← Quay lại trang sách

- II -

HƯ VÔ VÀ THỰC TẠI

Vô vi nhi vô bất vi của đạo Lão chính là thứ hành động vô trụ, vô cầu, hồn nhiên thanh thản của Thiền.

Hư vô đâu có xa thực tại!

Câu chuyện vui sau đây như một gạch nối giữa hư-vô với thực tại:

Sekkyo tiên sinh nói với một tu sĩ môn đệ:

- "Ngươi có thể hứng giữ hư-vô được chăng?"

Tu sĩ đáp:

- "Dạ để đệ tử xin thử." Đoạn chụm hai tay lại thành hình chiếc ly để giữ hư vô của khoảng không.

Sekkyo tiên-sinh: "Không được tốt lắm, ngươi chẳng hứng giữ được chi trong đó."

Tu sĩ thưa: "Vậy xin sư-phụ chỉ giáo cho cách nào khá hơn."

Tiên-sinh bèn nắm chặt lấy mũi người môn đệ và thắng cánh giựt mạnh một cái.

Tiếng người môn đệ thét lên: "Ôi chao, đau quá sư-phụ ơi!"

"Đó là cách nắm giữ lấy hư-vô đó con ạ!"

oOo

Thiền-sư Tozan đương cân vải gai thì một môn đệ tới hỏi:

"Thưa sư-phụ thế nào là Phật?"

Tozan tiên-sinh liền đáp:

"Là một kí rưỡi vải gai đây!"

Đúng là "Phật-pháp bất ly thế gian pháp" của Thiền!

oOo

Trong khi Thiền-sư Bankei thủ thì nói chuyện Thiền với các môn đệ, tiên sinh luôn luôn bị một vị hòa thượng tên là Shinshu ngắt lời; vị này hết lòng tin vào những việc như phù phép niệm chú. Sau cùng Bankei đành ngừng hẳn câu chuyện đương nói với các môn đệ và quay sang với Shinshu. Vị hòa thượng này hỏi:

"Vị sư tổ của môn phái tôi trước đây có tài ngồi bên này bờ sông cầm bút lông viết được chữ lên tờ giấy căng ở bên kia bờ sông, tiên sinh có thể làm được việc gì tương tự chăng?"

Thiền-sự lắc đầu tiếp:

"Không. Tôi chỉ có thể làm được những việc như đói thì ăn, khát thì uống, ai chửi mình thì tha thứ."

oOo

Trong cửa Thiền thường nói: "Đức Phật thuyết pháp ròng rã bốn mươi chín năm mà lưỡi Ngài không hề động đậy."

Thiền sư Gensha nói:

"Các thầy khả kính đã dạy đạo Phật có vô vàn pháp môn để giúp đỡ hết thảy chúng sinh, nhưng chắc các thầy cũng phải tự hỏi làm cách nào đạo Phật có thể giúp kẻ mù, kẻ điếc hay kẻ câm. Kẻ mù thì không trông thấy chiếc gậy của thầy giơ lên, kẻ điếc thì không nghe thấy lời thầy giảng, kẻ câm thì không hỏi được thầy, không nói được những điều mình hiểu. Như vậy sao có thể nói là đạo Phật giúp được mọi người bằng đủ mọi cách?"

Nhiều năm sau, một Thiền-sinh đem điều nghi vấn trên hỏi lại Thiền-sư Ummon. Hỏi xong Thiền-sinh xá một cái rồi đứng thẳng chờ. Thiền-sư Ummon bất thần dùng đầu gậy chọc thẳng về phía trước khiến Thiền-sinh phải lùi vội lại để tránh. Thiền-sư gật gù thốt lên:

"Ha ha, hãy biết là ngươi không mù!"

Đoạn Thiền-sư bảo Thiền-sinh tiến lên mấy bước. Thiền-sinh vội-vã tuân theo. Thiền-sư càng gật gù đắc ý.

"Ha ha, vậy là ta biết ngươi không điếc nữa!"

Sau đó Thiền-sư hỏi Thiền-sinh có biết ông bảo làm vậy là ngụ ý gì không? Thiền-sinh cung kính đáp:

"Thưa sư phụ, quả thực đệ tử không hiểu."

Thiền-sư càng reo lớn:

"Ngươi thấy đấy, ngươi đâu có câm!"

oOo

Vào thời Tetsugen sống, kinh Phật chỉ có ở Tàu mà chưa hề được ấn hành tại Nhật. Tetsugen quyết định đi hết tỉnh này đến tỉnh khác quyên tiền để chuẩn bị in kinh Phật bằng mộc bản.

Sau mười năm lặn lội vất vả đi khắp nước Nhật, Tetsugen thấy rằng số tiền quyên tương đối đã đủ. Nhưng việc cho khắc gỗ vừa sắp bắt đầu thì xảy vụ thiên tai nước lụt lớn, mùa màng hỏng sạch, dân chúng bị đói. Tetsugen dùng số tiền ky cóp quyên trong mười năm qua mua gạo phát trẩn cứu dân đói.

Sau đó Tetsugen lại đi quyên lần nữa cho việc dự định ấn hành kinh Phật. It lâu sau số tiền quyên cũng tạm đủ như lần trước. Lần này khắp nước Nhật bị dịch thời khí. Hàng ngàn gia đình không thể sống qua ngày được nếu không được cứu trợ. Tetsugen lại đổ số tiền quyên được ra giúp đỡ đồng bào bị dịch thời khí.

Khi tai qua nạn khỏi xong xuôi, Tetsugen khởi sự công cuộc lận đận đi quyên lần thứ ba. Lần này ước nguyện của Tetsugen mới được thành tựu, và Tetsugen nhắm mắt lìa đời hài lòng.

Những người hiểu biết đều bảo nhau rằng kinh Phật của Tetsugen như vậy là được ấn hành ba lần lận, những bản ấn hành hai lần trước tuy chẳng ai được đọc nhưng giá trị xem ra lại vượt xa lần ấn hành sau cùng.

oOo

Thiên sinh Doken được cử đi thăm một thiền viện khác ở nơi khá xa. Doken băn khoăn lắm, vì đi như vậy thì tất nhiên việc học sẽ bị ngưng trệ trong nhiều tháng, bèn nói với Sogen, một thiền sinh đàn anh khác:

"Rất mong đạo huynh xin phép sư phụ để được cùng đi với đệ chuyến này. Có biết bao nhiêu điều mà đệ chưa am tường, nếu có hiền huynh bên cạnh để cùng nhau bàn bạc, chắc là đệ sẽ học hỏi được nhiều.

Sogen đáp: "Được lắm. Nhưng xin hỏi đạo hữu câu này: Nếu đạo hữu đói mà ta ăn cơm hộ, liệu đạo hữu có bớt đói chăng? Nếu chân đạo hữu bị què, đạo hữu hưởng được niềm an ủi gì khi nhìn ta tiếp tục thoăn-thoắt trên đường? Nếu bọng đái của đạo hữu đầy ắp, đạo hữu có cảm thấy nhẹ người chăng, khi nhìn ta tiểu tiện?"

Ý THIỀN

Một Thiền-sinh càng suy nghĩ về Thiền càng thấy bối rối, đành phải tới thỉnh giáo sư phụ:

"Thưa thầy, người đã dạy chân lý không thể diễn đạt bằng lời, cũng không thể diễn đạt bằng cách ngồi im chẳng nói. Thưa Thầy, làm sao mà có thể thế được?"

Vị sư phụ đáp:

"Thuở ta còn là một gã trai trẻ sống tại miền Nam Trung Quốc, chao ôi, chim hót sao mà vui trong hoa lá một ngày nắng gió đầu xuân."

oOo

Thiền là niềm vui chân thành sảng khoái cực kỳ hồn nhiên, niềm vui thắp sáng trái tim, thổi bừng bình minh trong hồn. Niềm vui cực lạc chính là vậy. Sao mà đơn giản! Như mây trời nở rộng bay trên vòm cao bao la!

oOo

Như thái độ phóng khoáng của Không Lộ thiền sư lên đỉnh núi chúm môi huýt sáo, núi cao, cảnh vắng, tiếng sáo như làm lạnh cả bầu trời:

Trạch đắc long xà địa khả cư,

Dã tình chung nhật lạc Vô dư,

Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh,

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.

Ngô-Tất-Tố phiên dich:

Lựa nơi rồng rắn đất ưa người,

Cả buổi tình quê những mảng vui,

Có lúc thẳng lên đầu núi thẳm,

Một hơi sáo miệng lạnh bầu trời.

oOo

Còn niềm vui nào đơn giản hơn niềm vui thiên thần không màng đắc thất!

Thiền sinh Shichiri đang tụng Đại-tạng-kinh thì một tên ăn trộm lẻn vào, chí con dao nhọn sau lưng và hỏi tiền đâu. Shichiri đáp: "Tiền để trong hộp phía trước kia kìa". Đoạn tiếp tục đọc kinh.

Tên trộm sắp sửa ra đi, Shichiri nói: "Để lại cho ta ít tiền, ta còn phải trả thuế, sớm mai người ta đã lại thu rồi".

Tên trộm (cũng rất... Thiền) để lại ít tiền rồi sửa soạn bước ra khỏi cửa.

Shichiri hỏi:

"Ngươi không biết nói cám ơn khi được ai tặng chút gì ư?"

Tên kẻ trộm bèn cám ơn rồi đi.

Mấy ngày sau tên trộm bị bắt. Trong lời thú tội, y có thú cả việc đến lấy tiền của Shichiri. Nhưng Shichiri khai với quan trên:

"Tôi có tặng hắn ít tiền và hắn cám ơn lại tôi. Sự thực chỉ có vậy!"

Tên trộm vẫn đi tù về những tội ăn trộm ác. Mãn tù hắn tìm đến Shichiri nói:

"Xin ngài hãy nhận tôi làm môn đệ của ngài!"

oOo

Vì bình thản với lẽ đắc thất nên lòng thênh thang bao trùm. Vì thênh thang bao trùm nên diễn biến nào cũng khít khao như một vở kịch mà mình vừa là nhà đạo diễn lại vừa là diễn viên.

Ấy Thiền đơn giản như vậy. Nếu mình hồn nhiên đơn giản như vậy!

oOo

Truyện "Hòa thuận với mọi người" trong Cổ-Học Tinh-Hoa:

Lưu-Ngưng-Chi đang đi giày có người đến nhận, ông đưa ngay. Sau người ấy tìm thấy giày đem giày ông lại trả. Ông nhất định không nhận nữa.

Thẩm-Lân-Sĩ đang đi giày. Cũng có người đến nhận. Ông cười hỏi: "Giày của bác đấy à?" Rồi ông đưa ngay. Sau người láng giềng tìm thấy giày, đem giày ông lại trả. Ông nói: "Không phải giày của bác hả?" Ông cười rồi nhận.

Hòa khí của Thẩm-Lân-Sĩ mới Thiền làm sao.

Thiền sư Joshu hỏi một vị sư vừa tới tiền sảnh: "Tôi đã gặp ngài lần nào chưa nhỉ?"

Vị sư đáp: "Dạ thưa chưa".

Joshu cười nói: "Vậy xin mời ngài uống với tôi một chén trà!"

Rồi tiên sinh quay sang một vị sự khác hỏi: "Tôi đã gặp ngài lần nào chưa nhỉ?"

Vị sư thứ hai này vui vẻ đáp: "Dạ, thưa tiên sinh, có chứ ạ!"

Joshu cười nói: "Vậy xin mời ngài uống với tôi một chén trà!"

Sau đó vị hòa thượng chủ trì thiền viện lên tiếng hỏi: "Thưa tiên sinh, sao câu trả lời của hai người thật khác nhau, mà cả hai lại cùng được tiên sinh mời uống trà như nhau?"

Vừa nghe dứt câu hỏi, Joshu la lớn: "Ủa, Hòa thượng còn đấy sao?"

"Thưa ngài, dĩ nhiên tôi còn đây."

"Vậy xin mời Hòa-thượng uống với tôi một chén trà."

oOo

Ý thiền thênh thang trong suốt như vậy. Vô tư như bóng chim trời lướt in trong dòng sông, chim đâu có ý để lại bóng mình, nước đâu có tâm giữ lại bóng chim:

Nhạn quá trường giang

Ảnh trầm hàn thủy

Nhạn vô di tích chi ý

Ảnh vô lưu thủy chi tâm.

oOo

Chúng ta cũng có thể nhìn sang một khía cạnh khác của ý thiền: NHẬP DIỆU.

oOo

Một tay đô vật cự phách tên O-nami, có nghĩa là Sóng Lớn, phải cái tật chỉ giỏi khi biểu diễn ở trong nhà. Có thể nói, ở trong nhà O-nami vật ngã cả thầy dạy là thường, nhưng hễ cứ ra trước công chúng là y như chàng lúng túng đến nỗi thua cả đứa học trò hạng bét của mình.

O-nami nghe có vị Thiền-sư vừa từ xa tới trú tại một ngôi chùa bên bờ biển, bèn đến trình bày sự tình và xin Thiền-sư ban cho lời khuyên phải làm gì bây giờ.

Thiền-sư đáp:

"O-nami, tên ngươi mang có nghĩa là Sóng Lớn. Vậy ngươi hãy ngồi ở chùa này suốt đêm nay lắng nghe tiếng sóng biển. Hãy quên ngươi là một nhà đô vật, và hãy tưởng tượng chính ngươi là những đợt sóng biển hùng vĩ kia quét ngã bất kỳ cái gì cản đường chúng."

Nói đoạn, Thiền-sư ra đi.

O-nami ngồi lại, thoạt cố gắng chỉ nghe và nghĩ về sóng, nhưng vẫn còn nghĩ lẫn sang nhiều thứ khác. Dần dần O-nami tập trung được tư tưởng vào riêng sóng mà thôi. Đêm tan dần, những đợt sóng cũng lần lần lớn lên. Sóng ào ạt quét những bông hoa trên bàn thờ Phật, quét cả lọ hoa, rồi cả tượng Phật bằng đồng cũng như bị những đợt sóng lớn nuốt chửng đi đâu mất. Trời rạng đông, O-nami có cảm tưởng cả ngôi chùa bị tràn ngập bởi sóng biển trắng xóa chập chừng. Và O-nami còn ngồi đó, nụ cười phảng phất trên khuôn mặt trầm lặng.

Ngày hôm đó tai đấu trường, O-nami không bị thua một keo nào. Không những thế, kể từ đấy, khắp nước Nhật cũng không còn ai có thể đương đầu nổi với O-nami nữa.

oOo

Chàng Matajura muốn trở thành một tay kiếm thần xuất quỷ nhập, nhưng cha chàng chê là phản ứng còn chậm lắm, khó có thể học kiếm cho thành tài được.

Matajura đành đến nhà võ sư Banzo chuyên dạy về kiếm xin làm đồ đệ. Chàng hỏi:

"Thưa võ sư, nếu tôi ở liền bên ngài, hầu hạ ngài từng giờ từng phút, thì trong khoảng bao lâu ngài có thể truyền thụ cho tôi thành tài kiếm pháp."

"Mười năm!" - Banzo đáp.

"Thưa võ sư, cha tôi già mất rồi, tôi muốn được học thành tài sớm hơn để còn trở về săn sóc người. Vậy nếu tôi hầu hạ võ sư cần mẫn gấp đôi thì trong bao lâu tôi thành tài?"

"Ba mươi năm!" - Banzon đáp.

"Sao có thể thế được, thưa võ sư - chàng Matajura vô cùng ngạc nhiên hỏi lại - tôi nguyện làm việc gấp đôi, mà thời gian đạt kết quả lại dài thêm gấp ba? Bây giờ xin võ sư cho tôi được thưa rõ một lần nữa: Tôi sẽ làm việc không ngơi, làm bất kỳ việc gì, dù nặng nhọc đến mấy, như vậy xin võ sư cho biết chừng bao lâu tôi học thành tài?"

"Bảy mươi năm! - Banzo đáp - Những kẻ hối hả như vậy bao giờ học cũng chậm, rất chậm."

Bấy giờ thì Matajura đã hiểu ý võ sư. Không hỏi han gì về thời gian học tập nữa, chàng quyết định xin được ở lại hầu hạ võ sư. Chàng lau chùi, quét dọn nhà cửa, làm bếp, giặt giũ, làm vườn... Chàng được lệnh không bao giờ được nói tới kiếm, hỏi về kiếm, mó vào kiếm. Thật buồn, nhưng đành vậy, đã trót hứa với thầy, chàng không muốn lỗi lời hứa. Ba năm trôi qua như thế.

Một ngày kia, chàng đang làm vườn thì võ sư nhẹ bước lên tới đằng sau lúc nào không hay và bất thình lình quất trúng chàng một cái bằng thanh kiếm gỗ, mạnh như trời giáng. Hôm sau chàng lại bị một vố nữa như vậy khi đương làm bếp. Từ đấy bất kỳ vào giờ nào, bất kỳ ở xó xỉnh nào, chàng cũng có thể bị thanh kiếm gỗ của thầy bất thần tấn công. Và cũng kể từ đấy chàng phải giữ tinh thần thức tỉnh. Cơ hồ chàng không còn ao ước gì, suy nghĩ gì ngoài tư thế thức tỉnh để lẹ làng tránh né thanh kiếm gỗ của thầy.

Võ sư Banzo mỉm cười hài long, bắt đầu dạy chàng kiếm thuật. Chẳng bao lâu Matajura lừng danh là một tay kiếm số một của Nhật Bản.

oOo

Kosen tiên sinh chuẩn bị viết mấy chữ đại tự để sẽ cho khắc trước cổng lớn ngôi đền Oaku tại Kyoto. Tiên sinh phải viết những chữ đó lên giấy rồi tự giấy khắc vào gỗ. Một đệ tử ngồi hầu, hòa mực và theo dõi nghệ thuật bút thiếp của thầy. Lần đầu tiên khi tiên sinh vừa viết dứt, người đệ tử nói: "Thưa thầy, chưa được." Tiên sinh sử dụng bút đại tự lần nữa, người đệ tử nói: "Thưa thầy, lần này còn tệ hơn lần trước." Tiên sinh viết lại lần nữa. Cứ như vậy tới lần thứ sáu mươi tư, thì thực là bút cùn mực cạn. Thấy mực gần hết, người đệ tử vào nhà kiếm thêm. Còn lại một mình, không bị bận tâm bởi cái nhìn soi mói của kẻ ngồi bên, tiên sinh chấm bút vào nghiên, dùng chút mực ít ỏi còn lại phóng bút một lần cuối cùng. Vừa lúc người đệ tử trở lại, ngắm hàng chữ còn tươi nét mực và reo lên:

"Thưa thầy, thật là tuyệt bút!"

oOo

Có khác chi chuyện con rết đương nhip nhàng bò lanh lẹ qua đây qua đó, bỗng gặp con cóc tinh nghịch hỏi đùa: "Này chị Rết, chị bò lẹ như vậy thì chân nào trước, chân nào sau nhỉ?" Thế là nàng Rết ta bị phân tâm quẫn trí trở thành vụng dại, nằm bò kềnh bò càng dưới rãnh, cố nghiên cứu, phân tách, tìm hiểu xem chân nào chuyển động trước, chân nào chuyển động sau. Tội nghiệp!

oOo

CỖI NGUỒN CŨNG BỞI LÒNG NGƯỜI MÀ RA

Chiều ba mươi Tết. Tôi xuống bếp giúp vợ tôi cắt tiết gà. Nàng cắt tiết, tôi chỉ phải giữ chân và cánh cho chắc, nhất là vào lúc gà rẫy chết. Ăn thịt gà thì cả nhà ai cũng thích ăn, nhưng cắt tiết thì ai cũng ngại. Cách đây không lâu vào ngày giỗ nhạc mẫu, chúng tôi làm thịt hai con vịt. Đó là hai con vịt bầu nuôi từ lúc chúng còn nhỏ. Một ông bạn già đã cho thằng con trai đầu lòng của tôi. Thằng bé chăm nom hai con vịt suốt mùa mưa. Hễ mưa lớn, nước chưa kịp thoát, dềnh lên, là nó mang đôi vịt ra thả cho bơi lội để chúng khỏi nhớ nước, nó bảo vậy. Nó thích mua tôm, tép mang về thả vào chậu nước và sung sướng ngắm hai con vịt rúc mỏ tìm ăn. Hai con vịt chóng lớn trông thấy. Hết mùa mưa, mỗi ngày thằng bé múc một chậu nước đầy tắm cho vịt như tắm cho bạn. Một lần quên cho chúng ăn, hai con vịt không hiểu làm sao xổng được chuồng, xục vào tận trong bếp xin ăn. Ngày giỗ nhạc mẫu, tôi trói chân hai con vịt mang vào bếp. Thằng con trai tôi chợt vào, nó nhìn hai con vịt thốt một tiếng "tội" rồi bỏ đi. Bên ngoài, trời bỗng đổ mưa, một cơn mưa cuối mùa. Mẹ nó không đang tâm cắt tiết vịt, đành khoác áo mưa đem ra chợ gần đấy nhờ một bà chuyên làm thịt gà vịt cắt tiết làm lông hộ.

Nhưng chiều nay, ba mươi Tết, không thể nhờ ai được. Hai vợ chồng tôi đành phải làm lấy công việc "cực nhọc" này vậy. Sau khi vặt một khoảng lông cổ lấy chỗ cắt tiết, vợ tôi như thường lệ suýt xoa nói như khấn: "Thôi thì sống cắt tai, mái cắt cổ, tao hóa kiếp cho mày." Rồi cắt tiết. Tiết ra ít tuy vẫn chảy đều. Nàng cắt không đúng tia. Khi hết ngừng chảy, tôi không thấy gà rẫy chết như mọi khi. Vợ tôi nói như để dối lòng: "Con gà lần này cứ vậy xỉn đi, không phải rẫy chết nữa." Thật ra nó đâu đã chết. Mắt nó mở trừng trừng. Tim nhói buốt, tôi khóa chéo hai cánh gà lại để che đôi mắt đó. Tôi như Cain chạy trốn đôi mắt của Abel. Nhưng khóa cánh gà như kia vô tình tôi càng bước sâu thêm vào tội ác. Mà cũng như con người khi thấy mình đã trót trôi theo triền dốc tàn ác thì cũng muốn lao lẹ cho chóng tới đáy vực, vì nghĩ xuống đáy vực tàn ác thì khỏi phải tàn ác thêm nữa. Tôi bèn ra bếp lấy ấm nước sôi. Tôi muốn sớm giải thoát cho gà và cho chính mình.

Nó rẫy lên mấy cái. Tội nghiệp nó nhận đủ các cực hình: cắt tiết, khóa cánh và nước sôi bỏng. Tâm trí tôi lúc đó là cả một địa ngục thực sự, cụ thể. Tôi nhớ đến câu Kiều:

Cỗi nguồn cũng bởi lòng người mà ra!

Và nhớ luôn đến cả câu truyện Thiền sau đây:

oOo

Một chàng Ngự Lâm Quân kiêu dũng nọ tới gặp một vị Thiền-sư, hỏi:

"Thưa Thiền-sư, xin người cho hay có thực là có thiên đường và địa ngục hay không?"

Vị Thiền-sư hỏi lại:

"Ngươi là ai vậy?"

"Thưa tôi là Ngự Lâm Quân của đấng vua chí tôn."

"Vô lý! Nhà vua nào mà nhận ngươi làm ngự lâm quân. Ta trông ngươi thực chẳng khác một tên ăn mày!"

Nghe tới đó, chàng ngự lâm quân vỗ vỗ lên thanh gươm lớn đeo bên mình, đôi mắt long sòng sọc.

Vị Thiền-sư cười ngất:

"Ha ha, ngươi lại đeo gươm đeo ghiếc nữa cơ à? Thanh gươm cùn nhụt đó cắt đứt nổi cổ ai?"

Tới đây chàng ngự lâm quân không dằn lòng được nữa, chàng rút phắt thanh gươm ra, vung lên.

Vị Thiền-sư gật gù tiếp:

"Giờ thì ngươi đã hiểu được phân nửa câu giải đáp: Ngươi đang mở cửa địa ngục!"

Người ngự lâm quân rút vội tay về, tra gươm vào võ và kính cẩn cúi đầu. Thiền- sư tiếp:

"Giờ thì ngươi hiểu nốt phân nửa kia của câu giải đáp: Ngươi đã mở cửa thiên đàng!"

oOo

Hai nhà sư Tanzan và Ekido hôm đó đi xuống phố, đường mưa trơn lầy lội. Cả hai gặp một thiếu nữ xinh đẹp ăn mặc lụa là đương ngại ngùng không biết làm sao qua đường.

"Lại đây cô, tôi sẽ giúp cô qua đường." Tanzan nói vậy rồi bế cô trên hai tay và mang sang đất bên kia đường.

Rồi cả hai tiếp tục đi, không nói năng gì với nhau nửa lời, suốt ngày. Chiều tối, khi cả hai đã cùng trở lại thiền viện, tới lúc đó Ekido không thể nhịn được nữa, mới thốt lên: "Đã xuất gia tu hành, sao lại gần đàn bà, nhất là lại bế cô gái đẹp như thế. Tại sao đạo hữu có thể làm như vậy cơ chứ!"

"Quý đạo hữu ơi - Tanzan ôn tồn đáp - tôi đã đặt cô gai đó xuống, ngay sau khi giúp cô ta qua con đường lầy lội, có ai ngờ đạo hữu vẫn còn cõng cô ta theo về tận thiền viện này."

oOo

Bồ-Đề-Đạt-Ma ngồi tham thiền quay mặt vào tường ròng rã chín năm liền. Một lần một nho sĩ Khổng giáo tới xin lời chỉ giáo. Nhưng đức Bồ-Đề-Đạt-Ma vẫn ngồi nguyên không nhúc nhích trong bảy ngày bảy đêm liền mặc cho nho sĩ hết lời cầu khẩn van nài. Sau cùng nho sĩ dùng một thanh gươm lớn tự chặt đứt một cánh tay, cầm cánh tay đó đặt trước mặt đức Bồ-Đề-Đạt-Ma mà rằng:

"Xin sư phụ chứng kiến lòng thành thực của đệ tử. Đã từ bao nhiêu năm nay, đệ tử đi tìm sự bình an của linh hồn mà không thấy, đệ tử biết chỉ có sư phụ là có thể chỉ giáo cho đệ tử hay điều đó, xin sư phụ đừng tiếc lời."

Tới đó, đức Bồ-Đề-Đạt-Ma mới nói:

"Đừng mang cánh tay ngươi đến, hãy mang linh hồn ngươi đến trước ta, ngõ hầu ta mới chỉ được cho ngươi hay cách đem lại bình an như ngươi yêu cầu."

"Thưa sư phụ, điều đó thực nan giải. Đệ tử làm sao nắm được linh hồn mà bảo mang đặt nó trước sư phụ cho được?"

"Ấy vậy là ta đã đem lại bình an linh hồn cho ngươi rồi đó!"

oOo

Một thiền sinh tới xin Thiền-sư Bankei giúp anh ta trừ căn bệnh nóng nảy bạo ngược của anh ta.

"Ngươi hãy mang chứng nóng nảy bạo ngược của ngươi tới đây ta xem nó ra sao nào."

"Thưa thầy, con không có nó ngay lúc này, nên không thể trình thầy xem được."

"Vậy khi nào ngươi có nó thì lôi cổ nó lại cho ta xem."

"Thưa thầy, việc đó thực khó. Khi con có nó mà định mang lại để thầy xem, thì e rằng nửa đường nó đã biến mất."

"Như vậy thì theo thiển ý của ta, căn bệnh nóng nảy bạo ngược đó đâu phải là một thành phần cố hữu trong bản tính thì tất nó tự ngoài vào. Đã tự ngoài vào thì ta đề nghị lúc đó ngươi chỉ việc tự đánh mình cho đến khi căn bệnh nóng nảy bạo ngược không chịu nổi phải co giò chạy trốn đi nơi khác, thế là khỏi bệnh!"

oOo

Người Riko một lần tìm đến Thiền-sư Nansen xin tiên sinh giải thích dùm cho vấn đề con ngỗng nuôi trong chai. Nếu đem nhốt con ngỗng nhỏ vào chai rồi ngày ngày thả thức ăn qua cổ chai nuôi ngỗng. Chẳng bao lâu ngỗng nhỏ thành ngỗng lớn. Bấy giờ phải làm sao để lấy được ngỗng ra mà không phải đập vỡ chai, cũng không phải giết chết ngỗng?

Nansen tiên sinh vỗ mạnh hai bàn tay hào hứng:

"Riko!"

Đôi mắt Riko sáng lên:

"Dạ thưa tiên sinh dạy?"

"Người thấy không kìa, con ngỗng đã ra rồi!"

oOo

Con ngỗng đã ra rồi! Tự do, giải thoát thể hiện ngay trong tâm trí mình đó! Dù nói hay nghĩ loanh quanh thế nào vẫn là:

Cỗi nguồn cũng bởi lòng người mà ra.

THIỀN ĐI LÃNG ĐÃNG

Hồi Thiền-su Ikkyu còn là một Thiền-sinh nhỏ tuổi, một hôm đánh vỡ chiếc chén cổ là đồ gia bảo của thầy, trong lòng lo sợ lắm. Vừa lúc đó nghe có tiếng bước chân thầy đi tới, Ikkyu vội dấu những mảnh vỡ sau vạt áo.

"Thưa thầy - Ikkyu cung kính hỏi - tại sao vạn vật lại có lúc phải hủy diệt?"

"Hữu hình tất hữu hoại - Thầy đáp - đó là lẽ đương nhiên trong tạo vật. Người nào, vật nào bất luận cái gì có tụ tất có ngày tàn, có sinh tất có ngày diệt!"

Lúc đó, Ikkyu mới chìa mấy mảnh chén vỡ ra mà rằng:

"Thưa thầy hôm nay chiếc chén của thầy cũng vừa tới số bị hủy diệt mất rồi!"

oOo

Một người mù tới thăm bạn nói chuyện mãi đến khuya mới về. Trước khi về người mù bảo bạn:

"Anh làm ơn cho tôi mượn cây đèn lồng."

"Anh mang đèn lòng làm gì! Đâu có vì vậy mà anh thấy rõ hơn?"

"Đành vậy nhưng để cho người khác thấy mà tránh."

"Nếu vậy thì đây anh cầm lấy đèn lòng!"

Người mù ra về tay cầm đèn lòng có gắn nến cẩn thận, lòng thơ thới hân hoan. Nhưng mới được vài bước đã "Pầm". Có người đâm xầm phải anh ta.

"Đồ khỉ, không trông thấy đèn lòng của người ta sao?"

"Con tiều, sao không thắp nến lên?"

oOo

Thiền-sinh Tokusan chiều chiều thường vẫn đến nhà thầy, Thiền-sư Ryutan, để vừa đàm đạo vừa nghe thầy giảng dạy. Đêm đó đã khuya lắm rồi mà Tokusan vẫn còn nhiều điều muốn hỏi thầy. Ryutan tiên sinh mới bảo:

"Sao ngươi không về ngủ đi?"

Tokusan cúi chào thầy, vén màn cửa đi ra nhưng rồi quay lại:

"Thưa thầy bên ngoài tối đen như mực."

"Thì ngươi cầm cây nến này."

Nói đoạn Ryutan tiên-sinh châm ngọn nến trao cho; nhưng Tokusan vừa giơ tay đỡ lấy thì tiên sinh cũng hơi cúi đầu về phía trước và thổi phụt tắt ngọn nến.

oOo

Một người lái buôn giàu có đến xin vị Thiền-sư nọ cho một vế câu đối hay một bài văn miêu tả cảnh hạnh phúc ước mong của cả gia đình mình. Vị thiền sư hạ bút viết ngay:

Tổ phụ chết.

Cha chết.

Con chết.

Người lái buôn giật nẩy mình hỏi lại:

"Thưa Thiền-sư, chẳng hay con có làm điều gì phật ý người không, mà sao người lại nguyền rủa gia đình con đau đớn như vậy?"

"Ta đâu có nguyền rủa! Những lời ta viết đích thị là lời cầu chúc mà nhất sinh ai cũng ước mong như vậy. Này nhé, ta cầu chúc người nào trong gia đình ngươi cũng sống đến thành tổ phụ. Ta lại cầu chúc không có người con nào chết trước cha. Hỏi còn chân hạnh phúc nào hơn cảnh thọ như vậy mà lại chết có trật tự như vậy?"

oOo

Mamyia một con người tầm thường trần tục nhưng vẫn tự cho rằng mình có thể theo học Thiền được. Y tới yết kiến một vị Thiền-sư. Thiền-sư bảo y phải tập trung tư tưởng mà tìm lời giải đáp cho câu hỏi này: "Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay?"

Mamyia ra về, rồi một tuần sau trở lại, lắc đầu thưa là không sao tìm được câu trả lời.

Thiền-sư nói lớn:

"Hãy bước ra khỏi đây. Ngươi đâu có chịu tốn công suy tư. Ngươi còn mãi nghĩ về tiền bạc, về những lạc thú trần tục. Có thể may ra ngươi chết, lúc đó ngươi mới thấy được lời giải đáp."

Tuần sau, Mamyia lại tới. Khi vị Thiền-sư hỏi: "Thế nào đã tìm thấy câu giải đáp chưa?" thì y bặm môi nắm chặt lấy ngực, rên lên rồi ngã xuống, chết.

"Được lắm, ngươi đã theo lời ta khuyên mà chết, nhưng còn tiếng vỗ một bàn tay thì sao?"

Mamyia hé mở một mắt và nói: "Thưa vẫn chưa tìm được lời giải đáp."

Vị Thiền-sư quát lớn: "Kẻ chết không nói! Hãy đứng dậy cuốn xéo khỏi đây!"

oOo

Thiền-sư Nan-in hôm đó có một ông khách tới hỏi về Thiền. Nhưng đáng lẽ đến để nghe thì vị khách cứ nói hoài những ý kiến riêng của mình.

Lát sau Nan-in mời trà. Thiền-sư rót trà vào chén của ông khách đầy rồi mà vẫn tiếp tục rót hoài.

Sau cùng ông khách không giữ kiên nhẫn được nữa, nói lớn: "Kìa, đạo huynh không thấy chén đã đầy tràn rồi sao? Còn có thể chứa đựng thêm được gì nữa đâu!"

Thiền-sư ngừng rót trà. "Đúng vây, thưa hiền hữu, và hiền hữu cũng giống như chiếc chén đó, đầy ắp tư kiến. Tôi còn biết hiến dâng gì về Thiền, nếu hiền hữu không cho tôi một chiếc chén rỗng."

oOo

Tại Kyoto, có hai Thiền-tự, một ở bên Nam, một ở bên Bắc. Mỗi bên đều có một Thiền-sinh trẻ tuổi ngày ngày phụ trách các việc vặt như đi chợ, thổi cơm, nấu nước. Thiền sinh bên Bắc Thiền-tự hàng ngày cứ vào giờ đó thì đi chợ mua rau. Một lần chợt gặp Thiền-sinh bên Nam Thiền-tự ngang đường. Thiền-sinh bên Nam lẹ miệng hỏi trước:

"Đạo hữu đi đâu vậy?"

Thiền-sinh Bắc đáp:

"Đôi chân này đưa đến đâu tôi đi đến đấy."

Thiền-sinh Nam không biết nói sao, về thuật lại chuyện với thầy. Thầy không muốn trò mình phải lép vế đành mách nước: "Nếu mai gặp, hỏi lại câu cũ, chắc con cũng được nghe đáp lại như vậy, lúc đó con hỏi thêm: Giả sử đạo hữu không có chân, đạo hữu sẽ đi tới đâu?"

Quả nhiên hôm sau hai Thiền-sinh lại gặp nhau.

"Đạo hữu đi đâu vậy?"

"Gió cuốn tới đâu tôi đi tới đấy."

Thiền-sinh Nam thêm một lần châng hẫng, trở về vấn kế thầy. Thầy trách: "Sao con không hỏi lại là: hãy giả sử như không có gió?"

Tới hôm sau nữa, hai Thiền-sinh gặp nhau. Thiền-sinh Nam hỏi: "Đạo hữu đi đâu vậy?" Lần này, Thiền-sinh Bắc trả lời đơn giản: "Thưa đạo hữu, tôi đi mua rau!"

oOo

Thì vẫn vậy, đã nói mỗi ý Thiền như một que diêm, chỉ bật lên chiếu sáng một lần. Phải thức tỉnh, phá chấp, tránh lối mòn. Đó, Thiền!

TẠM THAY LỜI BẠT

Trời lành lạnh suốt ba ngày liền dưới 25 độ. Ở Sài-Gòn như vậy thật là hiếm có, nhất là đây chỉ mới tháng mười một. Bạn tôi bảo là có bão ngoài Nha-Trang. Chắc vậy. Tôi không đọc báo. Đã lâu tôi không đọc báo. Cả ngày mây trời vần vu, rất ít khi có nắng, dù có cũng là những tia nắng đục. Gió hiu hắt, y như gió heo mây vào những ngày đầu thu miền Bắc. Gió thu như thổi về tấm màn liệm để phủ lên vạn vật đương tiêu trầm. Là tôi nhớ lại mùa thu miền Bắc.

Hình như cũng có cái gì đương tiêu trầm hấp hối trong tôi khi tôi về tới trước cửa nhà khoảng cuối hẻm, và nhìn thấy thằng bé đó. Thằng bé nào vậy? Thưa đó là một thằng nhỏ lai Mỹ.

Thằng bé xinh lắm. Lần đầu gặp nó, tôi có chú ý đến nước da trắng trẻo và mớ tóc tơ hơi vàng vàng của nó. Ý nghĩ thoáng qua, tôi đoán nó là một em bé lai, nhưng tôi chẳng hay dừng lâu ở những ý nghĩ tương tự, nên rồi lần sau khi gặp nó lũn cũn chơi với lũ trẻ cùng xóm, tôi cũng chỉ coi nó như trăm ngàn đứa trẻ Việt khác suốt ngày lố nhố ở những xóm cần lao tương tự. Cho đến một ngày, cách đây một tháng, tôi hay tin thằng bé bị bỏng. Nó ngã sấp vào chảo dầu đang chiên bánh. Và cũng tới ngày đó, tôi mới biết đích nó là một em bé lai Mỹ. Người mẹ ngày ngày di làm, nhờ bà chủ nhà trông con, chiều về thì con đã bị nạn như vậy. Nghe nói người mẹ khóc nhiều lắm. Sau mấy ngày nằm liệt giường, khi nhóc nhách được, thằng bé bèn ra đứng trước cửa, một nửa mặt bông băng trắng xóa. Tôi có ý định mách người mẹ nên tìm thứ pommade có sinh tố nuôi da cho nó để tránh da mặt thành sẹo sần sùi sau này, nhưng nghe nói người mẹ đã và vẫn đưa con đi bác sĩ đều nên thôi và yên tâm. Tội nghiệp thằng bé thật xinh. Tôi ôn lai khuôn mặt thằng bé mấy hôm trước đây lúc nó chưa bị nạn, khuôn mặt nhìn đâu cũng thấy thơ ngây, từ vẻ bầu bĩnh, đến đôi mắt luôn luôn mở lớn, thẳng thắn và ngỡ ngàng nhìn hết người này sang người nọ, cùng cái miệng hon hon khi chú ý nghe người khác nói. Chắc chắn nó phải giống bố nó lắm, vì khuôn mặt phảng phất một nếp sống ổn định trong một xã hội ổn định, xa lạ với mọi nghịch lý phủ phàng hiện đầy rẫy trong xã hội nhà.

(Tôi bây giờ que sống ôn những hình ảnh đã qua như vậy, mặc cho hiện tại hờ hững trôi qua, chỉ khi cần thiết mới thu thập ký ức.)

Nhìn nửa mặt thằng bé bông băng trắng xóa, tôi cầu mong thương tích của nó mau lành, và tội cho nó không được sống bên quê cha nó, nơi mà vấn đề an toàn cho mạng sống được ý thức đến mức chu đáo tối đa. Nơi này, quê hương mẹ nó, mọi sinh vật, thực vật đương bị chiến tranh dày xéo, nên nếp sống hậu phương, dù là hậu phương Sài-Gòn, cũng là nếp sống hối hả, cẩu thả, còn làm gì có thì giờ để nghĩ đến an toàn.

Sáng sớm, trời lạnh dưới 25 độ, đứa con trai đầu lòng của tôi đi học. Nó dắt xe đạp ra cửa, chân bước hơi ngượng ngập tập tễnh: đôi giày Bata chật vẫn làm tức bàn chân nó như vậy. Nó nghếch đít lên yên xe: thoạt chiếc xe hơi lảo đảo, tới khi có đà mới tạm vững, nhưng dáng nó ngồi đạp vẫn xiêu vẹo; đây là chiếc xe đạp của chị nó thái, nên hơi lớn với nó.

May đi học như vậy rồi đây sẽ thu thập được gì, con? Tôi hỏi thầm như vậy. Cái học sẽ giúp con có liêm sỉ? Đâu có! Quanh ta thiếu gì kẻ có bằng cấp vào hàng tột đỉnh của nhân loại, hoặc gần tột đỉnh mà vẫn cực kỳ vô liêm sỉ. Sự học ở hoàn cảnh nước nhà giờ đây không hề bảo đảm là tấm khăn lau sáng lương tâm.

Buổi chiều, trời trở lại lạnh như sáng sớm, dưới hai mươi lăm độ. Gió chiều âm u hơn nhiều. Tôi gặp thằng bé lai Mỹ. Nó đã gỡ bỏ bông băng ở mặt, sau nửa tháng chạy chữa. Lòng tôi thắt lại khi nhìn thấy những chấm đỏ sẽ vĩnh viễn còn lại trên khoảng mặt bị bỏng của nó. Nó nghiêng mắt nhìn tôi, và tôi nhận ra thêm một điều: nó không còn đủ đôi mắt mở lớn như xưa nữa, con mắt bị bỏng nay bé hẳn lại, vành mắt đỏ hỏn, bệnh hoạn, và cứ trông cách nó nhìn thì nó bị hiếng mất rồi. Nó vẫn lũn cũn chơi với những đứa trẻ thuần Việt khác, nhưng lần này vẻ nó khác xưa nhiều, nhiều lắm. Vì trời lạnh nên mẹ mặc cho nó thêm chiếc áo len ngắn bên ngoài. Cả áo lẫn quần cũng xốc xếch. Kìa, nó vừa ngập ngừng chạy sang lề đường vừa hiếng mất nhìn chiếc xe Honđa tiến tới. Nó dừng lại bên lề đường kia, mà như dừng lại trong một thời gian vĩnh cửu không một tiếng vang vọng. Bây giờ thì tôi thấy hình ảnh tang thương của nó có đượm thêm phần nhẫn nhục, hoàn toàn hòa hợp với bối cảnh, với người và vật của đất nước khốn khổ này, quê hương khốn khổ của mẹ nó. Bên quê cha nó, người ta đã thêm một lần nữa thành công rực rỡ trong cuộc đổ bộ nguyệt cầu. Vinh quang đó ăn nhằm gì đến nó? Giờ đây nó hoàn toàn là quê mẹ, là một thành phần đương nhiên ghé vai vào gánh chịu định mệnh phủ phàng của đám con dân đương thụ quốc nạn.

oOo

Cuộc đời dày đặc những phi lý như thế đó. Thế nhân mang nặng hệ lụy như thế đó. Nhưng đâu có phải vì thế con người chỉ còn một cách nhìn và một lối đi: Chấp nhận địa ngục!

Không, đức Phật có dụ ngôn sau này về thân phận con người:

Kẻ bộ hành kia bị hổ đuổi. Y chạy đến bờ vực thì ngã xuống, một tay vớ được dây nho và cứ vậy lủng lẳng lưng chừng miệng vực. Trên đầu y, con hổ đói đuổi hụt mồi đương gầm thét; dưới chân y một con hổ đói khác cũng đương gầm thét, dán mắt ngước nhìn như muốn thôi miên chờ ý buông tay mà rơi xuống. Dây nho giữ hắn lửng lơ giữa hai con hổ đói. Hai chú chuột, một trắng, một đen (ngày đêm) bắt đầu gậm nhấm dây nho. Y biết dây nho sớm muộn rồi cũng bị gậm nhấm cho đứt. Nhưng ngay trước mặt y, sát bên thành vực, là một chùm nho mọng ngọt. Một tay nắm giữ dây nho cho khỏi bị rơi, còn tay kia y cố với hái lấy chùm nho mọng.

Nói làm sao hết được hương vị thơm đậm, hương vị ngọt ngào quý giá của trái nho mọng thưởng thức vào lúc đó!

oOo

Chẳng thể tìm đâu một minh chứng nào sáng láng hơn về bề mặt tích cực của Thiền như dụ ngôn trên của đức Phật.

Tản-Đà thực cũng đã rất Thiền với thái độ cao quý chấp nhận cuộc sống như vậy:

Giang sơn còn nặng gánh tình,

Giời chưa cho nghỉ, thì mình cứ đi.

Bao giờ trời bảo thôi đi,

Giang sơn cất gánh ta thì nghỉ ngơi.

Đời phù du, nhưng còn sống thì còn thờ cha kính mẹ, còn vun giồng tình bằng hữu nhân loại, còn tưới bón nghệ thuật để tô điểm cho đời. Nào có khác chi hành giả kia ở thế treo lơ lửng giữa hai chiều vực sâu, dây nho còn chưa đứt thì còn không quên thưởng thức chùm nho mọng ngọt. Chùm nho càng mọng ngọt khi được thưởng thức ở một hoàn cảnh như vậy.

oOo

Bên vai tôi mọc một sợi lông dài như tóc, thường thì tôi vẫn nhổ đi như nhổ một sợi tóc sâu. Rõ ràng nhổ tận rễ, mà rồi một tuần sau nó đã nhô lên, và một tháng sau, nó đã có lại chiều dài bề thế như cũ.

Thế thì thiên căn nhưng như ác căn tự đâu nhô ra? Thích hợp với môi trường nào?

oOo

Tới đây dòng tư tưởng của tôi chợt xoay chiều về một ý nghĩ: buông xả. Tôi tạm dùng nó làm lời kết thúc cho tập... (gọi là tập gì đây) cho tập giai thoại tùy bút nay. Buông xả chính là hương Thiền tỏa ra. Không ôm giữ mà buông xả! Buông xả để thể nhập chân hư. Vạn sự nhẹ thênh, vắng lặng, nhất thể.

Đọc Sử nước nhà: Trần-Thái-Tông (1198-1258) ở ngôi vua 33 năm, nhường ngôi cho con, 19 năm lãnh ra ở cung Bắc, thọ 60 tuổi.

Trần-Thánh-Tông (1240-1293) ở ngôi 21 năm, nhường ngôi 13 năm, thọ 51 tuổi.

Trần-Hưng-Đạo cả phá giặc Nguyên, cứu nước xong rồi thì về lê trượng trúc ở miền núi, rừng, sông, biển Kiếp-Bạc...

Đó là những gương buông xả. Thiền!

Phạm-Lãi giúp Việt-Vương Câu-Tiễn xong thì đi một chiếc thuyền nhỏ, ra Tề-nữ-môn, qua Tam-giang vào Ngũ-hồ...

Truong-Lương diệt bạo Tần xong lên núi khuất dạng...

Nguyễn-Trãi sau khi Thái-Tổ băng thấy còn lại triều-đình cũng không lợi gì cho nước, lại còn có thể gây sự hiềm khích, bèn trở về vui với:

Côn-Sơn có suối nước trong,

Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm.

Đó là những gương buông xả. Thiền!

Sách Cố-Học Tinh-Hoa kể truyện Khổng-tử vào miếu Hoàn-Công nước Lỗ nhìn chiếc lọ đổ nước quá đầy thì đổ bèn than rằng: "Hỡi ôi, ở đời chẳng cái gì đầy mà không đổ!" Và khi Tăng tử hỏi cách giữ sao cho đầy mà không đổ, ngài trả lời: "Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu độn, công lao to hơn thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung, sức khỏe hơn đời nên giữ bằng tính nhút nhát... Đó là cách đổ bớt đi để giữ cho khỏi đầy mà không đổ."

Âu đó cũng cùng tinh thần với lời nói của Lão-Tử: "Để thân mình lại sau, thế mà thân mình đứng trước; gác thân mình ra ngoài thế mà thân mình vẫn còn; bởi mình không có lòng riêng, nên được thỏa lòng riêng."

Đó nếp sống chân thật quân bình của Thiền!

HẾT