieur Boustouler. Cuộc chiến Hồi giáo, tất nhiên. Họ tuyên bố một cuộc chiến Hồi giáo với ông ấy, các giáo sĩ, các tộc trưởng. Hãy hình dung cả nghìn nắm đấm hướng thẳng lên trời. Nhà vua đã dịch chuyển trái đất, anh thấy đấy, nhưng ông ấy lại bị bao quanh bởi một đại dương những kẻ cuồng tín, mà anh biết rõ chuyện gì xảy ra khi lòng đại dương chấn động rồi đấy. Một cơn sóng thần của phe nổi loạn râu rậm ập xuống nhà vua tội nghiệp và cuốn trôi ông ấy đi trong cơn vẫy vùng bất lực, hất tung ông ấy ra ngoài khơi Ấn Độ, rồi đến Italia, và cuối cùng là Thụy Sĩ, nơi ông ấy bò ra khỏi đống bùn nhơ và chết như một ông lão tha hương với giấc mộng vỡ tan tành.

EB: Thế còn đất nước vừa đi qua cảnh đó thì sao? Theo tôi thấy thì nó không hợp với bà lắm.

NW: Nói ngược lại thì cũng đúng như nhau.

EB: Thế nên năm 1955 bà chuyển tới Pháp.

NW: Tôi chuyển tới Pháp vì muốn cứu con gái mình khỏi một cuộc đời nào đó.

EB: Cuộc đời nào đó là như thế nào?

NW: Tôi không muốn con bé, trái với nguyện vọng và bản chất của nó, biến thành kiểu phụ nữ u buồn, chịu thương chịu khó, cả đời gò lưng âm thầm hầu hạ người khác, mãi mãi sống trong nỗi sợ hãi nhỡ mình thể hiện, nói, hoặc làm điều gì sai. Những phụ nữ được ngưỡng mộ bởi một số người phương Tây - tại nước Pháp này chẳng hạn - biến thành những nữ anh hùng vì sống kham khổ, được đám người không thể sống nổi trong cảnh đó dù chỉ một ngày ngưỡng mộ từ xa. Những người phụ nữ thấy khao khát của mình bị dập tắt và giấc mơ bị từ bỏ, chưa hết - đây mới là phần tệ nhất này, Monsieur Boustouler - nếu anh gặp họ, họ mỉm cười và vờ như mình không có nỗi âu lo nào cả. Như thể họ đang sống một cuộc sống đáng ghen tị vậy. Nhưng nhìn kỹ, anh sẽ thấy sự bất lực, nỗi tuyệt vọng, và nó đã lật tẩy hết cái vẻ hạnh phúc mà họ tỏ ra như thế nào. Thật đáng thương, Monsieur Boustouler ạ. Tôi không muốn chuyện đó xảy ra với con gái mình.

EB: Có lẽ cô ấy hiểu hết những điều này?

Bà châm một điếu thuốc nữa.

NW: Ừm, con cái có bao giờ được như chúng ta mong đợi đâu, Monsieur Boustouler.

Chu Thich: Ông, Ngài (tiếng Pháp trong nguyên bản).

Chu Thich: Một loại áo dài của phụ nữ Afghanistan, có phần vải để trùm lên đầu, chỉ để hở đôi mắt.

❆❆❆

Trong phòng cấp cứu, Pari được một y tá cáu bẳn hướng dẫn đợi bên bàn đăng ký, gần một cái giá có bánh xe chất đầy bảng kẹp hồ sơ và biểu đồ. Pari ngạc nhiên khi thấy có những người tình nguyện dành những năm tháng tuổi trẻ để khổ luyện thành thứ nghề đưa họ vào một nơi như thế này. Cô không tài nào hiểu nổi. Cô ghê sợ bệnh viện. Cô ghét nhìn thấy mọi người trong tình trạng thảm hại nhất, mùi bệnh tật, những băng ca kẽo kẹt, hành lang treo những bức tranh buồn tẻ, tiếng loa không ngớt trên đầu.

Bác sĩ Delaunay hóa ra trẻ hơn Pari nghĩ. Anh có chiếc mũi thanh mảnh, khuôn miệng hẹp, những lọn tóc xoăn tít. Anh dẫn cô ra khỏi phòng cấp cứu, qua những đôi cửa xoay, vào hành lang chính.

“Khi mẹ cô đến đây,” anh nói bằng giọng bí mật, “bà ấy khá say… Cô xem ra không ngạc nhiên lắm.”

“Không đâu.”

“Mấy y tá hộ lý cũng vậy. Người ta nói bà ấy khám chịu ở đây mấy lần. Tôi là người mới, nên tất nhiên là chưa bao giờ có vinh dự ấy.”

“Tình hình tệ đến đâu ạ?”

“Bà ấy khá cáu kỉnh,” anh đáp. “Và, tôi nên nói là, hơi cường điệu hóa một tí.”

Họ cùng toét miệng cười trong thoáng chốc.

“Mẹ tôi sẽ ổn chứ?”

“Vâng, chóng thôi,” bác sĩ Delaunay nói. “Nhưng tôi phải khuyến cáo, và nhấn mạnh một chút rằng bà ấy phải hãm chuyện uống rượu lại. Lần này bà ấy may mắn đấy, nhưng ai dám nói lần sau…”

Pari gật đầu. “Mẹ tôi ở đâu?”

Anh dẫn cô trở lại phòng cấp cứu rồi đến một chỗ gần đó. “Giường số ba. Tôi sẽ quay lại ngay để chỉ dẫn cho cô những điều cần lưu ý khi xuất viện nhé.”

Pari cảm ơn anh rồi tiến về phía giường bệnh của mẹ.

“Salut*, Maman.”

Chu Thich: Cách chào thân mật trong tiếng Pháp.

Maman mỉm cười vẻ mỏi mệt. Tóc bà bù xù, tất đi không cùng đôi. Trán bà được băng lại, và thứ chất lỏng không màu nhỏ giọt qua ống dẫn nối với tay trái bà. Bà mặc ngược bộ đồ bệnh nhân và không thắt dây chỉn chu. Bộ đồ hơi hở ra phía trước, làm Pari thấy thấp thoáng một đường dọc dày thẫm của vết sẹo do mổ đẻ trước đây của mẹ cô. Mấy năm trước cô có lần hỏi mẹ rằng sao bà không phải chịu một vết sẹo ngang thông thường và Maman giải thích các bác sĩ đã đưa ra một lý do kỹ thuật nào đó mà khi ấy bà chẳng còn nhớ nữa. Quan trọng là, bà nói, họ đã cứu mình.

“Mẹ làm hỏng buổi tối của con rồi,” Maman thều thào.

“Tai nạn thôi mà. Con đến để đưa mẹ về nhà.”

“Mẹ có thể ngủ cả một tuần mất.”

Mắt bà lờ đờ khép lại, nhưng bà vẫn tiếp tục nói với giọng uể oải, chậm chạp. “Mẹ chỉ đang ngồi xem ti vi thôi. Mẹ thấy đói. Mẹ bèn vào bếp lấy ít bánh mì và mứt cam. Mẹ trượt chân. Mẹ không rõ trượt như thế nào hay trượt phải cái gì, nhưng lúc ngã đầu mẹ đập vào tay nắm cửa lò nướng. Có lẽ mẹ bị ngất một hai phút. Ngồi xuống đi Pari. Bóng con che hết ánh sáng rồi.”

Pari ngồi xuống. “Bác sĩ bảo là mẹ đã uống rượu.”

Maman hé một mắt. Tần suất bà ghé thăm bác sĩ trở nên quá nhiều chỉ vì bởi bà ghét họ. “Cậu chàng đấy hả? Cậu ta nói thế à? Le petit salaud*. Cậu ta thì biết cái gì? Miệng còn hôi sữa kia kìa.”

Chu Thich: Thằng nhóc láo toét (tiếng Pháp).

“Lúc nào mẹ cũng đùa. Cứ hễ con khơi chuyện ấy ra.”

“Mẹ mệt rồi, Pari à. Con trách mẹ lúc khác đi. Cái cột nhục hình chả đi đâu đâu.”

Giờ thì bà chìm vào giấc ngủ thật. Ngáy khò khò, một cách thiếu duyên dáng, như bà vẫn làm chỉ sau khi say túy lúy.

Pari ngồi trên chiếc ghế cạnh giường đợi bác sĩ Delaunay, hình dung Julien bên bàn ăn mờ tỏ, thực đơn trong tay, giải thích cơn khủng hoảng với Christian và Aurelie qua những ly rượu Bordeaux chân thon dài. Anh đã đề nghị đưa cô đến bệnh viện, nhưng với vẻ chiếu lệ. Chỉ là hình thức mà thôi. Dù gì đến đây cũng chẳng phải ý hay. Khi nãy, bác sĩ Delaunay mà nghĩ mình đã trông thấy một màn kịch quá cường điệu thì nếu họ cùng đến đây… Tuy nhiên, kể cả anh không đi cùng cô, Pari mong anh cũng không đi ăn tối mà thiếu cô. Cô vẫn hơi sốc trước cách xử sự của anh. Anh có thể giải thích chuyện đó với Christian và Aurelie. Họ có thể chọn một đêm khác, đổi lịch đặt chỗ. Nhưng Julien lại đi. Đó không chỉ là vô tâm thôi đâu. Có gì đó ác ý trong cách hành xử của anh, cố tình, dứt khoát. Việc anh có khả năng đó Pari đã biết một thời gian rồi. Gần đây cô băn khoăn liệu có phải anh cũng có sở thích làm như vậy không.

Chính trong một căn phòng cấp cứu chẳng khác gì căn phòng này, Maman đã gặp Julien lần đầu tiên. Chuyện xảy ra cách đây mười năm, vào năm 1963, hồi Pari mười bốn tuổi. Anh đưa một đồng nghiệp mắc chứng đau nửa đầu đến khám. Còn Maman đưa Pari, khi ấy là bệnh nhân, bị bong gân mắt cá chân nghiêm trọng trong giờ thể dục ở trường, vào viện. Pari đang nằm trên băng ca thì Julien đẩy ghế vào phòng và bắt chuyện với Maman. Pari không nhớ lúc ấy họ nói những gì. Nhưng cô nhớ rõ Julien đã nói, “Paris - giống tên thành phố ạ?” Và Maman đáp lại một câu quen thuộc, “Không, không có s đâu. Nó có nghĩa là ‘nàng tiên’ trong tiếng Farsi.”

Cuối tuần đó, họ đã cùng anh ăn tối trong một đêm mưa ở một quán nhỏ bên kia đại lộ Saint-Germain. Lúc ở căn hộ, Maman cứ lưỡng lự mãi không biết nên mặc gì, cuối cùng chọn một chiếc váy xanh dương nhạt ôm sát eo, găng tay buổi tối, và giày cao gót mũi nhọn. Và kể cả sau đó, trong thang máy, bà vẫn hỏi Pari, “Trông không quá gợi cảm đấy chứ? Con nghĩ sao?”

Trước bữa ăn họ hút thuốc, cả ba người bọn họ, Maman và Julien uống bia trong những chiếc cốc vại đá lạnh. Họ uống hết một chầu, Julien gọi thêm chầu hai, và cả chầu ba nữa. Julien, vận sơ mi trắng, cà vạt, và áo khoác ca rô buổi tối, có phong cách lịch sự điềm đạm của một người đàn ông được nuôi dạy tử tế. Anh mỉm cười thoải mái và cười lớn đầy tự nhiên. Anh có một nhúm tóc bạc ở hai bên thái dương, điều mà Pari đã không nhận ra dưới ánh đèn lờ mờ của phòng cấp cứu, và cô ước chừng anh bằng tuổi Maman. Anh rất hiểu biết về những vấn đề thời sự và có lúc nói về việc De Gaulle phản đối việc Anh gia nhập Thị trường Chung*, suýt nữa biến nó trở thành một câu chuyện thú vị trước sự ngạc nhiên của Pari. Chỉ khi Maman hỏi anh mới tiết lộ rằng mình dạy Kinh tế học ở Đại học Sorbonne.

Chu Thich: Tổng thống Pháp Charles de Gaulle trong thời gian tại vị (1959-1969) từng hai lần phản đối việc Anh gia nhập Thị trường Chung châu Âu.

“Giáo sư? Hào nhoáng quá.”

“Ồ, không hề,” anh nói. “Lúc nào chị thử dự thính nhé. Sẽ giúp chị xóa bỏ cái định kiến ấy nhanh thôi.”

“Có lẽ tôi sẽ thử.”

Pari thấy Maman đã ngà ngà say.

“Có lẽ hôm nào tôi sẽ thử lẻn vào. Xem anh hành nghề ra sao.”

“Hành nghề? Chị hãy nhớ lại là tôi dạy lý thuyết kinh tế nhé, Nila. Nếu chị có đến, chị chỉ thấy sinh viên nghĩ tôi là đồ hâm dở thôi.”

“Ừm, tôi không tin đâu.”

Pari cũng vậy. Cô đoán có cả đống sinh viên muốn ngủ với Julien. Trong suốt bữa ăn, cô cẩn thận không để bị bắt gặp mình đang nhìn anh. Anh có khuôn mặt điển hình trong một bộ phim Noir*, một khuôn mặt được quay chỉ với hai màu đen trắng, in những cái bóng song song của tấm mành ngang, một làn khói thuốc cuộn tròn bên cạnh. Một lọn tóc hình dấu ngoặc đơn rủ xuống lông mày anh, chưa bao giờ duyên dáng đến thế - có lẽ là quá ư duyên dáng. Nếu như, thực sự, nó có vô tình buông rủ, Pari thấy anh cũng chẳng buồn vuốt lại.

Chu Thich: Thuật ngữ điện ảnh trong tiếng Pháp, chỉ thể loại phim hình sự đen trắng của Hollywood ra đời từ thập niên bốn mươi.

Anh hỏi Maman về hiệu sách nhỏ mà bà sở hữu và quản lý. Nó nằm bên kia sông Seine, đi qua cầu Arcole.

“Chị có sách viết về nhạc jazz không?”

“Bah oui*,” Maman đáp.

Chu Thich: Đương nhiên (tiếng Pháp).

Bên ngoài mưa to hơn, và quán ăn càng lúc càng huyên náo. Người phục vụ mang bánh phô mai và giăm bông xiên đến xong, Maman và Julien lại chuyện trò mải miết về Bud Powell, Sonny Stitt, Dizzy Gillespie, và nghệ sĩ nhạc jazz Julien yêu thích nhất, Charlie Parker. Maman kể với Julien rằng bà thích phong cách West Coast của Chet Baker và Miles Davis hơn, hỏi anh đã nghe bản Kind of Blue chưa? Pari ngạc nhiên khi thấy Maman lại thích nhạc jazz nhiều đến thế và bà biết rõ nhiều nhạc sĩ khác nhau tới vậy. Cô ngỡ ngàng, không phải lần đầu tiên, bởi niềm ngưỡng mộ trẻ thơ dành cho Maman lẫn cảm giác bất an rằng cô không thực sự hiểu hết về mẹ mình. Điều không ngạc nhiên là sức quyến rũ tự nhiên và trọn vẹn của Maman với Julien. Maman rất thoải mái. Bà chưa bao giờ gặp khó khăn trong việc thu hút đàn ông. Bà hớp hồn đàn ông.

Pari nhìn Maman lẩm nhẩm tinh nghịch, khúc khích cười trước những câu chuyện tếu táo của Julien, nghiêng nghiêng đầu, lơ đãng xoắn lọn tóc. Cô lại ngỡ ngàng khi thấy Maman trẻ và đẹp đến vậy - Maman, người chỉ hơn cô hai mươi tuổi. Mái tóc đen dài, vòm ngực đầy, đôi mắt thu hút, khuôn mặt sáng bừng với những đường nét quý tộc cổ điển khiến ta choáng ngợp. Pari lại càng ngỡ ngàng khi thấy mình ít giống Maman đến thế, với cặp mắt nhạt màu nghiêm nghị, chiếc mũi dài, nụ cười với răng cửa thưa, và bầu ngực nhỏ xíu. Nếu cô có chút nhan sắc nào, thì lại nghiêng về vẻ giản dị trần tục hơn. Ở bên mẹ Pari luôn nhớ rằng ngoại hình của cô được dệt nên từ một tấm vải xoàng xĩnh. Đôi khi, chính Maman là người nhắc cô điều đó, dù luôn ẩn giấu trong vô vàn lời khen kiểu con ngựa thành Troy*.

Chu Thich: Kế sách quân đội Hy Lạp sử dụng để chiến thắng trong cuộc chiến thành Troy. Quân đội Hy Lạp làm một con ngựa gỗ khổng lồ, bên trong chứa đầy lính để ngụy trang thành quà tặng quân Troy. Nhân lúc kẻ địch bất cẩn, binh lính Hy Lạp đã tràn ra, đánh chiếm thành Troy.

Bà sẽ nói, Con thật may mắn, Pari à. Con không phải làm việc cật lực để được đàn ông nhìn nhận nghiêm túc. Họ sẽ chú ý đến con. Xinh đẹp quá sẽ hủy hoại mọi thứ. Bà sẽ cười. Ồ, nghe mẹ này. Mẹ không có ý nói là mẹ rút kinh nghiệm từ bản thân đâu. Tất nhiên là không. Chỉ là quan sát thôi.

Ý mẹ là con không xinh đẹp.

Ý mẹ là con không muốn như vậy đâu. Với cả, con xinh mà, như thế là quá đủ rồi. Je t’assure, ma cherie*. Thậm chí còn tốt hơn.

Chu Thich: Mẹ đảm bảo đấy, con yêu (tiếng Pháp).

Cô cũng không giống cha lắm, Pari tin thế. Ông là một người đàn ông cao lớn với khuôn mặt khó đăm đăm, vầng trán cao, cằm hẹp, môi mỏng. Pari có giữ vài bức ảnh của ông trong phòng riêng từ thuở cô còn thơ bé trong căn nhà ở Kabul. Ông đổ bệnh vào năm 1955 - thời điểm mà Maman và cô chuyển đến Paris - và mất không lâu sau đó. Đôi khi Pari thấy mình nhìn chằm chằm vào một bức ảnh cũ của cha, cụ thể là bức đen trắng chụp hai người bọn họ, cô và cha, đứng trước một chiếc ô tô cũ của Mỹ. Ông dựa vào thanh chắn bùn, ôm cô trong vòng tay, cả hai đều mỉm cười. Cô nhớ có lần ngồi bên ông trong khi ông vẽ những chú hươu cao cổ và khỉ đuôi dài cho cô lên cạnh tủ quần áo. Ông để cô tô màu một chú khỉ, nắm tay cô, kiên nhẫn hướng dẫn cô vẽ những nét màu.

Nhìn thấy khuôn mặt cha trong ảnh khơi lên trong lòng Pari một cảm giác xưa cũ, một cảm giác mà cô đã có từ lâu. Rằng cuộc đời cô thiếu vắng một thứ gì đó, hay ai đó, hết sức căn bản với sự tồn tại của chính cô. Đôi khi nó thật mơ hồ, như một tin nhắn được gửi qua những nhánh đường âm u bóng râm và khoảng cách mênh mông, một tín hiệu yếu ớt trên mặt radio, xa xôi, lạo xạo. Có những lúc nó lại trở nên quá rõ ràng, sự thiếu vắng ấy, gần gũi sâu sắc đến độ khiến lòng cô khắc khoải. Như lần ở Provence hai năm trước, khi Pari thấy một cây sồi khổng lồ bên ngoài một căn nhà nông trại. Lần khác ở vườn Tuileries khi cô nhìn một bà mẹ trẻ kéo con trai trong chiếc xe kéo màu đỏ nhỏ xinh. Pari không hiểu. Cô từng đọc một câu chuyện về một người đàn ông trung niên Thổ Nhĩ Kỳ bỗng nhiên rơi vào trầm cảm nặng nề khi người anh sinh đôi mà ông chưa từng biết có tồn tại trên đời bị lên cơn đau tim chí tử trong lúc du ngoạn bằng ca nô ở rừng mưa Amazon. Đó là diễn giải gần với những gì cô cảm thấy nhất mà cô từng nghe được.

Cô đã có lần kể cho Maman nghe chuyện đó.

Ừm, có gì bí ẩn đâu, mon amour*, Maman nói. Con nhớ cha con. Ông ấy đã đi xa khỏi cuộc đời con. Con cảm thấy thế thì cũng tự nhiên thôi mà. Tất nhiên là vậy. Lại đây. Thơm Maman một cái nào.

Chu Thich: Con yêu (tiếng Pháp).

Câu trả lời của mẹ cô hợp lý một cách hoàn hảo nhưng cũng không thỏa đáng. Pari tin chắc cô sẽ cảm thấy trọn vẹn hơn nếu cha cô còn sống, nếu ông vẫn ở bên cô. Nhưng cô cũng nhớ mình đã có cảm giác ấy ngay cả khi còn nhỏ, sống với cha mẹ trong ngôi nhà lớn ở Kabul.

Một lát sau khi dùng xong bữa, Maman xin phép vào nhà vệ sinh, để lại Pari một mình với Julien trong ít phút. Họ nói chuyện về bộ phim Pari xem tuần trước, bộ phim có Jeanne Moreau đóng vai con bạc, rồi về trường học và âm nhạc nữa. Khi cô nói, anh chống khuỷu tay lên bàn và hơi ngả về phía cô, thích thú lắng nghe, vừa mỉm cười vừa nhíu mày, không hề rời mắt khỏi cô. Diễn đấy, Pari tự nhủ, anh ấy chỉ giả vờ thôi. Một màn diễn bóng bẩy, một hành động mà anh đem ra thể hiện với phụ nữ, một việc mà anh chọn làm do tình thế thôi thúc, để đùa giỡn với cô trong giây lát và lấy cô mua vui cho chính mình. Ấy thế mà, dưới ánh nhìn chăm chú của anh, cô không thể ngăn mạch mình đập nhanh và bụng thắt lại. Cô thấy mình nói với giọng tinh tế đầy giả tạo, cái tông giọng lố bịch chẳng giống chút nào với lối nói bình thường của cô. Cô biết mình đang làm gì mà không thể ngừng lại được.

Anh kể với cô rằng anh đã từng kết hôn, một cuộc hôn nhân ngắn ngủi.

“Thật ạ?”

“Mấy năm trước. Năm anh ba mươi tuổi. Hồi ấy anh sống ở Lyon.”

Anh đã lấy một người phụ nữ hơn tuổi. Cuộc hôn nhân kéo dài không lâu vì cô ta có tính chiếm hữu quá cao. Julien không tiết lộ điều này lúc Maman còn ngồi ở bàn ăn. “Đấy là mối quan hệ thể xác, thực sự thế,” anh nói. “C’était complètement sexuelle*. Cô ta muốn sở hữu anh.” Anh vừa nhìn cô vừa nói, miệng thấp thoáng nụ cười nổi loạn, cẩn trọng xem xét phản ứng của cô. Pari châm một điếu thuốc, ra vẻ điềm thản, tựa diễn viên Bardot, kiểu như mấy chuyện này đàn ông nói suốt với cô rồi. Nhưng trong lòng cô cảm thấy run rẩy. Cô biết một hành động phản bội nho nhỏ vừa diễn ra bên bàn ăn. Một điều gì đó tuồng như sai trái, không hoàn toàn vô hại nhưng rõ ràng là đầy kích động. Khi Maman quay lại, tóc bới kiểu khác, son môi giặm thêm, khoảnh khắc vụng trộm vỡ tan, và Pari thoáng ghét Maman vì đã xen vào, cái cảm giác mà ngay sau đó bị nỗi hối hận lấn át.

Chu Thich: Hoàn toàn chỉ là chuyện tình dục (tiếng Pháp).

Cô gặp lại anh khoảng một tuần sau đó. Buổi sáng hôm ấy, cô mang một bát cà phê đến phòng Maman. Cô thấy anh ngồi bên giường Maman, lên dây đồng hồ đeo tay. Cô không biết anh đã qua đêm ở đây. Cô phát hiện ra anh từ hành lang, qua khe cửa hẹp. Cô đứng đó, chân chôn xuống đất, chiếc bát trong tay, miệng có cảm giác như vừa nuốt phải một cục bùn khô, và cô nhìn anh, làn da lưng không tì vết, chút mỡ bụng, khoảng tối giữa hai chân bị che khuất một phần bởi lớp ga giường nhàu nhĩ. Anh đeo đồng hồ vào, vươn người lấy điếu thuốc trên chiếc tủ đầu giường, châm lửa, rồi thản nhiên lia ánh mắt về phía cô như thể đã biết cô ở đó ngay từ đầu. Anh trao cho cô một nụ cười mím môi. Rồi có tiếng Maman vọng ra từ phòng tắm, và Pari bèn quay bước. Thật kỳ diệu là bát cà phê đã không làm cô bị bỏng.

Maman và Julien cặp với nhau khoảng sáu tháng. Họ thường xuyên đi xem phim, tới bảo tàng, những phòng tranh nhỏ trưng bày tác phẩm của những họa sĩ vô danh chật vật xoay xở với những cái tên ngoại quốc. Một dịp cuối tuần, họ lái xe đến bãi biển ở Arcachon, gần Bordeaux, rồi quay về với khuôn mặt rám nắng và một thùng rượu vang đỏ. Julien đưa bà tới những sự kiện của trường anh, còn Maman mời anh tới những buổi đọc sách của tác giả tại hiệu sách. Ban đầu Pari cũng đi cùng - Julien bảo Maman làm thế, và việc này có vẻ làm bà vui lòng - nhưng chẳng mấy chốc cô bắt đầu tìm cớ ở nhà. Cô không đi, không thể đi. Như vậy thật quá sức chịu đựng. Cô mệt quá, cô nói vậy, nếu không thì cũng là cảm thấy khó ở. Cô sẽ tới nhà Collette bạn cô để học nhóm, cô nói. Bạn cô từ hồi lớp hai, Collette là một cô gái gầy guộc, yếu ớt với mái tóc mềm rũ và cái mũi trông như mỏ quạ. Cô thích làm người khác choáng, và hay nói những điều khiếm nhã, gây sốc.

“Tớ cá là anh ta thất vọng đấy,” Collette nói. “Vì cậu không đi cùng hai người bọn họ.”

“Ừm, nếu có thì anh ấy cũng chẳng thừa nhận đâu.”

“Còn lâu anh ta mới thừa nhận. Mẹ cậu sẽ nghĩ gì chứ?”

“Nghĩ gì?” Pari hỏi, dù cô thừa biết. Cô biết, nhưng cô muốn nghe điều đó được nói ra.

“Nghĩ gì á?” Giọng Collette nghe láu lỉnh, đầy hào hứng. “Rằng anh ta ở bên mẹ cậu để tiếp cận cậu. Rằng đó chính là điều anh ta muốn.”

“Ghê quá,” Pari nói, lòng rộn lên.

“Hoặc có lẽ anh ta muốn cả hai. Có lẽ anh ta thích đông người trên giường cho vui. Trong trường hợp này, nhờ cậu nói tốt cho tớ vài câu.”

“Cậu tởm quá, Collette.”

Đôi khi vào những lúc Maman và Julien đi hẹn hò, Pari mình trần đứng trong hành lang, ngắm mình qua chiếc gương dài. Cô thấy những khuyết điểm trên cơ thể mình. Quá cao, cô nghĩ, dáng quá xấu, quá là… tốt gỗ. Cô chẳng được thừa hưởng chút đường cong mê hoặc nào của mẹ. Đôi khi cô đi như vậy, trên người không mảnh vải, vào phòng mẹ và nằm xuống chiếc giường mà cô biết Maman và Julien vẫn ân ái với nhau. Pari trần trụi nằm đó với đôi mắt nhắm nghiền, tim đập rộn, chìm vào lơ đãng, thứ gì đó như cảm giác râm ran lan khắp ngực cô, bụng cô, và còn xuống thấp hơn nữa.

Tất nhiên rồi cũng kết thúc. Họ kết thúc, Maman và Julien. Pari nhẹ nhõm nhưng không ngạc nhiên. Cuối cùng thì đàn ông vẫn mất Maman. Họ mãi mãi không với tới nổi sự lý tưởng mà Maman kỳ vọng ở họ. Cái gì bắt đầu bằng nồng nàn và đam mê thì luôn kết thúc bằng những câu buộc tội cộc lốc và những lời lẽ căm hờn, với sự thịnh nộ và những cơn nức nở cùng đám bát đĩa bay vèo vèo và sự sụp đổ. Kịch tính đỉnh điểm. Maman không thể bắt đầu hoặc kết thúc một mối quan hệ mà không gây ồn ào thái quá.

Tiếp đến là một giai đoạn có thể đoán trước được khi Maman bỗng nhiên thấy muốn ở một mình. Bà sẽ nằm trên giường, mặc chiếc áo khoác mùa đông cũ kỹ bên ngoài bộ đồ ngủ, một sự hiện diện mỏi mệt, buồn thảm, u ám trong căn hộ. Pari biết phải để bà yên. Những nỗ lực an ủi hay bầu bạn của cô không được chào đón. Tình trạng đó kéo dài hàng tuần, cái tâm trạng ủ rũ đó. Với Julien thì còn lê thê hơn nhiều.

“Ah, merde!*” giờ Maman thốt lên.

Chu Thich: Ôi, chết tiệt! (tiếng Pháp).

Bà ngồi dậy, vẫn mặc bộ đồ bệnh nhân. Bác sĩ Delaunay đã đưa cho Pari giấy xuất viện, một y tá đang tháo ống truyền khỏi tay Maman.

“Chuyện gì vậy ạ?”

“Mẹ vừa nhớ ra. Hai ngày nữa mẹ có cuộc phỏng vấn.”

“Phỏng vấn ạ?”

“Một bài chuyên đề cho một tạp chí thơ.”

“Tuyệt quá, Maman ơi.”

“Họ sẽ đăng kèm một tấm ảnh với bài báo.” Bà chỉ vào những vết khâu trên trán.

“Con chắc là mẹ sẽ tìm ra cách giấu nó đi thật khéo thôi,” Pari nói.

Maman thở dài, quay đi. Khi cô y tá rút mũi kim ra, Maman nhăn mặt và mắng cô với lời lẽ quá đáng khó nghe.

TRÍCH TỪ “TIẾNG HÓT AFGHANISTAN”,

BÀI PHỎNG VẤN NILA WAHDATI

DO ÉTIENNE BOUSTOULER THỰC HIỆN

Parallaxe số 84 (MÙA ĐÔNG NĂM 1974), TR. 36

Tôi nhìn quanh căn hộ lần nữa và bị thu hút bởi một bức ảnh lồng khung trên giá sách. Đó là ảnh một cô bé ngồi xổm giữa đống cây bụi, mải mê hái thứ gì đó, hình như là một loại dâu. Cô bé mặc áo màu vàng tươi, cài khuy tới tận cổ, tương phản với màu trời xám sẫm ảm đạm trên đầu. Phía sau là một căn nhà nông trại bằng đá với những cánh cửa chớp đóng kín và những tấm ván lợp tả tơi. Tôi hỏi bà về bức ảnh.

NW: Con gái tôi đấy, Pari. Giống tên thành phố nhưng không có chữ s. Có nghĩa là “nàng tiên”. Bức ảnh này chúng tôi chụp trong chuyến đi tới Normandy, hai mẹ con tôi. Hình như là hồi năm 1957. Chắc con bé tám tuổi.

EB: Cô ấy sống ở Paris ạ?

NW: Nó học Toán ở Đại học Sorbonne.

EB: Hẳn là bà tự hào lắm.

Bà mỉm cười nhún vai.

EB: Tôi hơi ngạc nhiên bởi lựa chọn nghề nghiệp của cô ấy, trong khi bà lại cống hiến hết mình cho nghệ thuật như vậy.

NW: Tôi không biết con bé có được khả năng ấy từ đâu. Tất cả đám công thức và lý thuyết khó hiểu đó. Có lẽ với nó thì chẳng có gì khó hiểu cả. Tôi thì hầu như chả biết nhân.

EB: Có lẽ đó là cách nổi loạn của cô ấy. Bà có kinh nghiệm về chuyện nổi loạn mà, tôi nghĩ thế.

NW: Phải, nhưng tôi nổi loạn đúng cách. Tôi uống rượu, hút thuốc, yêu đương. Ai lại đi nổi loạn bằng toán học cơ chứ?

Bà cười.

NW: Vả chăng, nếu có thì con bé sẽ là một kẻ nổi loạn vô cớ điển hình. Tôi cho nó mọi sự tự do có thể tưởng tượng được. Nó có mọi thứ, con gái tôi ấy. Nó không thiếu gì cả. Nó đang sống chung với người khác. Anh ta hơi lớn tuổi so với nó. Hấp dẫn tới mức không cần thiết, uyên bác, thú vị. Chăm chút vẻ ngoài điên cuồng, tất nhiên. Cái tôi to bằng cả đất nước Ba Lan.

EB: Bà không ủng hộ chuyện này.

NW: Tôi ủng hộ hay không thì có liên quan gì. Đây là nước Pháp, Monsieur Boustouler ạ, không phải Afghanistan. Không có chuyện cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy đâu.

EB: Con gái bà cũng không có mối liên hệ nào với Afghanistan?

NW: Chúng tôi rời đi năm con bé sáu tuổi. Nó chỉ nhớ được chút ít về quãng thời gian ở đó.

EB: Nhưng bà thì không, hẳn nhiên rồi.

Tôi đề nghị bà kể cho tôi nghe về quãng đời trước đó.

Bà xin phép rời khỏi phòng trong giây lát. Khi quay lại, bà đưa cho tôi một bức ảnh đen trắng nhàu nát, cũ mèm. Một người đàn ông dáng vẻ uy nghiêm, cao lớn, đeo kính, với mái tóc bóng mượt được rẽ ngôi chỉn chu. Ông ngồi đọc sách sau bàn. Ông vận một bộ com lê với ve áo thẳng thớm, áo gi lê hai hàng cúc, sơ mi trắng và nơ bướm.

NW: Cha tôi đấy. 1929. Năm tôi sinh ra.

EB: Cụ nom có vẻ khá xuất chúng.

NW: Ông ấy thuộc giai cấp quý tộc Pashtun ở Kabul. Học vấn cao, phong thái đĩnh đạc, quảng giao nhưng không giao thiệp tùy tiện. Lại còn là một người kể chuyện tài tình nữa. Ít nhất là ở nơi công cộng.

EB: Thế còn những lúc riêng tư thì sao?

NW: Có dám đoán không, Monsieur Boustouler?

Tôi cầm bức ảnh lên nhìn lại lần nữa.

EB: Xa cách, tôi cho là vậy. Nghiêm khắc. Khó đoán. Bảo thủ.

NW: Tôi nhất định phải mời anh uống một ly với tôi. Tôi ghét - không, tôi ghê sợ - chuyện uống một mình.

Bà rót cho tôi một ly Chardonnay. Vì lịch sự, tôi nhấp một ngụm.

NW: Tay ông lạnh lắm, cha tôi ấy. Bất kể thời tiết ra sao. Tay ông lúc nào cũng lạnh. Và lúc nào ông cũng vận com lê, cũng bất kể thời tiết ra sao. Được may đo hoàn hảo, đường li thẳng tắp. Mũ phớt nữa. Cùng với giày tây họa tiết đục lỗ, tất nhiên, hai tông màu. Ngoài ra - điều này mãi sau này tôi mới hiểu thấu - theo một lối giả Âu tự biên tự diễn quả có hơi lố bịch - được bổ sung trọn vẹn, dĩ nhiên rồi, với trò bowling trên cỏ và mã cầu mỗi tuần cùng người vợ Pháp đáng khao khát, tất cả đều được nhà vua cấp tiến trẻ tuổi ủng hộ hết mình.

Bà gảy gảy móng tay và không nói gì một lúc. Tôi lật băng trong máy ghi âm.

NW: Cha tôi ngủ riêng, mẹ con tôi ngủ chung. Phần lớn thời gian, ông ra ngoài ăn trưa với các bộ trưởng và các vị cố vấn cho nhà vua. Nếu không thì cũng đi cưỡi ngựa, chơi mã cầu, hoặc săn bắn. Ông mê săn bắn lắm.

EB: Như vậy là bà không thường thấy mặt cha mình. Cụ là một hình mẫu người cha vắng mặt.

NW: Không hẳn. Cứ hai ngày một lần, ông lại dành vài phút bên tôi. Ông vào phòng tôi và ngồi xuống giường, đó là dấu hiệu để tôi trèo vào lòng ông. Ông giữ tôi nhún nhảy trên đầu gối ông một lúc, không ai trong chúng tôi nói gì, và cuối cùng ông lên tiếng, “Ừm, thế giờ chúng ta làm gì hở Nila?” Đôi khi ông để tôi lấy chiếc khăn tay khỏi túi ngực ông và gấp lại. Tất nhiên tôi chỉ vo tròn rồi nhét nó lại vào túi ông thôi, và ông sẽ giả vờ ngạc nhiên, hành động mà tôi thấy hài hước vô cùng. Và chúng tôi cứ làm thế đến khi ông mệt, cũng chóng lắm. Rồi ông vuốt tóc tôi bằng đôi tay lạnh ngắt và bảo, “Papa phải đi rồi, nai con. Đi đi.”

Bà cầm bức ảnh quay trở lại căn phòng kia rồi quay lại, lấy một bao thuốc mới từ ngăn kéo và châm một điếu.

NW: Đó là biệt danh cha đặt cho tôi. Tôi thích lắm. Tôi từng nhảy tưng tưng quanh vườn - nhà chúng tôi có một khu vườn rộng mênh mông - miệng hò reo, “Tôi là nai con của Papa! Tôi là nai con của Papa!” Mãi đến sau này tôi mới nhận ra cái biệt danh đó gở đến mức nào.

EB: Sao cơ?

Bà mỉm cười.

NW: Cha tôi bắn nai, Monsieur Boustouler ạ.

❆❆❆

Họ có thể đi bộ qua vài khối nhà về căn hộ của Maman, nhưng mưa rơi khá nặng hạt. Trong taxi, Maman ngồi cuộn tròn nơi ghế sau, gói mình trong áo mưa của Pari, lặng thinh dõi mắt ra ngoài cửa sổ. Khoảnh khắc này Pari thấy bà thật già nua, già hơn nhiều so với tuổi bốn bốn. Già nua, mong manh, và gầy guộc.

Đã một thời gian rồi Pari không đến căn hộ của Maman. Khi xoay chìa mở cửa vào nhà, cô thấy quầy bếp bừa bãi với những ly rượu bẩn, những gói khoai tây chiên và mì sống mở toang hoác, những chiếc đĩa với đám thức ăn vón cục không rõ là món gì. Một túi giấy nhồi đầy những chai rượu rỗng nằm trên bàn, chênh vênh chực đổ đến nơi. Pari thấy báo rơi vãi dưới sàn nhà, một tờ thấm đầy máu dây ra trước đó trong ngày, và, trên tờ báo, trơ trọi một chiếc tất len hồng. Pari sợ hãi khi thấy không gian sống của Maman lại trong tình trạng thế này. Cùng với đó là cảm giác áy náy. Điều đó, nếu biết Maman, có thể là kết quả được mong đợi. Và rồi cô ghét mình vì đã có suy nghĩ ấy. Đó là điều mà Julien sẽ nghĩ. Bà ấy muốn em cảm thấy tồi tệ. Anh đã nói thế với cô vài lần hồi năm ngoái. Bà ấy muốn em cảm thấy tồi tệ. Khi anh lần đầu nói ra điều đó, Pari cảm thấy nhẹ nhõm, thấy được thấu hiểu. Cô biết ơn anh vì đã nói ra những gì mà cô không thể, hoặc sẽ không thốt ra. Cô nghĩ mình đã tìm thấy một đồng minh. Nhưng, dạo này thì cô băn khoăn. Cô nhận thấy trong những lời lẽ của anh một tia tàn nhẫn. Một sự ác ý khó chịu.

Sàn phòng ngủ vương vãi nào quần áo, đĩa hát, sách, thêm nhiều tờ báo nữa. Trên bậu cửa sổ là nửa cốc nước ngả vàng do đám đầu mẩu thuốc lá lềnh bềnh bên trong. Cô gạt đống sách và tạp chí cũ khỏi giường và đỡ Maman nằm xuống dưới lớp chăn.

Maman ngước nhìn cô, mu bàn tay gác lên chỗ lông mày bị băng bó. Tư thế này khiến bà nom như một nữ diễn viên sắp ngất trong một bộ phim câm.

“Mọi chuyện sẽ ổn phải không Maman?”

“Mẹ không nghĩ vậy,” bà đáp. Lời nói không mang vẻ cầu xin sự chú ý. Maman nói bằng giọng thờ ơ, buồn chán. Nghe mệt mỏi, thành thật, và dứt khoát.

“Mẹ làm con sợ đấy, Maman.”

“Giờ con đi à?”

“Vâng.”

“…”

“Mẹ có muốn con ở lại không?”

“Có.”

“Thế thì con sẽ ở lại.”

“Tắt đèn đi.”

“Maman à?”

“Ơi.”

“Mẹ có uống thuốc không? Mẹ dừng rồi à? Con thấy mẹ dừng rồi thì phải, con lo quá.”

“Đừng lải nhải thế với mẹ nữa. Tắt đèn đi.”

Pari làm theo. Cô ngồi trên mép giường nhìn mẹ chìm vào giấc ngủ. Rồi cô vào bếp bắt tay vào núi việc dọn dẹp. Cô tìm thấy một đôi găng tay và rửa bát trước. Cô rửa những chiếc cốc bốc mùi sữa để chua lâu ngày, những chiếc bát đóng vảy ngũ cốc, những chiếc đĩa đựng thức ăn lấm tấm những mảng mốc xanh mềm. Cô nhớ lại lần đầu tiên rửa bát ở căn hộ của Julien vào buổi sáng sau khi họ trải qua đêm đầu tiên bên nhau. Julien đã làm trứng ốp lết. Cô đã thích công việc nhà đơn giản đó đến thế nào, rửa bát trong bồn nhà anh, trong khi anh chơi một bản nhạc của Jane Birkin trên máy quay đĩa than.

Cô đã nối lại quan hệ với anh vào năm ngoái, năm 1973, sau gần một thập kỷ. Cô tình cờ gặp anh tại một cuộc diễu hành trên phố bên ngoài Đại sứ quán Canada, một cuộc biểu tình của sinh viên nhằm chống lại việc săn hải cẩu. Pari không muốn đi, và cũng phải làm cho xong bài tập hàm phân hình nữa, nhưng Collette cứ lôi cô đi bằng được. Hồi ấy họ sống cùng nhau, một sự sắp xếp ngày càng cho thấy là mang lại sự khó chịu cho cả hai. Collette hút cỏ. Cô đeo băng đô và mặc những chiếc áo trùm mông thùng thình màu hồng đậm thêu hình chim và hoa cúc. Cô dẫn về nhà những gã trai tóc dài nhếch nhác xực đồ ăn của Pari và chơi ghita dở tệ. Collette ở ngoài đường suốt, hò hét, lên án sự tàn nhẫn với động vật, phân biệt chủng tộc, chế độ nô lệ, việc Pháp thử hạt nhân ở Thái Bình Dương. Luôn có những cuộc gọi khẩn trong căn hộ, những người Pari không quen biết lượn lờ ra vào. Và khi chỉ có hai người với nhau, Pari cảm thấy một bầu căng thẳng mới phát sinh giữa họ, vẻ ngông nghênh bên phía Collette, thái độ phản đối cô âm thầm.

“Họ nói dối,” Collette nói vẻ kích động. “Họ nói phương pháp của họ là nhân đạo. Nhân đạo! Cậu có thấy họ dùng cái gì để phang lên đầu chúng không? Mấy cái hakapik* đó. Có những lúc con vật tội nghiệp còn chưa chết, mà lũ khốn cứ móc lưỡi cuốc vào nó và lôi nó ra thuyền. Chúng bị lột da sống, Pari ạ. Sống nguyên!” Cái cách Collette nói từ cuối cùng, cái cách cô nàng nhấn mạnh, khiến Pari muốn thốt lên lời xin lỗi. Vì cái gì, cô không chắc lắm, nhưng cô biết rằng, những ngày đó, ở bên Collette và sự chỉ trích cùng bao cơn giận dữ của cô nàng, cô thấy hơi thở mình như bị rút cạn.

Chu Thich: Từ gốc Na Uy, chỉ loại gậy tương tự cuốc chim dùng để săn hải cẩu.

Chỉ khoảng ba mươi người có mặt. Có tin đồn diễn viên Brigitte Bardot sẽ xuất hiện, nhưng té ra tin đồn cũng chỉ là tin đồn. Collette khá thất vọng trước việc này. Cô đã cãi nhau ỏm tỏi với một anh chàng đeo kính gầy nhẳng, nhợt nhạt tên Eric, theo Pari biết là người chịu trách nhiệm tổ chức buổi diễu hành này. Khổ thân Eric. Pari thấy thương cho anh ta. Vẫn giận sôi, Collette dẫn đầu. Pari lê bước theo sau, đi cạnh một cô gái ngực phẳng hò hét những câu khẩu hiệu với vẻ hào hứng sôi nổi. Pari dán mắt vào vỉa hè và cố hết sức để không ai chú ý đến mình.

Đến một góc phố, một người đàn ông vỗ vai cô.

“Trông em có vẻ muốn được giải cứu lắm rồi đấy.”

Anh mặc áo khoác vải tuýt bên ngoài áo len, quần jean, và quàng khăn len. Tóc anh dài hơn, và anh cũng già đi ít nhiều, nhưng thanh lịch, theo cái cách mà một số phụ nữ ở tuổi anh có thể thấy bất công, thậm chí tức tối. Vẫn dáng người thư sinh, cân đối, mấy vết chân chim, thêm ít tóc bạc ở hai bên thái dương, khuôn mặt phảng phất vẻ mệt mỏi.

“Vâng,” cô đáp.

Họ thơm lên má nhau, và khi anh mời cô uống cà phê, cô đã đồng ý.

“Bạn em trông giận dữ quá. Đằng đằng sát khí.”

Pari liếc lại đằng sau, thấy Collette đứng cạnh Eric, vẫn hò hét và vung cao nắm đấm, nhưng lại ngỡ ngàng nhìn chằm chằm vào hai người bọn họ. Pari nén cười - thứ có thể gây nên những thương tổn không thể chữa lành. Cô nhún vai xin lỗi rồi lom khom chuồn đi.

Họ tới một quán cà phê nhỏ và chọn một bàn bên cửa sổ. Anh gọi cà phê và bánh trứng sữa mille-feuille* cho mỗi người. Pari nhìn anh nói chuyện với người bồi bàn bằng giọng uy quyền nhưng thân thiện mà cô còn nhớ rất rõ và khiến lòng cô chộn rộn mỗi khi anh đến đón Maman thuở nào. Cô bỗng cảm thấy ngượng ngùng, về những móng tay cắn nham nhở, khuôn mặt không đánh phấn, những lọn tóc xoăn rũ rượi - cô ước gì đã sấy khô tóc sau khi tắm xong, nhưng khi đó cô đã muộn rồi, còn Collette thì cứ đi đi lại lại như một con vật trong vườn thú.

Chu Thich: Ngàn lớp, bánh ngàn lớp là một loại bánh nổi tiếng của Pháp.

“Anh không nghĩ em lại là típ biểu tình đâu nhé,” Julien nói, châm thuốc lá cho cô.

“Đâu có. Là do cảm thấy áy náy, chứ em muốn kết tội ai đâu.”

“Áy náy? Với việc săn hải cẩu á?”

“Với Collette.”

“À. Ra vậy. Em biết đấy, có lẽ anh hơi sợ cô ấy.”

“Ai mà chả thế.”

Họ cười. Anh vươn tay qua bàn chạm vào khăn quàng cổ của cô. Rồi buông tay ra. “Nói em đã lớn thật rồi thì nghe sáo quá, nên anh chẳng nói đâu. Nhưng trông em đẹp mê hồn, Pari ạ.”

Cô bấu vào ve áo mưa. “Gì cơ, trong bộ đồ thám tử này á?” Collette từng nói với cô rằng đó là một thói quen ngớ ngẩn, cái trò hề phản kháng đầy tự ti mà Pari thường làm để cô che giấu sự căng thẳng khi ở bên người đàn ông cô thích. Nhất là khi họ khen cô. Không phải lần đầu tiên, mà cũng còn lâu mới là lần cuối cùng, cô ghen tị với phong thái thoải mái tự nhiên của Maman.

“Rồi anh sẽ nói là em thật xứng đáng với cái tên của mình,” cô nói.

“Ah, non*. Thôi nào. Quá hiển nhiên. Có hẳn một nghệ thuật khen ngợi phụ nữ, em biết mà.”

Chu Thich: Ôi không (tiếng Pháp).

“Không. Nhưng em chắc là anh biết.”

Người phục vụ mang bánh và cà phê tới. Pari nhìn chằm chằm vào tay người phục vụ khi anh ta sắp tách và đĩa lên bàn, lòng bàn tay cô đẫm mồ hôi. Mới chỉ có bốn người tình đi qua cuộc đời cô - một con số khiêm tốn, cô biết, nhất là khi so với Maman ở độ tuổi cô, thậm chí cả Collette. Cô quá cẩn trọng, quá nhạy cảm, quá thỏa hiệp và dễ thích nghi, nhìn chung là ổn định và đỡ gây mệt mỏi hơn Maman lẫn Collette. Nhưng đó không phải là những phẩm chất thu hút nhiều đàn ông. Và cô không yêu bất cứ ai trong bọn họ - dù cô nói dối là có - nhưng khi nằm dưới họ, cô cứ nghĩ tới Julien, tới anh và khuôn mặt đẹp của anh, một khuôn mặt dường như tỏa rạng với ánh sáng tự thân của nó.

Anh nói chuyện về công việc của mình trong khi dùng bữa. Anh kể là đã bỏ nghề dạy học một thời gian. Rồi anh đảm trách vấn đề nợ bền vững cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế một vài năm. Ưu điểm của nghề này là được đi nhiều nơi, anh nói.

“Đi đâu?”

“Jordan, Iraq. Rồi anh dành hai năm viết một cuốn sách về các khu vực kinh tế không chính quy.”

“Sách của anh có được xuất bản không?”

“Tin đồn là vậy.” Anh mỉm cười. “Giờ anh làm cho một công ty tư vấn tư nhân tại Paris này.”

“Em cũng muốn được đi nhiều nơi,” Pari nói. “Collette suốt ngày nhai nhải rằng chúng em nên tới Afghanistan.”

“Anh nghĩ mình biết tại sao cô ấy lại muốn đi.”

“Ừm, em nghĩ nhiều đến chuyện đó rồi. Ý em là trở về. Em không quan tâm đến nhựa cần sa, nhưng em rất muốn thăm thú đất nước đó, xem nơi em đã sinh ra. Có lẽ còn tìm lại ngôi nhà xưa mà cha mẹ và em từng sống nữa.”

“Anh không nhận ra là em lại bị thôi thúc như vậy đấy.”

“Em tò mò mà. Ý em là, em nhớ được ít quá.”

“Hình như có lần em từng nói về người đầu bếp gia đình rồi.”

Pari cảm thấy lòng xốn xang khi anh lại nhớ một chuyện mà cô đã kể cho anh bao nhiêu năm trước. Ắt hẳn trong khoảng thời gian ấy, anh có nghĩ tới cô. Ắt hẳn cô có hiện diện trong tâm trí anh.

“Vâng. Tên bác ấy là Nabi. Bác ấy cũng làm tài xế nữa. Bác ấy lái xe của cha em, một chiếc xe ô tô Mỹ to oành, màu xanh dương với mui xe vàng cát. Em nhớ là có một cái đầu đại bàng trên nắp ca pô.”

Lát sau, anh hỏi cô đáp, về chuyện học hành và sự chuyên tâm của cô vào các biến phức. Anh lắng nghe theo cách mà Maman chưa bao giờ làm - Maman, người dường như chán ngấy cái chủ đề này và không hiểu nổi tại sao Pari lại đam mê nó đến thế. Maman thậm chí còn chẳng buồn giả vờ quan tâm. Bà vô tư bông đùa, mà bề ngoài như thể chế nhạo sự thiếu hiểu biết của chính mình. Oh là là, bà nói, toét miệng cười, đầu tôi! Đầu tôi! Quay như chong chóng! Thế này đi, Pari. Mẹ sẽ rót trà cho chúng ta, rồi con đáp trở lại xuống hành tinh, d’accord?* Bà sẽ cười khúc khích, Pari cũng cười theo để chiều lòng bà, nhưng cô cảm thấy những lời nói đùa đó thấp thoáng vẻ khó chịu, một kiểu trách khéo, một lời ám chỉ rằng kiến thức của cô được xem là quá bí ẩn và cái nghiệp cô đeo đuổi thật là phù phiếm. Phù phiếm. Nghe mới hay làm sao, Pari nghĩ, khi phát ra từ miệng một nhà thơ, dù cô chẳng bao giờ nói vậy với mẹ mình.

Chu Thich: Được không con? (tiếng Pháp).

Julien hỏi cô thấy gì ở toán học và cô đáp nó đem lại cho cô cảm giác dễ chịu.

“Với anh thì có lẽ ‘nản’ là tính từ thích hợp hơn,” anh nói.

“Cũng có nản mà.”

Cô nói, cảm giác dễ chịu có thể tìm thấy trong sự bất biến của các chân lý toán học, trong sự vô hữu của các yếu tố tùy tiện hay mơ hồ. Trong nhận thức rằng đáp án dù khó nắm bắt, nhưng có thể được tìm ra. Chúng ở đó, chờ đợi những nét phấn nguệch ngoạc.

“Nói cách khác thì chẳng giống cuộc sống chút nào,” anh nói. “Với cuộc đời, đó là những câu hỏi không có đáp án hoặc những đáp án lộn xộn.”

“Em rõ ràng đến thế sao?” Cô cười đoạn lấy khăn ăn che mặt. “Nghe cứ như kẻ ngốc vậy.”

“Không hề,” anh nói. Anh kéo cái khăn ăn ra. “Không hề.”

“Cứ như sinh viên của anh ấy. Chắc là em nhắc anh nhớ đến sinh viên của mình rồi.”

Anh hỏi thêm nhiều câu nữa, mà qua đó Pari thấy rằng anh có hiểu biết về lý thuyết giải tích số, và ít nhất cũng tình cờ, biết đến các nhà toán học Carl Ga