Chương IV SƯƠNG MÙ BÃI BIỂN
SUỐT sáu năm trời, chỗ ngồi của cha tôi vẫn bỏ trống ở đầu bàn ăn. Sự trống-trải đó không buồn-phiền và ghê-gớm bằng sự trống-trải sinh ra sau ngày tai-nạn.
Cái chết của cha tôi không đến nỗi rút chúng tôi vào cảnh bần-cùng, vì chúng tôi còn có nhà cửa và một chút đất. Tuy-nhiên mẹ tôi vẫn phải làm thêm để sinh sống.
Mẹ tôi thêu đan có tiếng trong vùng. Mũ bon-nê Thiên-Cảng là thứ mũ đẹp nhất ở miền duyên-hải nên mẹ tôi có rất nhiều khách hàng.
Anh em ông Lê-Hưng cũng nghĩ đến việc giúp-đỡ chúng tôi. Ông Cả bảo mẹ tôi:
“Cứ nửa tháng, em tôi nuôi mẹ con bà một ngày, rồi nửa tháng sau tôi lại nuôi một ngày. Hai tuần-lễ giúp bà một ngày thế cũng là cố-gắng lắm.”
Có thế thôi. Thì ra mạng một người cũng không đắt lắm.
Ngày ấy, ít nhà có đồng-hồ người ta căn-cứ vào mặt trời để làm việc. Tôi đi học một buổi sáng và chiều là những lúc tôi ở nhà. Nếu mẹ tôi đi vắng thì tôi đi chơi thả cửa. Sở-thích nhất của tôi là đi la-cà trên bờ đập lúc nước triều lên và lang-thang ngoài bãi lúc nước triều xuống.
Một buổi nước triều lên to, tôi trốn học đi chơi. Một sự gặp-gỡ bất-ngờ xẩy đến đã định-đoạt đời tôi. Ngày ấy là cuối tháng chín. Nước triều thứ sáu sẽ rút mạnh để lộ những núi đá con mà đã từ lâu bị nước phủ không trông thấy. Sáng thứ sáu đáng lẽ đi học, tôi trốn ra bờ biển ngồi. Trong khi đợi nước xuống, tôi lấy bánh ra ăn. Còn hai giờ nữa nước triều mới rút.
Nước biển dâng đầy và đứng lặng lâu quá. Tôi nóng cả ruột. Sau cùng nước rút ào-ạt rất nhanh. Tôi giấu cặp sách và guốc của tôi vào một hốc đá rồi chạy theo nước ra bãi biển.
Bãi biển phần nhiều là cát, nhưng thỉnh-thoảng có những mô đá lổm-nhổm đâm lên, vì thế lúc nước triều lên trông như một đám cù-lao nhỏ đen đen. Khi tôi đang đứng cạnh một hòn để bắt cua nấp trong những đám rong, bỗng nghe có tiếng gọi.
Kẻ có tật hay giật mình. Tôi luống cuống. Nhưng khi trông ra, tôi hết sợ vì người vừa gọi tôi đó không có phận-sự đuổi tôi về trường. Đó là một ông già râu dài và bạc mà ở đây ai cũng gọi là ông Chủ-nhật vì ông có một người đầy-tớ gọi là anh Thứ Bẩy. Chính tên ông là Biên-Gia ở tại một cù-lao nhỏ cách Thiên-Cảng độ 15 phút. Ông có tiếng là một người kỳ-cục mà quanh vùng này ai cũng biết. Ông có một cái dù to lúc nào cũng che lên đầu. Ông thích cái tịch-mịch, tính ông rất tốt và cũng rất sẵn sàng đối với mọi người.
Ông hỏi:
– Này bé! Mày làm gì thế?
– Tôi bắt cua.
– Thôi, để cho nó yên, lại đây với ta. Xách túi cho ta, mày sẽ không phải phàn-nàn đâu. Tên mày là gì?!
– Do-Mạnh, họ Can.
– A! Thế ra mày là con ông Can-Bích đã bỏ mình năm ngoái vì cứu một chiếc tàu bị bão. Cha mày đáng là một người.
Tôi hãnh-diện vì cha tôi. Lời nói đó làm cho tôi rất bằng lòng ông Biên-Gia.
Ông xoa đầu tôi và nói:
– Mày mới mười tuổi. Hôm nay thứ sáu và đúng buổi trưa, mày chơi ở đây, đích là trốn học rồi.
Tôi đỏ mặt nhìn xuống đất.
Ông nói tiếp:
– Mày trốn học, ta biết, để làm gì rồi. Đừng run sợ, ta không phải là thày bùa. Hãy nhìn ta. Mày rình nước triều để bắt cá.
– Thưa ông, đúng thế. Và tôi còn muốn đi xem Hòn Đầu-Chó.
Hòn Đầu-chó là một mô đá ít khi lộ ra.
– Ta cũng thế. Ta đi ra Hòn Đầu-Chó. Vậy xách túi theo ta.
Tôi yên lặng theo ông.
Mặc dầu tôi không muốn nói, ông cứ bắt tôi trả lời về những câu ông hỏi tôi luôn miệng. Tôi cứ lẽo đẽo theo ông để làm việc trả lời. Không đầy 15 phút, ông đã hiểu hết mọi chuyện về tôi, về cha tôi, về mẹ tôi, về gia đình tôi. Khi tôi nói đến chuyện Bác tôi ở Ấn-Độ thì ông thích nghe lắm.
Ông nói:
– Thực là lạ lùng. Đó là một người có óc mạo-hiểm lớn, máu Noóc-Măng hòa với máu Phê-Ni-Xi có khác. Không biết giòng họ Can từ đâu đến.
Trong khi hỏi chuyện tôi, ông không quên nhìn xuống mặt bãi chúng tôi đang đi và thỉnh thoảng lại sai tôi nhặt những con ốc hay những cỏ lạ bỏ vào trong túi gai.
Gặp mỗi con ốc hay mỗi ngọn cỏ, ông lại hỏi tôi:
– Tên nó là gì, mày có biết không?
Tôi cứ như người câm vì tôi có quen những thứ ốc, thứ cỏ ấy thực, nhưng không biết tên.
Ông phát cáu, bảo tôi:
– Mày là con những dân ở đây phải lắm. Đối với họ, biển chỉ giỏi nghề cướp phá. Chính là kẻ thù muôn thuở phải chống chọi. Không bao giờ họ nghĩ rằng biển là một người mẹ nuôi dưỡng ta cũng như đất.
Xong ông chỉ vào một hốc đá đầy nước và gọi tôi:
– Lại đây. Ta phải cho mày biết qua thế nào là biển. Cái này là cái gì?
Ông chỉ cho tôi một thứ cây thân sắc hung, gốc bám vào đá, trên đầu có một loa vàng chung quanh có những tua trắng như tuyết.
– Đó là một loài cỏ hay loài vật? Mày không biết, phải không? Nó chính là con vật. Nếu ta có thì giờ đứng đây lâu, ta sẽ trông thấy nó tách ở chỗ này để rồi ra chỗ khác. Chứ những bông hoa mày đã biết, có đi được bao giờ? Mày hãy nhìn gần xem những cái như cánh hoa nó duỗi ra, co vào và đưa đẩy được. Các nhà bác-vật gọi nó là hải-quì. Muốn tin chắc đó là con vật, bây giờ mày cố kiếm một con tôm. Mày vẫn biết một bông hoa không biết ăn bao giờ, có phải không?
Xong, ông cầm con tôm tôi đã bắt được ném vào giữa cành hoa hải-quì, cành hoa từ từ cúp lại và con tôm bị nuốt biến.
Trong một cái hố nước gần đấy tôi trông thấy một con cá đuối con. Nó chúi vây vào cát để ẩn nhưng những đốm nâu và trắng ở mình nó làm cho tôi nhận ra. Tôi bắt đem cho ông Biên-Gia.
Ông nói:
– Mày bắt được con cá này vì mình nó đốm, nên mày mới biết. Chính những đốm ấy đã vô-tình mách những con ác-ngư khác. Ở dưới đáy biển luôn luôn có một cuộc chiến-tranh toàn-diện trong đó kẻ nọ giết kẻ kia, cũng như thuờng xẩy ra ở trên mặt đất, mục-đích chỉ để thỏa ý thích hay để lấy tiếng mà thôi. Những con cá đuối khốn-nạn kia bơi vụng nếu tạo-hóa không phú cho cách thủ-thân thì đã hết giống rồi. Mày nhìn kỹ đuôi nó xem, có những gai nhọn như mũi giáo đâm ra tua tủa. Khi chạy nó giương đuôi ra để chống đỡ, quân thù đứng trước bức chắn đó đành chịu rút lui. Đó là qui-luật quân-bình trong vũ-trụ mà mày có thể nhận thấy hôm nay, rồi mai hậu mày sẽ hiểu thấu.
Nghe giảng, tôi lấy làm thích thú, sự dút-dát bỗng dưng biến mất.
Tiến theo mực nước xuống, chúng tôi đi mãi và tới Hòn Đầu-Chó. Dừng lại ở đó bao lâu, tôi không biết vì tôi không nghĩ đến thì-giờ. Tôi nhảy từ mỏm đá này đến mỏm đá kia, tôi mang về cho ông Biên những ốc hến và những cây cỏ mà tôi mới nhìn thấy lần thứ nhất. Thấy cái gì lạ là tôi nhét vào túi để rồi lại vứt đi lấy chỗ cho các vật khác kỳ-dị hơn.
Chợt trông lên, tôi không thấy bờ biển đâu cả, vì nó bị một làn sương mỏng che khuất. Nền trời xanh xám lại. Biển ở sau lưng chúng tôi im lặng như tờ.
Nếu tôi có một mình thì tôi đã trở về ngay vì tôi biết sương xuống rất khó tìm lối trên bãi cát mênh-mông. Nhưng thấy ông Biên không nói gì, tôi cũng không dám nhắc.
Lúc đó làn sương ở bờ biển lan dần về phía chúng tôi như một đám khói xanh từ mặt đất bốc thẳng lên trời.
Ông Biên nói:
– A! Nhiều sương quá. Nếu chúng ta không muốn chơi một trò “bịt mắt” nguy hiểm thì nên trở về. Mày xách túi cho ta.
Nhưng ngay lúc đó, một đám mây kéo đến và vượt qua chúng tôi. Chúng tôi chẳng nhìn thấy gì nữa, không trông thấy bờ, không trông thấy biển đâu nữa, mặc dầu biển chỉ cách chỗ chúng tôi chừng năm mươi bước.
Ông Biên bình-tĩnh nói:
– Biển ở đây kia. Chúng ta cứ việc đi thẳng mà về.
Nhưng đi thẳng trên bãi cát không nhắm cái gì để làm đích thì đi làm sao? Hơn nữa chúng tôi ở cách bờ có tới nửa dặm đường.
Đi chưa được mười phút, chúng tôi lại bị một đám đá chắn ngang.
Tôi nói:
– Đây là Hòn Xanh.
Ông Biên bảo:
– Đây là Hòn Bản.
Tôi cãi:
– Thưa ông. Hòn Xanh.
Ông lấy tay sẽ đập vào má tôi và bảo:
-A! Bướng nhỉ?
Nếu đám đá ấy là Hòn Xanh, chúng tôi chỉ có việc đi ven đám đá ấy về tay phải là đến gần Thiên-Cảng. Trái lại, nếu là Hòn Bản, chúng tôi phải đi về tay trái thì mới không sợ quay lưng vào làng.
Ban ngày, hai hòn đá ấy dễ phân biệt lắm, cả ban đêm nếu có ánh trăng cũng nhận được.Nhưng trong buổi sương mù này, chúng tôi chỉ nhìn thấy một đống đá rong phủ đứng lù lù. Có thể thôi.
Ông Biên nói:
– Thử lắng tai xem. Tiếng động ở trên bờ sẽ chỉ đường cho ta.
Chúng tôi cố lắng tai nhưng chẳng nghe thấy tiếng gì cả, tiếng trên bờ cũng không, mà tiếng dưới biển cũng chẳng có. Không có một hơi gió. Chúng tôi như bị chìm đắm trong đám bông trắng nó nút hết tai, bịt hết mắt chúng tôi.
Ông Biên nói:
– Chính là Hòn Bản.
Tôi không dám cãi thêm nữa, ngoan-ngoãn theo ông và quay sang bên trái.
Ông ôn-tồn nói:
– Mày đi gần lại đây. Đưa tay ra dắt để hai người khỏi rời nhau. Một, hai! Một, hai! Chúng ta bước đều.
Đi được độ 10 phút, tôi thấy tay ông siết mạnh tay tôi. Chúng tôi nghe thấy tiếng nước vỗ nhẹ. Chúng tôi nhầm rồi. Đám đá ấy là Hòn Xanh. Chúng tôi đã tiến thẳng ra biển.
Ông Biên nói:
– Mày nói đúng, đáng lẽ phải rẽ về tay phải. Bây giờ ta lộn lại đi.
Lộn lại chỗ nào? Biết đi phía nào bây giờ?
Trời mỗi lúc một mờ thêm vì lớp sương đã dầy lại thêm bóng đêm bắt đầu xuống. Từ nãy, chúng tôi đã không nhìn rõ đầu ngón chân chúng tôi, mà ông Biên cũng không sao xem được đồng-hồ. Lúc đó chừng 6 giờ: nước triều bắt đầu lên.
Ông nói:
– Chúng ta phải rảo bước. Nếu sóng đến chân, nó sẽ vượt ta ngay vì nó có «giầy bảy dặm».
Thấy tay tôi run run, ông biết tôi sợ. Ông nói:
– Con ơi! Đừng sợ. Gió sẽ nổi từ trong đất và khua hết sương mù ra biển. Vả lại ta sẽ trông thấy Hải-đăng sắp thắp bây giờ.
Câu đó không làm cho tôi yên dạ vì tôi đã biết không sao nhìn thấy ánh Hải-đăng được. Trước đây mấy phút, tôi đã nhớ đến ba người đàn bà năm ngoái ra bãi cũng gặp nạn sương mù như chúng tôi và bị chết đuối cả. Tôi liền khóc hu hu. Ông Biên không giận-dữ, an-ủi tôi bằng những câu ngọt-ngào.
Ông bảo tôi:
– Chúng ta kêu to lên may ra có lính đoan trên bờ nghe thấy, họ sẽ trả lời.
Chúng tôi kêu: ông gào to, tôi vừa kêu vừa khóc. Chả có ai trả lời cả. Tiếng vang cũng không.
Ông nói:
– Chúng ta cứ đi. Con còn đi được không?
Ông kéo tay tôi và chúng tôi đi bâng-quơ. Tôi nhận thấy ông cũng buồn và không tin vào lời nói của mình.
Đi được độ nửa giờ dài dằng-dặc, tôi hoàn toàn thất-vọng, buông tay ông ra và ngồi phịch xuống bãi.
Tôi vừa khóc vừa nói:
– Thưa ông, xin ông bỏ cháu ở đây để cho cháu chết.
– Có thể nào người ta chết được khi người ta còn có một người mẹ? Thôi con đứng dậy. Lại đây với ta.
Nhưng tôi cứ ngồi yên không nhúc-nhích.
Chợt tôi kêu lên một tiếng:
– Ông ơi
– Gì thế, con?
Tôi kéo bàn tay ông áp xuống mặt cát bên cạnh tay tôi và hỏi:
– Ông thấy gì không? Nước đấy!
Bãi biển miền chúng tôi toàn cát sâu và dễ ngấm nước khi thủy-triều rút rồi, cát nhả dần nước ra. Những sợi nước đó họp lại thành mạch nhỏ chẩy ngầm ta không nhìn thấy. Nó theo sườn bãi mà ra biển. Chính bàn tay tôi đã ngăn trúng một mạch nước đó.
Tôi giơ tay về đầu chiều nước và nói:
– Bờ biển ở đằng này.
Rồi tôi đứng phắt dậy. Hỵ vọng đã trả lại sức cho chân tôi.
Tôi đi trước. Thỉnh-thoảng lại cúi xuống áp bàn tay vào mặt bãi dò chiều nước và đi ngược lên.
Ông Biên khen tôi:
– Con là đứa trẻ thông-minh. Không có con chắc-chắn là chúng ta bị lạc.
Lát sau, tôi không dò thấy nước, ông lộ ý lo-sợ. Chúng tôi đi vài bước nữa, tay tôi sờ xuống thấy toàn cát khô:
– Không thấy nước nữa.
Ông liền cúi xuống và sờ bằng cả hai tay, chỉ thấy cát ẩm dính vào các ngón tay.
Ngay lúc đó tôi nghe hình như có tiếng nước vỗ bập-bềnh đâu đây.
Ông Biên nói:
– Con nhầm rồi, chúng ta đi ra biển.
– Thưa ông, không. Nếu chỗ này gần biển tất cát phải ướt hơn
Ông không nói gì và đứng dậy. Chúng tôi phân-vân. Lại bị lạc một lần nữa. Ông rút đồng-hồ ra. Tối quá không nhìn thấy kim, ông vặn chuông. Nó đánh sáu giờ ba khắc.
– Nước lên hơn một giờ rồi.
-Thưa ông, nếu thế thì chúng ta gần đến bờ rồi.
– Đây là cái rạch ở trước mặt ta.
– Cháu cũng nghĩ thế.
Thực vậy, bãi biển có nhiều “cát động” nên không bằng phẳng lắm. Đây đó có những cồn nổi lên. Cáị nọ cách cái kia bằng những lũng nhỏ. Khi nước triều lên, những lũng đó bị ngập trước tiên còn cồn thì khô như những trái cù-lao. Nước tràn từ lũng nọ sang lũng kia như một con sông con. Chúng tôi đang đứng trước một con sông con đó. Nó có sâu không? Tất cả vấn-đề là ở đó.
Ông Biên bảo tôi:
– Chúng ta lội di. Con nắm chặt tay ta..
Tôi ngập ngừng, ông bảo:
– Con sợ ướt à? Một đằng ướt chân, một đằng ướt đầu, con muốn đằng nào? Ta, ta muốn ướt chân hơn.
– Thưa ông, không. Lội thì chết đuối mất.
– Thế chịu đứng đây để sóng biển cuốn đi à?
Tôi xuống nước. Vì tôi thấp quá, không có cái thân cao như ông Biên nên không mấy lúc mà chân không tới đất. Nhưng không sao, tôi bơi giỏi như cá. Lát sau, chúng tôi đã ra khỏi nước và lên được bãi rồi. Ông thở khoan-khoái, tỏ rằng ông đã lo-sợ biết bao nhiêu.
Ông nói:
– Ta hãy làm một điếu thuốc, vì đáng được thưởng công.
Ông vừa sờ vào thuốc thì kêu lên:
– Thuốc thành bã cà-phê cả rồi! Còn cái đồng-hồ nữa, chắc nó đang xoay trong nước như bánh xe cối xay! Anh Thứ Bẩy thấy thế sẽ nói gì?
Ông vui, tôi cũng hết sợ. Tai-nạn đã thoát được rồi.
Nhưng chưa thoát được. Quãng đường về còn dài hơn nhiều quãng đường đã vượt qua. Mà chúng tôi vẫn bị bao vây bởi những mối hiểm-nghèo như trưởc.
Lớp sương vẫn dầy thêm. Đêm đã xuống. Trước mặt chứng tôi ; một trạng-thái yên-lặng nặng-nề. Sau lưng chúng tôi tiếng nước triều dâng đùng-đùng. Đó là cái địa-bàn duy-nhất của chúng tôi, lúc bấy giờ, nhưng nó không được thực lắm và dễ phản-bội chúng tôi.
Qua rạch rồi, chúng tôi dần dần thất vọng. Thình-lình, chúng tôi đứng dừng cả lại. Một tiếng chuông xé tan bầu không-khí bao-bọc chúng tôi.
Hai, ba giây sau, chúng tôi nghe thấy tiếng thứ hai rồi tiếng thứ ba.
Đó là chuông cầu kinh buổi tối ở nhà Thờ Thiên-Cảng. Cứ đi thẳng về phía có tiếng chuông phát ra là chúng tôi thoát nạn. Chúng tôi cắm đầu chạy.
Ông Biên bảo tôi:
– Chạy nhanh lên. Chuông cầu kinh không dài đâu.
Xúc-động quá, chúng tôi chạy không kịp thở, tai vẫn đếm từng tiếng chuông. Nếu chuông dứt mà chúng tôi chưa tới được bãi sỏi thì vẫn có thể bị lạc như thường.
Chuông im. Chúng tôi vẫn trơ-vơ trên bãi cát, kinh hãi vô cùng. Chúng tôi chỉ còn mong gió đánh tan sương mù để tìm ánh Hải-đăng. Nhưng sương xuống mỗi lúc một dầy, đợi gió lên, có mà phép lạ.
Phép lạ hiện ra thật. Chuông thôi đánh rồi bỗng lại rung liên tiếp.
Đó là chuông lễ “Rửa tội”. Lần này chắc-chắn chúng tôi về đến nơi. Chuông lễ rửa tội thường kéo dài đến nửa giờ có khi hơn tùy theo người cha đỡ-đầu dàn-xếp để tăng sức cho người kéo chuông.
Không đầy mười phút, chúng tôi tới bãi sỏi, rồi đến con đường nối cù lao của ông Biên với bờ biển. Chúng tôi thoát chết.
Ông Biên bảo tôi vào nhà ông nhưng tôi từ-chối. Tôi cần về, có lẽ ở nhà mẹ tôi đang mong.
Ông nói:
– Vậy con về và nói với má con là chiều mai ta sẽ đến thăm.
Lòng tôi không muốn có cái cuộc đến thăm ấy vì ông sẽ kể hết với mẹ tôi chuyện tôi trốn học đi chơi.
Khi tôi đến nhà thì mẹ tôi chưa về. Lúc mẹ tôi về thì đã thấy tôi mặc quần-áo khô ngồi bên lò lửa mà tôi đã nhóm.
Chiều hôm sau, đúng lời hẹn, ông Biên đến chơi. Tôi đứng rình ngoài cửa, nghe thấy tiếng người bước vào, tôi định lẩn trốn.
Sau khi an toạ, ông hỏi mẹ tôi:
– Cháu đã kể cho bà nghe những việc cháu đã làm hôm qua chưa?
– Thưa ông, không!
– Cháu trốn học suốt ngày hôm qua.
Mẹ tôi buồn rầu nhìn tôi và nói:
– Thằng Mạnh, giỏi thực!
Ông Biên đỡ lời:
– Bà đừng mắng cháu. Cháu trốn học thực nhưng đồng thời cháu đã cứu tôi thoát chết. Bà có đứa con khá lắm. Bà có thể tự hào được, bà ạ.
Rồi ông kể tại sao ông gặp tôi và chúng tôi đã bị sương mù làm lạc lối thế nào.
Ông tiếp tục:
– Thưa bà, bà xem nếu không có cháu, tôi đã bị nạn rồi, phải không? Lúc đầu tôi không bằng lòng cháu vì cháu dốt, không biết tên một giống hải-quì. Nhưng đến khi nguy-hiểm, khoa-học của tôi không dùng được việc gì cả. Nếu không nhờ cái thiên-tính của cháu giúp tôi thì những con hải-quì, con cua, con tôm hùm trong giờ phút tnày đang nghiên-cứu khoa giải-phẩu trên thân thể tôi. Tôi đã chịu một ơn lớn với con bà. Tôi muốn đền đáp lại.
Mẹ tôi tỏ vẻ sửng-sốt.
Ông nói:
– Xin bà đừng ngại. Điều tôi đề-nghị cùng bà đây rất xứng-đáng với lòng hào-hãnh của bà. Tôi đã chuyện trò cùng cháu, biết cháu là một đứa trẻ thích xem và thích biết. Bà hãy cho cháu để tôi nuôi. Tôi xin đảm-nhận việc giáo dục cháu. Tôi không có con, tôi rất yêu trẻ. Ở với tôi, cháu sẽ không khổ đâu.
Mẹ tôi nhận lời là phải, nhưng lại từ-chối.
Ông Biên giơ tay về phía mẹ tôi và nói:
– Xin phép bà, tôi nói tại sao bà muốn giữ cháu lại, bà yêu cháu lắm. Bà yêu cháu hơn nữa vì cha cháu mới mất. Từ nay bà chỉ sống vì cháu nên không muốn rời cháu, có phải thế không, thưa bà? Bây giờ tôi lại nói tại sao bà nên cho cháu để tôi nuôi: cháu có một trí thông minh lạ thường cần được mở mang mà ở Thiên-Cảng này thì không làm sao được. Bà hãy nghĩ đến điều đó. Xin bà tĩnh tâm mà nghĩ. Chiều mai tôi sẽ lại.
Khi ông Biên ra rồi, chúng tôi ngồi vào ăn Nhưng mẹ tôi không ăn. Mẹ tôi cứ nhìn tôi. Khi tôi trông lên thì mẹ tôi lại nhìn lảng ra lò sưởi.
Khi đi ngủ tôi lại chào mẹ tôi thì tôi thấy nước mắt mẹ tôi rơi xuống má tôi.
Tôi hôn mẹ tôi và nói:
– Mẹ ơi! Mẹ đừng khóc nữa. Con không rời mẹ đâu.
– Phải rời mẹ, con ạ. Ông Biên-Gia nói quá phải, mẹ không thể từ chối được.