← Quay lại trang sách

Chương 3

Đăng ký truyền hình cáp - Lynn quên mất - Quay lại quảng cáo gây quỹ - Roland gọi cho Benny - Một số phận mơ hồ - Bữa trưa của Andy Smeejack - Điều tuyệt vời ở một cái nòng giảm thanh - Amber nổi điên - Carl hát - Một câu hỏi về lòng can đảm - Tiết lộ của Larry - Carl phát hoảng - Một cuộc trò chuyện về công việc - Mớ bòng bong bắt đầu - Điều tốt đẹp nhất của Chicago

Sự thật rằng Lynn Mason đúng là bị ung thư vú cuối cùng cũng lộ ra. Đến lúc đó nó không còn là một chủ đề phỏng đoán của chúng tôi nữa. Chúng tôi đã chuyển tiếp sang, hoặc đúng hơn là quay trở lại, câu hỏi về việc ai sẽ là người tiếp theo phải ra đi. Suốt cả buổi sáng sau cơn tam bành của Genevieve, khi chúng tôi tỉnh dậy ở khắp thành phố và khu vực đô thị rộng lớn hơn, chúng tôi vẫn không có ý tưởng nào cho dự án từ thiện.

Chúng tôi không bỏ cuộc hoàn toàn. Nếu như không có gì đến với chúng tôi trong khoảng thời gian giữa lúc thức dậy và ra về, chúng tôi vẫn còn hành trình đến chỗ làm và cuốc thang máy. Chúng tôi có cà phê ở bàn làm việc và cú huých hóa học về sự khai sáng mà nó hứa hẹn. Điều gì khiến họ cười được nhỉ? Đau ốm, nôn mửa, chuẩn bị mổ rồi bị khâu vá và chịu sẹo, chất độc, bị chiếu tia xạ - điều gì khiến họ cười được? Có gì là buồn cười ở sự dặt dẹo và bất hạnh, ở việc lê bước về nhà để chờ đợi tin xấu, ở việc phải đi lại bằng xe lăn với một cái cọc truyền tĩnh mạch? Có gì là chọc cười ở khả năng đối mặt với cái chết - một cái chết hoàn toàn bình thường và chính vì thế lại càng không thể nào tránh khỏi.

Chúng tôi họp tại phòng làm việc của Lynn vào thời gian đã sắp xếp. Cảm giác sợ hãi hiện hữu sờ sờ. Chúng tôi thấy phòng làm việc của chị sạch sẽ và ngăn nắp. Chị đang ngồi sau bàn, kiểm tra ngăn kéo giữa tìm những thứ nên được tống vào thùng rac. Chị im lặng ra hiệu cho chúng tôi vào, vì chị đang có điện thoại. Chị thử một cây bút bi không có tí mực nào và thế là chị quăng nó đi. Chúng tôi ngồi vào ghế của mình, những tên tội phạm trên xe ngựa chờ đến lượt lên đoạn đầu đài.

“Tôi không thể nào tin nổi việc bố trí cho một nhân viên truyền hình cáp đến nhà mình lại khó khăn đến thế,” chị nói, sau khi gác máy. “Kể cũng ngạc nhiên là có người vẫn có truyền hình cáp cơ đấy. Các cậu có truyền hình cáp không?” chị hỏi.

Chúng tôi đều nói là chúng tôi có.

“Vậy là có người phải ở nhà một ngày,” chị nói, “để đợi tay nhân viên truyền hình cáp đến?”

Chúng tôi không biết chắc phải trả lời câu đó như thế nào. Một câu trả lời trung thực sẽ làm lộ rằng đã có một ngày trong quá khứ đen tối chúng tôi đã nghỉ buổi sáng để ở nhà đợi nhân viên truyền hình cáp thay vì đến chỗ làm. Chúng tôi không muốn chị nghĩ rằng chúng tôi lại đi chọn truyền hình cáp thay vì công việc. Công việc mới là thứ cho phép chúng tôi có đủ tiền xài truyền hình cáp. Mặt khác, có những khi chúng tôi trở về nhà và thực sự cần được thư giãn với chút truyền hình cáp, và những buổi tối đó nhắc chúng tôi nhận ra rằng chúng tôi sẵn sàng giả bị cúm để nghỉ trọn vẹn một tuần nếu như quãng thời gian đó là cần thiết để có truyền hình cáp.

“Tôi chỉ đang nói là phải có cách nào đó dễ dàng hơn,” chị nói. “Họ không thể bắt người ta phải chờ ở nhà vào một ngày thứ Ba từ mười giờ đến hai giờ để nhân viên truyền hình cáp đến được, đúng không nào?”

“Họ nắm mình đằng bi mà,” Jim Jackers nói.

Với Lynn mà hắn nói thế. Đúng là kinh khủng. Chúng tôi cau mày chết thôi.

“Đúng là họ nắm mình đằng bi,” Lynn đồng tình.

“Chị chưa có truyền hình cáp ở nhà cơ à, Lynn?” Benny Shassburger hỏi.

“Ăng ten tai thỏ thôi,” chị nói. “Thê thảm, tôi biết. Nhưng tôi có được xem The Simpsons chiếu lại.”

Chúng tôi ngạc nhiên là Lynn lại xem The Simpsons . Không ai ngạc nhiên hơn Benny, người hỏi chị tập ưa thích của chị là tập nào. Chị có câu trả lời cho anh ta ngay lập tức. Nó khác với tập của Benny, mặc dù mỗi người trong họ đều biết và tôn trọng tập ưa thích của người kia. Ngay sau đó họ bắt đầu trích dẫn những câu thoại. Nghe Lynn Mason trích dẫn Homer Simpson đúng là choáng. Nhưng choáng hơn cả là câu nói của Amber khi cô ta ngắt lời họ.

“Tôi sẽ ở nhà đợi nhân viên truyền hình cáp hộ chị,” cô ta nói.

Lynn nhìn cô ta. “Tôi xin lỗi?”

“Nếu chị cần,” cô ta nói. “Tôi sẽ qua nhà đợi anh ta.”

Lynn bật cười, nhưng không phải là theo kiểu cười nhạo. Đó là biểu hiện ngạc nhiên một cách dịu dàng. “Không cần đâu,” chị nói. “Tôi sẽ tìm được cách xoay xở. Có thể người gác cửa chỗ tôi sẽ cho anh ta vào.”

Nỗi thông cảm của Amber dành cho Lynn trong những ngày chúng tôi tin là chị bị ung thư đã ăn sâu vào trong tâm khảm cô ta đến mức ngay cả bây giờ, khi mà tin đồn đó đã bị cho nghỉ, cô ta vẫn xem Lynn như một người bệnh tật đang cần được giúp đỡ. Đúng thật là lố bịch và cảm động. Lynn thay đổi chủ đề.

“Xin lỗi, mà các cậu lại đến đây làm gì ấy nhỉ?” chị hỏi. “Chúng ta có một cuộc họp à?”

Tất cả chúng tôi đều quay sang Joe Pope. Anh ta nhắc chị rằng chị đã yêu cầu xem những ý tưởng cho quảng cáo từ thiện...

“Ôi, chết tiệt,” chị ngắt lời. “Hôm nay đúng không?”

Anh ta gật đầu.

Lynn đặt đầu ngón tay lên hai thái dương. “Joe, chuyện đó hoàn toàn lọt khỏi tâm trí tôi.” Chị lắc đầu. Chị nhìn quanh. “Tôi xin lỗi, các bạn. Đầu óc tôi hoàn toàn tập trung vào thương vụ mới này.”

“Chúng tôi có nên quay lại không?” anh ta hỏi.

Cùng một lúc tất cả chúng tôi đều đổ sụp xuống mặt thảm cứng và bắt đầu cầu nguyện. Chúng tôi ngã rạp mình trước mặt chị, cái bản thân thảm hại và không xứng đáng của chúng tôi, và cầu xin lòng thương hại. Thêm thời gian - xin hãy cho chúng tôi thêm thời gian! Chúng tôi phải nói: rằng chúng tôi là một lũ người thấp hèn, nhát gan, không xương sống. Trên thực tế chúng tôi chỉ ngồi hoàn toàn lặng yên, im lặng nín thở.

“Không, không,” chị nói. “Cho tôi xem những gì các cậu có.”

“Ừm,” anh ta nói, “sau thay đổi đưa tới từ khách hàng...”

“Thay đổi?” chị nói. “Thay đổi gì nhỉ?”

“Bức email mà chị chuyển tiếp cho tôi đấy?”

“À, đúng rồi,” chị nói. “Nhắc tôi xem nào?”

Nhắc tôi xem nào? Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra ở đây thế này? Chúng tôi đã mất hết giờ này sang giờ khác phỏng đoán về bản chất của cái dự án từ thiện này, vậy mà chị không hề có vẻ gì là nhớ được lấy một chút nào về nó cả. Vậy là Joe giải thích sự thay đổi, cũng như những khó khăn mà chúng tôi đang phải đương đầu. Anh ta còn đi xa đến mức gợi ý rằng điều mà khách hàng giờ đây yêu cầu có thể là không thể nào thực hiện được, nhưng nếu như chúng tôi bắt buộc phải thực hiện nó, chắc chắn chúng tôi sẽ cần có thêm thời gian.

“Hừm, thời gian chính là thứ mà chúng ta không còn nữa,” chị nói. “Ưu tiên hàng đầu của chúng ta là giành được hợp đồng mới này cho công ty. Chúng ta không thể tốn thêm chút thời gian nào vào công việc từ thiện nữa.”

Chị hỏi chúng tôi xem chúng tôi đã nghĩ ra được ý tưởng nào cho quảng cáo gây quỹ chưa. Tất cả chúng tôi đều bảo là rồi.

“Thế thì mang chúng đến cho tôi,” chị nói. “Đó là những gì họ muốn lúc đầu, đó là thứ mà họ sẽ nhận được.”

Thế là chúng tôi rời khỏi phòng làm việc của chị để về lấy những ý tưởng gây quỹ của mình. Khi chúng tôi quay lại, chị xem qua và, cuối cùng, chọn chiến dịch “Những người thân yêu” của Karen Woo. Thật phát tởm khi quay sang nhìn thấy khuôn mặt của Karen đúng lúc đó. Lynn bảo Karen chuyển tiếp chúng cho chị. Chị sẽ tự mình chuyển chúng sang định dạng PDF cho khách hàng. “Và nếu như họ không thích chúng,” chị kết luận, “họ có thể tìm một công ty khác. Vì ngay lúc này, chúng ta có một con cá to hơn để rán.”

“Lynn,” Karen nói. “Tại sao tôi không thể tìm được sự hiện hữu nào của cái Liên minh Chống Ung thư Vú này trên Internet?”

“Karen,” Joe nói.

“Cảm ơn tất cả mọi người vì đã vất vả,” Lynn nói.

Và thế là cái dự án không công của chúng tôi chấm dứt.

Vì thương vụ mới, chúng tôi không có nhiều cơ hội để bàn tán về động thái bất ngờ này. Chúng tôi có một cuộc họp triển khai công việc vào giữa buổi sáng trong đó chúng tôi thảo luận về khách hàng sản xuất nước uống chứa caffein và yêu cầu của họ. Ngay sau đó chúng tôi có một cuộc họp triển khai công việc khác để bàn chi tiết về những yêu cầu sáng tạo của nhà sản xuất giày chạy bộ. Chúng tôi đều biết tầm quan trọng của việc giành được hợp đồng mới, vì thế sau những cuộc họp này chúng tôi quay về bàn làm việc của mình và bắt đầu động não.

Thành thử cả văn phòng đang đông đủ khi mà, gần trưa, Benny nhận được một cú điện thoại của Roland. Roland đang trực ở quầy trước dưới sảnh, xong một nửa ca đúp. Benny đã để ý rằng vào những ngày Roland trực ca đúp, mắt bác ta đờ đẫn, đỏ ngầu, lúc nào cũng chỉ chực nhắm tịt lại, thành thử cứ ba mươi giây bác ta lại ngáp một cái, hất cái mặt dài, há hốc miệng như một con chó sói đang tru mặt trăng, và thỉnh thoảng bác ta lại lẻn tót lên tầng năm mươi chín đánh một giấc hai mươi phút. Đây là công việc sau khi nghỉ hưu của Roland để bác ta có thể bổ sung vào An sinh Xã hội của mình. Ai lại đi hoạnh họe bác ta vì hai mươi phút chứ? Theo như Benny, những giấc chợp mắt đó là cực kỳ cần thiết. “Một thứ Sáu,” có lần Benny kể với chúng tôi, “bác ta cứ gọi tôi là Brice. Tôi không nói gì vì tôi biết là bác ta biết tên tôi và tôi không muốn làm bác ta xấu hổ, nhưng Brice là sao? Tại sao lại là Brice?” Jim Jackers gợi ý “Lenny” thì có lẽ còn hợp lý, hoặc thậm chí là “Timmy”. “Timmy thì còn có lý hơn là Brice,” Jim nói. “Ít nhất nó còn vần với Benny.” “Jim, Nancy cũng còn có lý hơn là Brice đấy,” Benny nói. “Ai lại gọi người khác là Brice chứ? Dù sao đi nữa tôi cũng không nói gì với bác ta, và đến thứ Hai thì bác ta lại gọi tôi là Benny. Chính là những vụ trực đúp này đấy, bồ ạ. Chúng làm đầu óc bác ta lú lẫn.”

Khi Benny nhấc điện thoại lên, Roland bảo anh ta rằng bác ta tin là Tom Mota có thể đang ở trong tòa nhà. “Và có thể anh ta vừa mới vào thang máy,” bác ta nói thêm. “Bác bảo có thể nghĩa là thế nào?” Benny hỏi. Sau đó khi kể lại câu chuyện, Benny nghĩ hoàn toàn có thể là bác già kia đã gặp ảo giác, vì hôm đó là một ngày thứ Sáu và bác ta đang ở khúc cuối của một ca trực đúp. “Điều gì khiến bác nghĩ đó thậm chí chính là Tom cơ chứ?” anh ta hỏi. Nhưng thay vì nghe câu trả lời của Roland, trong đầu anh ta, Benny nghe thấy Amber. Một lần nữa anh ta xem những điềm báo của cô ta về sự quay trở lại của Tom là nỗi lo lắng của một người ru rú xó nhà sợ sệt. Anh ta tin tưởng vào những bản năng tốt đẹp hơn của Tom và không nghiêng về hướng nghĩ rằng có bất kỳ ai lại đang gặp bất kỳ mối nguy hiểm trực tiếp nào. Nhưng bất kể anh ta có cảm thấy như thế nào, nếu như Tom thực sự trở lại, một số người kiểu gì chẳng muốn biết. Cũng còn có khả năng là Benny chẳng biết gì hết về những bản năng tốt hơn của Tom. “Tại sao bác lại gọi cho tôi về chuyện này?” Benny bất ngờ ngắt lời Roland đang nói dở dang.

“... và bảo anh ta có một gói bưu phẩm cần giao,” Roland nói tiếp, “thế là tôi để anh ta lên bằng thang máy nhanh. Vì tôi không thể nào liên lạc được với Boroshansky,” Roland nói thêm, không kịp trả lời câu hỏi của Benny, “và tôi nghĩ có người trên đó nên được biết về chuyện này.”

“Chờ đã, Roland - bác định nói là anh ta đã đến trước mặt bác, và bác nhìn thấy anh ta, vậy mà bác vẫn không thể chắc chắn đó chính là anh ta?”

“Vì đồ hóa trang!” Roland hét lên, tức tối.

“Đồ hóa trang nào?”

“Thế ra cậu chẳng nghe tôi nói gì cả à?”

Benny không hề nghe lấy một lời bác ta vừa nói. “Không,” anh ta nói. “Bác đang nói về chuyện gì vậy, đồ hóa trang?”

“Chờ một giây,” Roland nói. “Mike đang gọi trên bộ đàm.”

Benny chờ đợi. Anh ta đang chờ đợi cái gì nhỉ? Những chỉ thị từ một nhân viên bảo vệ mắt lờ đờ, không hề được đào tạo với chút năng khiếu tự nhiên nghèo nàn cho vị trí của mình, mệt nhoài vì một ca trực đúp. Việc khôn ngoan lúc này là gác máy. Anh ta chờ đợi. Roland quay trở lại.

“Benny? Đúng rồi, tôi Roland đây.”

“Hừm, thế bác còn là ai được nữa?” Benny sốt ruột trả lời.

“Mike nghĩ là cậu nên cảnh báo mọi người.”

Benny gác máy. Anh ta bước ra ngoài hành lang. Ở phía bên trái mình anh ta thoáng nhìn thấy Marcia, người đúng lúc đó đã đi đến cuối hành lang, và biến mất, không để lại gì ngoài những chiếc lá phủ bụi của cái cây cảnh giả trồng trong chậu rung rinh theo cô, nhưng anh ta bị thu hút bởi chuyển động ở bên phải mình. Hank cũng rẽ ở gốc đối diện trong sự đồng bộ hóa hoàn hảo với Marcia và sau đó, cả anh ta, cũng biến mất vào trong phòng làm việc của mình. Còn lại Benny đứng nhìn cái cây trồng trong chậu khác, hình ảnh phản chiếu của cái cây mà anh ta vừa quay người đi khỏi. Trong một thoáng ngắn ngủi anh ta đứng như hóa đá, chính giữa cả hai cái cây, không biết phải làm gì.

Roland không thể nói chắc chắn rằng người đàn ông mà bác ta đã nhìn thấy chính là Tom, vì vậy Benny không thể nói chắc chắn rằng chính Tom đang đi lên theo thang máy cao tốc. Kể cả khi đó có là gã đi chăng nữa, Benny không thể nói rằng Tom có ý định gây nguy hiểm cho bất cứ ai. Bản năng của anh ta không mách bảo phải làm gì với những thông tin hạn chế mà anh ta có. Anh ta có nên bắt đầu hét lên không? Nằm co rúm dưới gầm bàn? Hay anh ta nên ra đứng cạnh thang máy và là người đầu tiên chào Tom? Trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, anh ta có cảm giác hành lang trống trải như sở hữu một trạng thái yên lặng đến ám ảnh tạo ra ấn tượng rằng suốt dọc gian sảnh, và suốt dọc những hành lang khác và nhánh của các hành lang cũng như lối đi giữa các ngăn làm việc, các văn phòng và vị trí làm việc bỗng chốc bị bỏ trống hoàn toàn, và rằng toàn bộ sự sống con người, náo nhiệt và đông đúc, vốn từng rì rầm rồi quang quác rồi sao chụp rồi nhập dữ liệu, đã chấm hết không hẹn ngày trở lại, và rằng tất cả những ngày tháng trải qua ở đây, quãng thời gian phục vụ, tình thân ái mến thương, giờ lại là những vết thương của một số phận bất hạnh và vô định.

Khoảnh khắc ngay sau đó lại náo nhiệt với các hoạt động. Hank lại đi ra khỏi phòng làm việc của mình và biến mất quanh cái góc mà anh ta vừa từ đó xuất hiện, Marcia quay trở lại cái góc nơi cô ta vừa biến mất, và Reiser, cần chút giải lao ngoài hành lang, tập tễnh ra khỏi phòng làm việc của mình bên tay phải Benny. Reiser nắm cây gậy bóng chày Louisville Slugger mà anh ta vẫn để ở một góc phòng làm việc đập đập lên đế giày, như thể đang tiến về chốt nhà. Larry và Amber, ở phía bên kia của Benny, đột nhiên cũng tràn ra ngoài hành lang, cố gắng kiềm chế một trận bất hòa lặng lẽ, dữ dội đúng lúc Marcia tiến lại, buộc cô ta phải khẽ khàng đi qua giữa đôi tình nhân như thể đang cố tránh một quả mìn. Cô ta đang chuẩn bị đi qua Benny với không gì hơn ngoài một cái nhăn mặt khó chịu vì phải đi qua với tâm trạng khó xử đến thế ở văn phòng. Benny nghĩ khôn ngoan hơn cả là thì thầm thay vì hét rống lên, vì vậy rất tự nhiên anh ta vươn ra nắm lấy cánh tay Marcia. Cô ta đang mặc chiếc áo có mũ trùm đầu bằng cotton màu hồng mà cô ta vẫn mặc mỗi khi kêu ca là bị lạnh. Bên dưới nó, cánh tay cô ta mềm mại và mảnh dẻ với cảm giác thật dễ chịu trong tay anh ta.

“Marcia,” anh ta nói. “Tom Mota có thể vừa quay lại tòa nhà.”

Tom Mota đi thang máy qua tầng sáu mươi thẳng một mạch lên tầng sáu hai. Các tầng sáu mươi, sáu mốt, và sáu hai đều được nối bằng cầu thang bên trong, nên bất kỳ ai cũng có thể đi lại tự do giữa chúng. Không ai nhìn thấy Tom khi gã bước ra khỏi thang máy.

Chắc chắn gã đã đi thẳng và sau đó rẽ phải ở bức tường dẫn vào ngõ cụt ở trạm in. Gã đi tiếp cho đến khi tới điểm nối hành lang, cho phép gã có thể đi một trong hai hướng. Gã chọn đi tiếp về bên trái, đi qua dãy phòng vệ sinh nam và nữ ở bên phải mình, rồi lại rẽ trái, và đi dọc theo hành lang đó, một bên được vây bởi những vách ngăn làm việc màu be và bên kia là những phòng làm việc có cửa sổ vốn được thèm khát bởi những người ngồi trong các ngăn làm việc màu be. Trên đầu gã những mảng trần xếp xen kẽ, hai tấm ốp màu trắng cho mỗi mảng đèn huỳnh quang. Tom tiếp tục bước trên lớp thảm màu be bên dưới chúng.

Andy Smeejack đang ngồi sau bàn của anh ta ở một trong những phòng có cửa sổ, cố gắng dùng những ngón tay chuối mắn vụng về của mình để bóc vỏ quả trứng luộc kỹ. Andy ở bên Phòng Khách hàng. Đập trứng thì dễ thôi - anh ta cầm quả trứng như cầm một hòn đá bóng loáng và gõ nhè nhẹ lên cạnh bàn của mình. Anh ta đã trải sẵn một cái khăn ăn ở dưới để hứng vỏ trứng, nhưng cái quả trứng cá biệt đó lại cứ bám víu chặt vào nhau như một tổ quốc bướng bỉnh, chở che, và Andy buộc phải bắt tay vào phẫu thuật nó - có lẽ là một cảnh thật khôi hài, gã khổng lồ lộc ngộc ăn kiêng đang kiên nhẫn bóc vỏ bữa trưa đạm bạc đến tuyệt vọng và chán chường toàn tập của anh ta. Anh ta thậm chí còn đành lòng chịu mất một mẩu lòng trắng trứng cho mỗi mảnh vỏ trứng bé nhất. Thật không may, những ngón tay lóng ngóng của anh ta vốn chỉ lanh lẹ hơn nhiều trong việc vồ lấy những chiếc bánh sandwich thịt bò Ý và bánh kẹp pho mát béo nhờn, và giờ đây những mảng lớn từ bữa trưa của anh ta đang bị lột bỏ trong cơn vội vàng, để lại cho anh ta một quả trứng nham nhở như mặt trăng sẫm màu vì cái lòng đỏ xám xịt bên trong. Cuối cùng khi anh ta ngẩng lên, nửa quả trứng vẫn còn đang nhét dở vào miệng, anh ta nhìn thấy gã hề đang đứng trong nỗi phi lý vừa sặc sỡ vừa ma quái trên ngưỡng cửa phòng mình. Mặt gã hề sơn màu đỏ tươi, với một dải màu trắng rộng viền quanh miệng. Một quả bóng màu đỏ béo mập làm bằng bọt biển gắn chặt vào mũi gã. Đầu gã là một mớ những lọn tóc hớn hở màu cà rốt, và cái nơ bướm quá khổ của gã có sọc màu đỏ trắng. Gã mang dây đeo quần và mặc quần thùng thình màu xanh. Andy, ngừng hẳn việc nhai và không thể nói được nhiều với cái miệng tọng đầy, nhìn sát hơn gã hề. Gã đang cầm một cái ba lô ở một tay, còn ở tay kia...

Tom và Andy từng có lần vướng vào một cuộc thi chửi nhau về một vụ truyền đạt sai dẫn đến bỏ lỡ một deadline quan trọng và cả hai người đều chưa bao giờ quên chuyện đó.

“Anh biết điều gì tuyệt vời ở một cái nòng giảm thanh không, Smeejack?” Tom vừa hỏi, vừa nâng khẩu súng lên. Gã bóp cò. “Nó giảm thanh,” gã nói.

“Ôi lạy Chúa tôi, ôi lạy Chúa tôi,” Amber nói đi nói lại. Cô ta đặt hai bàn tay lên cái bụng vẫn còn phẳng tẹt cùng tất cả những gì ngay lúc này đang lớn dần lên trong đó. Hai đầu gối mũm mĩm của cô ta hơi khuỵu xuống, và Larry phải vươn ra đỡ cô ta. “Amber,” anh ta nói. “Amber, chúng ta nên đi khỏi thôi. Chúng ta nên đi khỏi thôi, Amber.” Benny và Marcia nhìn nhau.

“Amber,” Benny nhắc lại, “tôi không biết chắc chắn liệu anh ta có ở trong tòa nhà hay không nữa, cô có hiểu không?”

“Ôi lạy Chúa tôi, ôi lạy Chúa tôi.”

Larry đang đỡ lấy cô ta bằng hai cánh tay. “Amber, chúng ta cứ đi khỏi đã, được không? Chúng ta không ở lại đây nữa.”

“Có lẽ cô ấy đang bị thở dồn đấy,” Benny nói.

“Benny,” Marcia nói, “Joe kìa.”

Benny nhìn dọc theo hành lang đúng lúc Joe đang đi vào phòng làm việc của anh ta ở đầu kia, gần thang máy.

“Ôi lạy Chúa tôi, ôi lạy Chúa tôi.”

Nhịp rên hoảng loạn, nhòe lẫn trong nước mắt của cô ta nghe như thể cô ta đã phải chứng kiến cảnh bạo lực không thể nào diễn tả bằng lời.

“Larry, Marcia và tôi sẽ đi thông báo cho Joe,” Benny nói, “nên anh có trách nhiệm làm cho cô ấy bình tĩnh lại đi.”

“Thế anh nghĩ tôi đang cố làm cái gì đây?” Larry hỏi. “Amber, em có nghe Benny nói không nào? Em phải bình tĩnh lại. Chúng ta sẽ sử dụng thang bộ thoát hiểm, được chứ? Chúng ta cứ đi thang bộ thôi.”

Nhưng Amber không muốn đi thang bộ. Cô ta không muốn đi thang máy vì gã đang đi lên trong thang máy. Cô ta không muốn quay vào phòng làm việc của mình vì gã sẽ đi lùng cô ta trong phòng làm việc. Để đi bất kỳ đâu cô ta cũng phải đi bộ dọc hành lang, và hành lang là nơi tồi tệ nhất trong tất cả, vừa trống trải vừa không có gì che chắn và dễ bị tóm gọn, thành ra cô ta vẫn đứng chết lặng, cố gắng không khuỵu xuống, lắp bắp mãi không thôi, “Ôi lạy Chúa tôi, ôi lạy Chúa tôi,” trong khi những giọt nước mắt cứ tự động trào ra lã chã một cách dễ dàng còn Larry thì cố gắng vỗ về cô ta, thuyết phục cô ta, đánh thức cô ta, lay chuyển cô ta - làm cách gì đó, bất kỳ cách gì, trước khi Tom Mota thò cái mặt của gã ra.

Benny và Marcia vội vã chạy tới phòng làm việc của Joe. Trong lúc họ còn phí thời gian với Amber, Joe đã lại rời khỏi phòng.

Smeejack cúi xuống nhìn chiếc áo sơ mi thắt cà vạt kiểu cổ điển của mình ở chỗ anh ta vừa bị bắn và choáng váng bởi màu đỏ tươi và tốc độ lan đi nhanh chóng của nó cũng như cảm giác đau nhói bên dưới, và một cách ngẫu nhiên nó ùa về trong anh ta, ký ức sinh động về lần đi mua chiếc áo ở cửa hàng ngoại cỡ tại Fox Valley Mali, tiếng nhạc Muzak [40] và đài phun nước róc rách, rồi bỏng ngô và cái bánh quấn thừng nóng hổi mà anh ta ăn, và anh ta không thể ngăn nổi ý nghĩ, “Bữa ăn cuối cùng của mình là một quả trứng.” Rồi thành tiếng anh ta thốt lên, “Ôi. Mẹ kiếp.” Và một mẩu nhỏ lòng đỏ trứng bắn ra khỏi miệng anh ta.

Anh ta gọi số 911 và nhận ra rằng anh ta không thể thốt lên được thành lời. Anh ta khạc mạnh quả trứng ra khỏi miệng. “Xin gửi đến một xe cấp cứu,” anh ta nói. Sau đó anh ta bắt đầu òa khóc.

Nhưng đến lúc ấy thì Tom đã đi tiếp.

Carl Garbedian đang hát. Genevieve Latko-Devine chắc chắn về điều đó. Thực ra thì chắc chắn là ai đó đang hát, và từ chỗ ngồi trong phòng làm việc của mình trên tầng sáu mươi mốt, cô tin rằng nó đang phát ra từ phòng bên cạnh - đúng, từ phòng của Carl. Hát cơ đấy! Thực sự nó giống một tiếng ư ử chẳng theo giai điệu nào thì đúng hơn, và cô đã không nhận ra nó ngay lập tức, vì toàn bộ năng lượng và tâm trí của cô còn đang mải dồn cho việc nghĩ ra những ý tưởng quảng cáo nước uống chứa caffein. Nhưng đến một lúc thì tiếng vo ve đó cũng chạm đến giới hạn vành ngoài radar của cô, và cô nghĩ bụng, “Chẳng lẽ là Carl đang hát?” Thế là cô đứng lên khỏi bàn làm việc của mình, đi ra hành lang, và rón rén dọc theo đoạn tường có vài bước chân ngăn giữa cửa phòng cô và cửa phòng Carl, và không lẫn vào đâu được, anh ta đang hát. Anh ta có một giọng hát buồn tẻ, nhàn nhạt, cả nửa lời hát xa lạ đối với anh ta, và anh ta cứ lặp đi lặp lại cùng một đoạn hết lần này đến lần khác - nhưng đó quả thực là một bài hát:

“ He got himself a homemade special

Something something full of sand

And it feels just like a something

The way it fits into his hand ...” [41]

Carl Garbedian đang hát! Sáng ra thì anh ta chào hỏi, tối đến anh ta chào tạm biệt, còn bây giờ lúc giữa buổi thì anh ta lại đang hát. Mà lại không phải tiếng gào the thé điếc tai điên loạn trào ra một cách tự phát trong những ngày anh ta phê lòi vì tọng thuốc của Janine Gorjanc. Không, đây đúng là kiểu hát yêu-đời-thiết-tha, ngâm-nga-cho-hết-giờ thông thường. Cô nghĩ màn biểu diễn ngập tràn sức sống đáng ngạc nhiên này có thể có gì đó liên quan đến khả năng là Carl và vợ anh ta đang làm lành. Giá kể Carl mà biết cái trò hát hò giản dị này của anh ta làm cô sung sướng đến mức nào! Cô sẽ không làm điều gì ngu ngốc như xen ngang vào và giải thích - điều đó sẽ chỉ phá hỏng giây phút này, và khiến cả hai đều cảm thấy khó xử. Nhưng giá kể cô có thể truyền đạt tới anh ta rằng việc anh ta hát là chút nhấn nhá giản dị cho một điều cốt yếu, mà thường ngày chẳng thấy tăm hơi đâu - rằng việc anh ta hát đối với cô chẳng khác gì việc Marcia cắt tóc đối với anh ta - lẽ ra anh ta có thể tổ chức một cuộc thi tài năng và biểu diễn một số màn trong vở nhạc kịch A Chorus Line với một chiếc mũ chóp cao dát vàng và cây ba toong.

Thực sự là bài hát cứ đọng lại trong đầu Carl, và động cơ để cất tiếng hát hoàn toàn là không chủ ý. Công việc mà anh ta có trước mặt mình, vụ làm ăn mới thực ra thì cũng chỉ vẫn thế mà thôi. Không phải thứ có thể khiến anh ta hưng phấn đến nỗi phải cất tiếng hát. Và những diễn biến gần đây với Marilynn, kể ra thì cũng tích cực, nhưng hai người bọn họ vẫn còn phải đi một chặng đường dài - cô ta vẫn còn nghe điện thoại khi họ nói lời tạm biệt, và anh ta thì vẫn còn đang sống một mình trong căn nhà ngoại ô mà họ đã không đủ tiền thuê suốt mấy tháng trời. Thuốc thang đang có tác dụng, không phải nghi ngờ về điều đó, nhưng cuộc sống của anh ta dường như vẫn trống rỗng, ít nhất là khi anh ta so sánh nó với cuộc sống của vợ, và anh ta vẫn còn băn khoăn làm thế nào mà con người ta có thể đã ba mươi sáu tuổi mà vẫn không biết phải làm gì với cuộc đời mình. Như thế không có nghĩa là anh ta, nói chặt chẽ ra, không ở trong tâm trạng thích hát hò. Bởi vì quả là anh ta có một điều nho nhỏ để mơ màng nghĩ đến, khi anh ta ngồi đó làm việc một cách tỉ mẩn và chẳng có gì vui thú với cái nhiệm vụ chán ngắt hơi đau đầu là giành được thương vụ mới.

“Sao không bỏ đi?” Tom Mota đã hỏi anh ta trong một bức email gửi từ sớm hôm đó. “Tôi dám chắc cậu đã có ý nghĩ đó cả triệu lần, và có lẽ cũng đã tự trả lời với cả triệu lý do tốt đẹp tại sao không. Tôi có thể đoán một số được chứ? Cậu không có chuyên môn nào khác. Cậu đã để quá nhiều năm tháng trôi qua nên không thể bắt đầu một nghề mới hoặc quay lại trường học. Và làm sao cậu có thể để vợ mình là người kiếm cơm chính trong nhà? Vân vân và vân vân. Nhưng tôi có câu trả lời cho cậu đây! (Hai tuần sau khi bị Lynn Mason đá đít vậy mà tôi vẫn không đỡ được kiểu nói như một thằng quảng cáo khốn kiếp.) Quay lại chủ đề chính, một hôm tôi mới ngồi ngẫm nghĩ, tôi sẽ làm gì với mình đây? Tôi có gì chứ? Tôi chẳng có vợ. Tôi không có con. Tôi có một cái ngõ cụt, nhàm chán, nhợt nhạt, xun xoe, trì độn đến đờ người! Thậm chí còn không có cả việc làm nữa, đứng không nào? Vài đồng bạc còn lại từ việc bán nhà - thế thôi. Khi hết chỗ đó, tôi sẽ làm gì? Tìm một công việc khác về quảng cáo chăng? Thứ nhất nhé, trong tình cảnh việc làm hiện tại thì không. Thứ hai nhé, ĐẾCH CÓ ĐÂU, KIẾP NÀY THÌ ĐỪNG HÒNG! Vậy tôi đang định nói gì à? Tôi sẽ cho cậu biết tôi định nói gì. Tôi đang định bắt đầu cơ sở thiết kế phong cảnh của riêng mình. Và tôi muốn cậu, Carl ạ, tham gia cùng tôi. Tôi nghĩ chút giao cảm với thiên nhiên, cho dù chỉ là mấy cái thảm cỏ chết tiệt của cánh dân ngoại thành, và những hình tem bưu phẩm màu xanh thảm hại trong các công viên công nghiệp của Hoffman Estates hoặc Elk Grove Village, tôi nghĩ có thể đó chính là những gì còn thiếu trong đời cậu, Carl - những gì cậu thiếu mà không hề biết là mình thiếu. Nghĩ về nó đi. Mặt trời ở trên gáy cậu. Vị nước mát lạnh sau khi cậu đã làm lụng đến khát chết thôi. Niềm sung sướng của một thảm cỏ được tỉa tót tử tế. Và giấc ngủ cậu sẽ tận hưởng khi mỗi khớp xương và cơ bắp trong cơ thể cậu đã bị quần cho mệt lử. Tôi định đến văn phòng cuối ngày hôm nay để nói chuyện với Joe Pope. Tôi sẽ qua phòng cậu. NGHĨ VỀ NÓ ĐI. Chúc yên bình, Tom.”

Sau khi đã quả quyết rằng đúng là Carl Garbedian đang hát thật, Genevieve rón rén rời khỏi cửa phòng anh ta và bước về phía nhà bếp. Trong các ngăn tủ chạn chúng tôi có cơ man nào là các loại đồ bột không calo đóng gói riêng rẽ đặt cạnh những cốc súp ăn liền và túi giấy bạc đựng bột cà phê, và tất cả những gì ta phải làm để có một chầu punch hoa quả là thêm nước lạnh từ bình vào. Trên đường về dọc hành lang, cô đi qua một người đàn ông ăn mặc như một tên hề. Cô cố gắng không nhìn. Đó chắc hẳn là người được thuê chuyển một bức điện hát hoặc một dịch vụ chuyên môn nào đó và có lẽ anh ta đã chán ngấy bị nhìn chòng chọc trong các tòa nhà công sở. “Genevieve,” tên hề nói khi hắn đi qua, như thể hắn đang ngả mũ chào cô trên một con phố bụi bặm của miền Viễn Tây. Câu chào khiến cô giật bắn mình, đứng khựng, quay ngoắt người lại. Tên hề tiếp tục bước mà không hề có một lời giải thích hoặc thậm chí là một cái liếc mắt trở lại. “Ai đấy?” cô hỏi. Nhưng dù đó có là ai thì gã cũng không trả lời, và gã đi vào phòng làm việc của Carl Garbedian mà không thèm gõ cửa lấy một tiếng.

Khi Benny và Marcia bước vào phòng Joe và phát hiện ra là anh ta không có trong đó, Marcia, người chưa hề rời bên Benny kể từ lúc anh ta giơ tay ra nắm lấy tay cô, nhìn anh ta và hỏi, “Bây giờ thì chúng ta làm gì đây?”

Anh ta không có câu trả lời tức thì. “Chúng ta thậm chí còn không biết là Tom có ở trong tòa nhà hay không nữa,” anh ta nói. “Có thể hoàn toàn chỉ là chúng ta đang phóng đại lên thôi. Roland cũng chẳng phải là người sắc sảo gì.”

“Nhưng nếu nhỡ đúng anh ta ở đây thì sao?”

“Nếu nhỡ?” Benny nói. “Có thể anh ta chỉ đến chào tôi.”

“Nếu nhỡ không phải?” Marcia nói.

Bỗng nhiên biến đâu mất tiêu cái kiểu cáu kỉnh, cộc cằn, vênh váo của cô, kiểu cô nói xổ thẳng cách nhìn của mình về mọi việc mà không thèm hạ giọng hay đếm xỉa gì đến cảm giác của người khác. Thay cho tất cả những cái đó lúc này trong phòng làm việc của Joe là một người nhỏ bé hơn rất nhiều - một người năm mươi cân, với cần cổ rất mảnh dẻ và nhợt nhạt, cùng đôi mắt Ireland sáng ngời, hoảng lây vì phản ứng cuồng loạn của Amber. Và giờ đây cô đang cầu xin anh ta, Benny Shassburger, gã Do Thái mặt non choẹt và hơi béo phì đến từ Skokie, người mà, bất kể mối hiểm họa lịch sử được lưu trữ rất đầy đủ đối với dân tộc Do Thái, đã lớn lên ở khu ngoại ô Tây Bắc của Chicago chẳng biết đến nỗi nguy hiểm nào lớn hơn một quả bóng chày bay lạc vào đầu anh ta trong một trận đấu thuộc giải học sinh. Marcia Dwyer, người mới hôm qua còn cười nhạo anh ta vì không biết sự khác nhau giữa một chiếc cờ lê Allen và một chiếc cờ lê tròng. Marcia, người anh ta phải lòng đến điên cuồng. Cô đang cầu xin anh ta chèo lái. Làm gì đó đi! Cứu lấy những mạng sống, nếu những mạng sống cần được cứu! Hãy đưa em đến chỗ an toàn! Anh ta gần như đổ quỵ dưới sức nặng của nó. Nhưng rồi anh ta cũng gượng đứng lên đối mặt với hoàn cảnh. Chợt nhớ ra là họ đang đứng trong phòng làm việc của Joe, và mối hằn học giữa Joe và Tom dạo trước, anh ta nói, “Chúng ta rời khỏi căn phòng này, đó là việc đầu tiên chúng ta làm.”

Khi họ rời đi, trong một giây ngắn ngủi, giữa mớ lộn xộn và hoảng sợ, anh ta cảm thấy thật phổng mũi. Tình yêu của mình Marcia, trông cậy vào sự chèo lái của mình!

Trong khoảnh khắc tiếp theo, nỗi sợ hãi lạnh người lôi anh ta ra khỏi tâm trạng đó. Cửa cái thang máy đối diện với họ đột nhiên bật mở toang.

Hóa ra chỉ là bác Roland ngẩn ngơ bò lạc, cuối cùng cũng lê mông từ tầng trệt lên.

“Các cậu đã trông thấy anh ta chưa?”

“Bác còn không chắc chắn đó là anh ta!” Benny thốt lên.

“Tôi biết,” Roland nói, “tôi biết.” Bác ta lắc đầu, vô cùng thất vọng với bản thân mình. “Nhưng Mike muốn tất cả mọi người sơ tán bất kể thế nào,” bác ta nói, “chỉ là để đề phòng cho chắc thôi. Anh ta bảo tôi nói với mọi người đi lối thang bộ thoát hiểm.”

“Tại sao không phải là thang máy?” Benny hỏi.

“Vì Mike bảo thế,” Roland nói.

Thế là Benny và Marcia vội vã chạy tới thang bộ thoát hiểm. Khi họ bắt đầu bước xuống cầu thang lạnh lẽo và vang vọng, Benny không khỏi nghĩ bụng - hệt như anh ta không khỏi cảm thấy phổng mũi trong phòng làm việc của Joe khi cô quay sang anh ta tìm sự giúp đỡ - rằng thế này cũng thật lãng mạn theo một cách rất riêng. Đi cầu thang với Marcia, tim đập dồn dập, cùng nhau chạy trốn thần Chết. Anh ta phải cố gắng ngăn mình không quay sang cô trên một trong những chiếu nghỉ và chụp lấy cả hai cánh tay thon thả như chân nai của cô để tuyên bố tình yêu anh ta dành cho cô. Như thế hẳn sẽ là một thời điểm không thích hợp chút nào, và khả năng phần nhiều cô sẽ trả lời không phải bằng câu, “Anh thích em sao, Benny?” mà là “Anh có bị thần kinh không vậy, đi nói với tôi đúng lúc này?” Tốt hơn là nói với cô sau khi tất cả chuyện này đã qua đi, điều anh ta tự hứa với mình là sẽ làm. Cuối cùng anh ta sẽ thu đủ dũng khí. Toàn bộ cái trò về việc Marcia không phải là người Do Thái, thực ra cũng chỉ là để bảo vệ anh ta khỏi nỗi ê chề bị cự tuyệt nếu như hóa ra Marcia không hề cảm thấy giống thế. Chỉ cần Marcia chịu đồng ý nuôi dạy bọn trẻ con theo kiểu Do Thái, anh ta thực sự đếch thèm đếm xỉa gì bà cô Rachel đang ở khu định cư Bờ Tây nghĩ gì về sự bội giáo của anh ta.

Họ đi cầu thang một cách khẩn trương. Họ không nói gì, nhưng vẫn thật dễ chịu khi được là người đi kèm cô ra khỏi tòa nhà. Anh ta sung sướng vì đó là mình chứ không phải bất kỳ ai khác, và điều duy nhất có thể làm mọi chuyện tuyệt vời hơn là giá kể anh ta có đủ gan để nắm lấy tay cô. Nhưng đó cũng chính là cái gan mà anh ta cần để thú nhận tình cảm của mình, một cái gan mà hình như anh ta không có. Gan, anh ta thầm nghĩ - và điều tiếp theo anh ta nhận ra, anh ta sững người vì một ý nghĩ không hề thích hợp chẳng khác gì thú nhận tình yêu của mình: khi tất cả chuyện này đã xong xuôi đâu vào đấy, liệu cô có nghĩ rằng anh ta là một kẻ hèn nhát vì đã bỏ chạy cùng cô xuống cầu thang, trong khi điều lẽ ra anh ta phải làm là ở lại cùng với Roland và thông báo cho những người khác sơ tán? Ngay lúc đó anh ta không muốn gì hơn là chia sẻ trải nghiệm thoát ra khỏi tòa nhà cùng Marcia. Cặp đôi nào có thể nói là họ đã làm điều đó cùng nhau? Nhưng liệu nó có quan trọng hơn việc để cho cô biết rằng anh ta không phải là một kẻ hèn nhát? Anh ta thậm chí còn hối tiếc ý nghĩ tiếp theo của mình hơn thế: nói tóm lại , chẳng phải việc không là một kẻ hèn nhát còn quan trọng hơn cả việc chạy thoát khỏi tòa nhà hay sao? Không hề cân nhắc đến nhiệm vụ hay câu hỏi về lòng can đảm của mình, anh ta đã làm theo hướng dẫn của Roland từ Mike Boroshansky và hộc tốc lao ra khỏi cánh cửa xám nặng trịch. Liệu làm như thế có phải là đúng đắn không? Bỏ mặc số phận của mọi người trong tay Roland - đó là một việc làm đầy rủi ro. Bất thình lình ý nghĩ cuối cùng, ít thích hợp nhất trong tất cả ập đến với anh ta, và anh ta hoàn toàn quên bẵng Marcia. Chụp lấy tay vịn cầu thang để chặn đà lao đi của mình, anh ta đứng sững lại đột ngột ngay giữa một nhịp cầu thang. Marcia đi tận bậc dưới cùng trước khi quay người lại, và trên khoảng chiếu nghỉ giữa tầng bốn mươi tám và tầng bốn mươi bảy, cô ngước lên nhìn và nhận ra anh ta đã dừng lại, và nét mặt anh ta đầy vẻ lặng lẽ lẫn bối rối. “Anh quên gì à?” cô hỏi. Anh ta vẫn đứng đó, không nhìn cô, nhưng cũng không phải là không nhìn cô, trân trân nhìn một cách vô định bằng đôi mắt đờ đẫn và ngơ ngẩn. Cuối cùng anh ta cũng sực tỉnh lại đúng lúc tiếng bước chân bỏ chạy của những người khác bắt đầu vọng xuống chỗ họ.

“Jim,” anh ta nói.

Cuối cùng thì Larry cũng dỗ dành được Amber vào phòng để máy chủ trên tầng sáu mươi, cái chốn ấy giống một cái tủ lạnh bước vào được thì đúng hơn. Căn phòng nhỏ sáng sủa, được che chắn cẩn thận và duy trì ở một nhiệt độ ổn định để những máy móc tinh vi không bị quá nóng. Larry và Amber đi về cuối phòng và trốn sau cái giá kim loại màu đen kê đỡ thiết bị, trong khi Larry cố gắng trấn tĩnh những giọt nước mắt hổn hển của cô ta bằng cách vỗ về, “Suỵt.” “Suỵt,” anh ta nói đi nói lại, trong lúc cô ta vẫn bíu chặt lấy anh ta trong tư thế vặn vẹo như sắp đổ đến nơi ở góc trong cùng phía sau những đống dây điện to tướng đùn ra từ các máy chủ đặt cách đều nhau đang chạy rì rì như những chiếc quạt trên giá kê. “Suỵt,” anh ta nói, trong khi cô ta vùi mặt vào ngực anh ta và khóc một cách lặng lẽ nhất có thể, thổn thức trong vòng tay anh ta với những cơn sóng dữ dội của nỗi khiếp đảm không thể nào kiềm chế, cho đến khi chiếc áo phông của anh ta ướt sũng nước mắt của cô ta đến nỗi anh ta cảm thấy chúng mát lạnh trên da mình trong không khí vốn đã lạnh sẵn. “Suỵt,” anh ta nói, ngay cả khi một ý nghĩ đầy hy vọng và hiểm độc len lỏi trong anh ta, tội lỗi và độc địa như một điều ước xấu xa trong câu chuyện cổ tích báo trước kết cục bi thảm: thay vì giết họ, rất có thể Tom Mota lại đang thực sự cứu rỗi cuộc đời Larry bằng cách làm tổn thương Amber ghê gớm đến nỗi khiến cô ta bị sảy thai. Chẳng phải như thế sẽ là một bước xoay chuyển tuyệt vời sao. Vì nếu chấn động này không đủ để rũ cho họ khỏi vấn đề hiện tại, và nếu như cô ta ngả theo cái hướng tai hại kia, mà càng ngày càng có nhiều khả năng là thế - mà nói thẳng toẹt, nếu đứa trẻ này không biến mất, Larry Novotny chỉ còn nước đi mà mở toang cửa ra và hú gọi Tom bất kể gã đang ở đâu thì cũng xin đến mà vãi đạn súng tự động vào họ vì đời anh ta thế là xong rồi. Xong. Bản thân vợ anh ta cũng vừa mới sinh con trước đó có hơn một năm, và cuộc hôn nhân của họ còn quá mong manh, quá non nớt, quá đủ trục trặc để có thể chịu đựng cảnh vỡ lở của một sự không chung thủy, thậm chí là cả một ngày làm việc nhỏ mọn không ý nghĩa gì, Susanna, thề có Chúa, nó chẳng có ý nghĩa gì hết. “Suỵt,” anh ta nhắc đi nhắc lại, vì mỗi lúc anh ta càng trở nên tức giận với Amber và cái trò khóc lóc của cô ta. Cô ta lúc nào cũng tập trung đến những khủng hoảng đang xảy ra ở tận đẩu tận đâu, trong khi chẳng để tâm gì đến cái (tế bào) đang phát triển và phân chia, phân chia và phát triển ngay chính trong cơ thể mình, cơ thể của người phụ nữ mà anh ta từng vô cùng thèm khát nhưng giờ đã chuyển sang hơi căm ghét, người phụ nữ anh ta ôm trong tay trong khi cô ta khóc lóc và run rẩy như một đứa trẻ nhưng chỉ đến mức độ một người lớn có thể run rẩy, hoàn toàn ý thức được những khả năng của bạo lực và cái chết. “Suỵt,” anh ta nói, trong khi điều anh ta muốn nói lại là, “Nghe này, anh thực sự cần em nói với anh một lần cho xong là em sẽ bỏ cái thai này.” Bởi vì nếu như cô ta muốn tránh cảnh máu me giết chóc, nếu cô ta có tí mảy may quan tâm đến việc hạn chế sự hủy diệt, cô ta sẽ làm gì đó với những tế bào đang kích hoạt và những cơ quan đang trưởng thành ngay kia bên trong cô ta - nếu không cuộc hôn nhân của anh ta sẽ thành một mớ giẻ rách khốn khổ khốn nạn. “Suỵt,” anh ta nói, và lần này anh ta nói thêm, “Amber, suỵt. Tại sao em lại hoảng loạn đến thế hả?” Cô ta nhấc đầu ra khỏi ngực anh ta và nhìn thẳng vào anh ta. Viền mũi trong của cô ta ửng đỏ còn hai má thì ướt nhoét và sưng húp híp. “Vì em sợ,” cô ta thì thào không ra hơi giữa những cơn thổn thức. “Nhưng chúng ta thậm chí còn không biết là gã có ở ngoài kia không cơ mà.” “Em không hề sợ cho em ,” cô ta nói. “Chúng ta có thể ngừng nói chuyện được không?” Nhưng anh ta không muốn ngừng nói chuyện. “Vậy em sợ cho ai?” anh ta hỏi, với một nỗi lo lắng len lỏi. “Anh à?” anh ta ướm hỏi. “Em sợ cho anh à?” Cô ta lại gục đầu vào ngực anh ta và tiếp tục run rẩy. “Lynn Mason chăng?” anh ta hỏi. Cô ta không trả lời. Anh ta lướt tiếp xuống danh sách. Chẳng lẽ là Marcia? Benny? Joe Pope? Làm sao mà bất kỳ ai trong số họ có thể là nguyên nhân của nỗi xúc động nhường này?

Và rồi anh ta chợt sáng mắt. Cái ngày cô ta quyết định giữ đứa trẻ lại đã đến rồi đi mà anh ta không hề hay biết. Những giọt nước mắt của cô ta là những giọt nước mắt của một người mẹ, nỗi sợ hãi của cô ta là nỗi sợ hãi của một người mẹ.

Tom bước vào phòng làm việc của Carl Garbedian chẳng thèm gõ cửa và ngồi xuống trước mặt anh ta. Gã chằm chằm nhìn Carl không nói một lời, khoái trá cười tự mãn trước vẻ bối rối trên mặt Carl khi bỗng nhiên nhìn thấy một chú hề, gã quyết định không nói gì cho đến khi anh ta lên tiếng. Carl chăm chú nhìn, rồi nhìn gần hơn. “Tom?” anh ta nói.

“Cậu đoán đúng rồi đấy,” Tom nói.

Carl ngả người ra sau ghế một cách đề phòng và săm soi toàn bộ vẻ bề ngoài của Tom với ánh mắt dè dặt và ngờ vực. “Tom, tại sao cậu lại ăn mặc thế kia?” anh ta hỏi với vẻ can đảm bình thản.

“Carl, trong tất cả mọi người, tôi cứ tưởng cậu sẽ nhìn thấy sự hài hước trong này,” Tom nói. “Tại sao cậu lại không cười? Tại sao ngay lúc này cậu lại không cười vãi cả ra quần nhỉ?”

Nếu đúng lúc đó Carl có muốn vãi cả ra quần, thì nguyên nhân có lẽ cũng không phải vì buồn cười.

“Cậu không thấy buồn cười à?” Tom hỏi. “Tôi quay lại đây ăn mặc như một thằng hề! Đây là chuyến về nhà của tôi, và hãy nhìn tôi xem! Tôi cứ tưởng cậu sẽ thấy buồn cười cơ đấy, Carl.”

Carl cố rặn ra một thứ giống như một nụ cười và đồng ý với Tom rằng đúng là buồn cười thật. “Chỉ là do thuốc thôi,” anh ta nói thêm, nhân tiện giải thích vụ buồn cười bị chậm trễ. “Chúng thường khiến tôi thấy oải.”

Tom ngoảnh mặt đi trong nỗi thất vọng toàn tập. Gã quay lại và hỏi, với giọng oán hận và tức tối, “Chẳng lẽ ở đây không còn ai có khiếu hài hước nữa à?” Một lần nữa gã thấy bị xúc phạm vì sự thiếu cá tính của chúng tôi. “ ‘TOM, CẬU ĐẤY À, TOM? CẬU ĐẾN BẮN TUNG ĐÍT TẤT CẢ BỌN TỚ TRONG BỘ ĐỒ THẰNG HỀ À, TOM?’ Chẳng lẽ đó là tất cả những gì tôi nhận được từ các cậu? Tại sao các cậu nhìn thấy tôi ăn mặc như thế này mà lại tỏ ra nghiêm trọng chết cha thế hả?”

“Bởi vì những chú hề kể cũng đáng sợ, tôi đoán thế,” Carl dè dặt. “Ít nhất là với tôi. Và đặc biệt là khi cậu không biết tại sao người kia lại ăn mặc như thế.”

“Hừm, có thể là tôi kiếm được cho mình công việc là một thằng hề,” Tom vừa nói vừa trợn to mắt cho lòng trắng thực sự lồi hẳn ra giữa nền hóa trang màu đỏ. “Có bao giờ nghĩ vậy chưa?”

“Thật thế à?” Carl hỏi với vẻ hy vọng.

Anh ta muốn gọi cho vợ mình. Ngay khoảnh khắc tên hề bước vào và ngồi xuống Carl đã biết có chuyện không ổn và muốn có cơ hội được nói chuyện với Marilynn một lần cuối cùng. Cô mới tốt biết bao. Cô có công việc rất khó khăn. Cô đã yêu anh ta rất nhiều.

Tom đặt cái ba lô của mình xuống chiếc ghế bên cạnh và chồm người về phía trước, đan những ngón tay vào nhau và đặt hai bàn tay nắm lại trên cạnh bàn của Carl. “Để tôi hỏi cậu một câu hỏi nghiêm túc nhé, Carl, và cậu phải trung thực với tôi, được chứ? Cậu nói thật với tôi. Lũ chó chết các cậu nghĩ tôi quay lại đây để tập bắn bia, đúng không? Nói thật - tất cả mọi người đều dự đoán như thế, đúng không?”

Mụ mẫm, và miễn cưỡng phải nói ra bất kỳ điều gì, Carl không biết đưa ra câu trả lời khôn ngoan nào.

“Hãy trả lời câu hỏi đi, Carl. Câu hỏi đơn giản mà.”

“Ừm,” Carl bắt đầu, “một vài người...”

“Tôi biết mà!” Tom rít lên, nhảy dựng ra khỏi ghế và chồm chồm trên bàn Carl. “Tôi biết tỏng đi chứ!” Gã chỉ vào Carl như thể Carl là người phát ngôn cho tất cả lũ chó chết trên thế gian này.

“Cậu không để tôi nói nốt đã,” Carl nói.

“Lũ chó chết các cậu thực sự nghĩ rằng tôi sẽ quay lại đây để bắn tan xác mọi người,” Tom nói, lắc những lọn tóc màu cam của gã trong nỗi thất vọng tột cùng rất kịch và giận dữ đập ba phát xuống bàn Carl. “Không thể tin được.”

“ Thế tại sao cậu quay lại đây, Tom - đó có phải là một câu hỏi công bằng không? Và tại sao lại là bộ quần áo hề?”

Tom lại ngồi xuống và buông một tiếng phịch ít dữ dằn hơn trên ghế của gã. Carl thấy biết ơn vì điều đó. Từ lúc bước vào, Tom đã có vẻ hung tợn lắm rồi. “Tôi sẽ nói cho cậu biết tại sao tôi quay lại đây,” gã nói. “Tôi đến để mời Joe Pope đi ăn trưa, đó là lý do. Đúng thế - Joe. Nhưng rồi thì ý tưởng này chợt đến với tôi, và dường như nó tự có sức sống riêng. Thế là bây giờ tôi ăn mặc như một thằng hề. Tại sao? Tôi sẽ cho cậu biết tại sao tôi ăn mặc như một thằng hề,” gã vừa nói vừa cúi người xuống và kéo khóa chiếc ba lô của mình, từ đó gã lôi ra khẩu súng.

Carl hốt hoảng lùi ghế lại, một mạch đến sát tường, và giơ hai bàn tay ướt nhẹp của anh ta lên trời. “Kìa, Tom,” anh ta nói, trong khi nước mắt trào ra theo bản năng.

Anh ta khát khao được nói chuyện với vợ mình. Anh ta chợt nhớ đến quãng đời xa xăm, hư ảo đó khi anh ta đứng ở cửa hàng cầm đồ sờ nắn một khẩu Luger. Anh ta nhớ đến tất cả những viên thuốc anh ta đã tích trữ, và quãng thời gian anh ta ngồi trong ga ra với chìa khóa trong ổ điện, khăn vải nhét kín tất cả những khoảng hở mà khí xả có thể thoát ra, như thế để một khi anh ta có đủ can đảm khởi động động cơ, mọi chuyện thế là xong. Người đó là ai nhỉ? Không phải anh ta, không còn nữa. Anh ta muốn được sống! Anh ta muốn làm phong cảnh ! Và hơn bất kỳ điều gì khác anh ta muốn gọi cho vợ mình.

“Ồ, hạ tay xuống đi, Carl,” Tom nói. “Tôi có định bắn cậu đâu, đồ chết giẫm.”

“Tôi tưởng cậu muốn mở một công ty thiết kế phong cảnh,” Carl nói. “Tôi đã suy nghĩ về nó suốt cả buổi sáng. Mặt trời trên gáy tôi, cậu nhớ chứ? Cậu và tôi - tôi có thể xoay được một ít tiền, tôi thích ý tưởng đó. Tại sao cậu lại muốn làm điều gì đó ngu xuẩn?” Anh ta nổ một tràng không kịp suy nghĩ, hy vọng nói được điều đúng đắn.

“Nghe tôi này, Carl,” Tom nói. “Carl, câm đi! Nghe tôi này. Tôi ăn mặc như một thằng hề vì tất cả lũ chó chết các cậu trong cái văn phòng này lúc này hay lúc khác đều nghĩ rằng Tom Mota chẳng qua chỉ là một thằng hề, tôi nói có đúng không? Hãy thành thật với tôi đi, Carl. Tôi nói có đúng không?”

“Thành thật mà nói với cậu, Tom, rất khó để mà thành thật với cậu khi cậu có một khẩu súng chĩa vào tôi.”

“Tôi có định bắn cậu đâu, Carl! Hãy thành thật đi. Tất cả mọi người đều nghĩ tôi là một thằng hề, có đúng không?”

“Tôi nghĩ,” Carl bắt đầu, cố gắng thở, để kiềm chế nỗi sợ hãi của mình, để tính toán xem hành động nào anh ta có thể cần phải thực hiện. “Tôi nghĩ mọi người đều biết cậu đã trải qua một thời gian khó khăn, Tom... và có thể cậu… cậu không cư xử như con người bình thường của mình. Tôi nghĩ đó là...”

“Nói cách khác,” Tom nói, “một thằng hề.”

“Tôi chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ ai sử dụng cái từ đó cả,” Carl trả lời, anh ta vẫn còn giơ hai tay.

“Carl, cậu làm ơn thư giãn đi được không, lạy Chúa. Có phải là súng thật đâu. Chẳng lẽ không ai biết sự khác nhau à? Đây này, nhìn nhé...”

Tom chĩa khẩu súng vào một góc phòng và bóp cò. Toẹt! viên đạn phụt ra, và một đám tung tóe sơn đỏ phủ lên góc tường thành một vệt như trong truyện tranh. Carl tròn mắt sững sờ, nhưng vẫn nhất quyết không bỏ tay xuống. Áo sơ mi của anh ta lấm tấm những vết đỏ bắn ra từ viên đạn. Anh ta quay lại nhìn Tom.

“Cậu có bị điên không vậy?” anh ta hỏi.

“Không, tôi là một thằng hề,” Tom nói. “Và cậu biết những thằng hề thì làm gì rồi chứ, đúng không, Carl?”

“Không, đồ điên rồ chết tiệt!”

“Cẩn thận đấy, Carl,” Tom vừa nói, vừa ra hiệu bằng súng về phía chiếc ba lô trên cái ghế cạnh gã. “Tôi có thể có một khẩu thật ở trong đó đấy.”

“Hề thì làm gì?” Carl hỏi, ôn hòa hơn một chút.

Tom nhệch miệng thành một cái cau mặt đầy vẻ ti tiện và nhướng mày lên để hoàn thành nốt bức chân dung u uất. “Trong thâm tâm bọn tôi là những sinh vật buồn bã vô cùng, hề bọn tôi ấy mà,” Tom nói. “Sa cơ lỡ vận và chất chứa toàn phiền muộn. Vì thế để tự làm cho mình cảm thấy dễ chịu hơn...” mặt Tom bỗng nở bừng thành một nụ cười như bông hoa rút ra từ tay áo - “bọn tôi chơi khăm!”

Joe cần một đồng xu. Anh ta đã chắc mẩm rằng khi rời khỏi phòng anh ta đã có đủ mọi đồng xu cần thiết để kiếm một lon soda từ máy bán nhưng hóa ra anh ta thiếu một xu nên phải quay về. Anh ta lấy nó từ cái ca nơi anh ta vẫn giữ tiền lẻ và lại rời khỏi phòng, nhận ra Benny cùng với Marcia rồi Amber và Larry trong hành lang mải mê với vở kịch mới mẻ nào đó, chứ không hẳn là làm việc để giành vụ làm ăn mới. Cửa thang máy vẫn chưa đóng lại và anh ta chạy vội để bắt kịp. Nếu anh ta mà chần chừ ở hành lang để suy đoán tại sao tất cả họ lại đang ở trong tình trạng kích động đến thế, hẳn bọn họ sẽ thầm buộc tội anh ta là chọc ngoáy họ từ xa, và đó là một lời buộc tội cũ rích - mặc dù lần này thì đúng là thế thật. Bởi vì lạy Chúa, chẳng lẽ họ không hiểu sao? Chúng ta phải giành được hợp đồng mới!

Anh ta quay lại căng tin trên tầng năm mươi chín để mua lon soda cho mình và đang định bỏ đi thì chợt nhìn thấy Lynn ngồi ở phía trong tại một trong những chiếc bàn tròn dưới ánh đèn huỳnh quang sáng đến chói mắt. “Chị đang làm gì dưới này vậy?” anh ta vừa hỏi vừa lại gần chị. Chị ngồi một mình và, bất chấp tất cả những tiếng động anh ta đã tạo ra, tiếng thả tiền xu và chiếc lon rơi ra, dường như chị mới chỉ vừa nhận ra anh ta lần đầu tiên.

Chị nhìn anh ta bước lại gần, hai ngón tay đặt trên thái dương.

Anh ta đặt chiếc lon lên bàn. Chị đá một chiếc ghế ra cho anh ta. Anh ta ngồi xuống và mở lon, thứ đồ uống đó xì xì và phun trào và anh ta cúi người xuống để húp lấy dòng soda đang rít xèo xèo trước khi nó tràn ra ngoài.

Họ ngồi trong yên lặng. Sau đó chị lại nói với anh ta về những chuyện họ đã đề cập đến ngày hôm qua khi Genevieve đã ra khỏi phòng - hội viên nào sẽ giám sát nỗ lực giành hợp đồng mới, và những cách thức mà theo đó anh ta, Joe, sẽ cần phải tăng cường và gánh vác nhiều trách nhiệm hơn.

“Tôi hỏi chị một câu được không?” anh ta nói.

“Tất nhiên.”

“Hôm qua tại sao chị lại nói dối về chuyện đó với Genevieve, và rồi lại nói thật với tôi sau khi cô ấy đi khỏi?”

Chị nhấc hai ngón tay của mình ra khỏi thái dương và biến chúng thành một kiểu nhún vai rồi quay chúng trở lại thái dương mình. “Tôi chỉ không muốn họ biết về chuyện đó cho đến giây cuối cùng có thể được,” chị trả lời. “Tôi muốn ở trong bệnh viện dưới tác dụng của thuốc mê trước khi họ bắt đầu bàn tán.”

Anh ta gật đầu. “Có thể hiểu được.”

“Và tôi biết tôi có thể tin tưởng cậu sẽ giữ kín cho riêng mình.”

Họ ngồi trong yên lặng, âm thanh duy nhất là tiếng rì rì mát lạnh từ chiếc máy bán hàng ở phía xa.