← Quay lại trang sách

Chương X LÀM XIẾC

Tôi nghiễm-nhiên thành nhân-viên của gánh xiếc, nói một cách khiêm-tốn hơn thì tôi là bồi ngựa cho gánh xiếc của Bá-Tước Bô-La.

Mặc ai bàn tán xì-xào, ông chủ tôi quyết không phải là một vị Bá-Tước giả-hiệu. Ông có bằng-sắc hẳn-hòi, gặp những dịp tốt ông thường đem ra phô-trương để tỏ rằng ông có quyền mang cái tước quí đó. Chỉ vì quá chơi bời phóng túng, ông bị tụt xuống địa-vị hiện-thời. Trong những ngày cùng khổ, ông không nghĩ gì đến dòng sang của mình ông dám đi lấy một mụ diễn trò rong. Mụ này nổi tiếng ở các phiên chợ là có cái thân hình to lớn như Hộ-Pháp và có tài múa kiếm. Nhờ nghề này mụ có một cái vốn khá to làm mê-muội Bá-Tước. Còn Bá-Tước tiền không có, nhưng có tài biện-thuyết, ít ai bì kịp. Mụ Hộ-Pháp và Bá-Tước liền cộng-tác với nhau. Đôi tài-tử tốt đẹp này mua một gánh xiếc đi biểu-diễn các nơi. Lúc đầu kiếm ăn cũng khá, nhưng cái nó làm cho Bá-Tước lợi cũng là cái nó làm cho Bá- Tước hại, tức là cái mồm của Bá-Tước, vì Bá-Tước thích ăn của ngon và uống rất nhiều rượu. Những vật lạ trong gánh, con thì thiếu săn sóc, hoặc bị đói mà chết, con thì đem bán lại để lấy tiền tiêu xài. Lúc tôi đến thì gánh xiếc chỉ còn một con sư-tử già, hai con chó sói, một con rắn và một con ngựa làm trò, vẫn dùng để kéo xe

Trong bữa ăn chiều, tôi được làm quen với mọi người. Trừ ông bà Bô-La ra, gánh xiếc gồm có anh Hề Bôn, anh Bùi, anh Phi mà tôi đã biết, hai người Đức là anh Hệ-Man thổi kèn và anh Ca-Rô đánh trống; sau cùng là Diệp-Lan, một cô gái 11, 12 tuổi, thân hình mảnh-dẽ nhưng ánh mắt biêng-biếc như nước mùa thu. Theo lời Bá-Tước thì cô là một đào danh tiếng của gánh Bô-La.

Mặc-dầu tôi là một tên bồi hèn mọn, tôi cũng được ngồi ăn cùng “bàn” với các nhân-vật trứ-danh đó.

Nói là “bàn” thì không đúng vì cái mà chúng tôi để đồ ăn lên trên chính là một cái két bằng gỗ ván rộng và dài đặt ở giữa sàn xe. Nó dùng được ba việc: bên trong để xếp quần-áo, bên trên ban ngày thì dùng làm bàn ăn, đêm đến phủ thêm tấm nệm dùng làm giường ngủ cho Diệp-Lan. Chung quanh cái két đó, là những thùng gỗ thấp dùng làm ghế cho người làm ngồi, còn hai cái ghế dựa là chỗ của ông chủ và bà chủ. Qua hai cái cửa sổ treo rèm đỏ, người ta có thể trông ra những cây ở hai bên đường.

Phòng ăn của chúng tôi có thế thôi nhưng trông cũng ra tuồng, nhiều nhà ở Ba-Lê dám chắc không được có cái phòng ăn rộng-rãi như thế.

Tôi lại phải kể lại chuyện tôi cho mọi người nghe. Lần này tôi không nói đến mẹ tôi, chú tôi và quê quán tôi. Khi tôi kể đến chỗ gặp Cảnh-binh, Diệp-Lan phì cười và cho tôi là ngốc. Nếu ở địa-vị tôi, lúc đó cô đã lấy làm thích-thú lắm. Hai anh âm-nhạc cũng nhìn tôi và cười ngoặt-ngoẹo. Khi ăn xong, trên trời còn chút ánh sáng yếu-ớt.

Ông Bô-La bảo chúng tôi:

– Các con ơi! Hãy lợi-dụng những giờ phút chưa tối để luyện tập đi. Ngồi rỗi, những bắp thịt sẽ gỉ mất.

Ông liền bước sang cái sàn hẹp ở phía sau phòng ăn. Diệp-Lan đem theo tẩu thuốc lá. Phi và Bùi lăn xuống đám cỏ vệ đường một cái hộp nhỏ có nắp. Rồi Phi cởi áo ra. Sau khi co duỗi tay chân và vặn-vẹo cái đầu như muốn dứt đứt ra, anh mở nắp hộp, ngồi vào và biến mất. Tôi há hốc miệng, kinh dị vì cái hộp kia bé quá giá bỏ một đứa trẻ lên một vào cũng không vừa.

Xong đến lượt Bùi. Anh cố xếp mình vào trong hộp mà không lọt. Đứng trên sàn xe, ông Bô-La cầm roi quất đến véo một cái vào vai anh và bảo:

– Mày ăn lắm nên không lọt. Mai ta sẽ hạn chế khẩu-lương của mày.

Rồi ông quay lại bảo tôi:

– Bây giờ đến lượt mày.

Tôi giật lùi lại ba, bốn bước để tránh tầm roi của ông. Tôi hỏi:

– Thưa ông, vào trong này à?

– Chưa được. Mày cho ta xem mày biết những nghề gì? Thử nhẩy qua cái hố này, coi.

Cái hố ở cạnh đường rộng và sâu. Tôi lùi lại mấy bước lấy đà rồi nhẩy đại. Thành ra lại nhẩy xa hơn miệng hố được hai bàn chân.

Mặt ông Bô-La tươi hẳn lên và nói tôi có thể tập “đu bay” được.

Chiếc xe thứ nhất dành cho ông bà chủ. Xe thứ hai chở thủ vật. Xe thứ ba dùng làm chỗ ngủ cho đoàn và chỗ chứa những dụng-cụ. Trong xe không đủ chỗ cho tôi ngủ, người ta vứt cho tôi hai bó rơm và tôi rải ổ ở gầm xe.

Tuy cái ổ rơm này tốt hơn chỗ nằm trong những đêm trước nhưng tôi cứ thao-thức mãi, không sao chợp mắt được. Đèn tắt. Đêm vắng lặng. Thỉnh-thoảng tôi chỉ nghe thấy tiếng chân ngựa – buộc ở cạnh xe – bước quanh quẩn để gặm những túm cỏ nhuốm bụi đường, có lúc tôi nghe thấy tiếng thở dài của con sư-tử, phải chăng cái lặng-lẽ và cái khí nóng của đêm hè làm cho nó nhớ lại cảnh hiu-quạnh của rừng rú châu Phi. Có lúc tôi nghe thấy đuôi nó quất mạnh vào hai bên sườn hình như một tia dũng-cảm chợt lòe ra trong óc tối-tăm của nó, nhắc nó những chuyện quật-khỏi và tự-do.

Nó bị giam kỷ trong chuồng. Tôi, tôi được ở ngoài trời. Tôi đã nghĩ nhân dịp này, tôi nên trốn là hơn. Nhưng cái áo này, cái quần này của ông Bô-La cho tôi, nếu trốn phải đeo cả đi. Như thế là ăn cắp, lương-tâm tôi không yên, vì tôi đã bằng lòng ở đây giúp việc cho chủ mới của tôi. Vả lại xem ra ông ta cũng không đến nỗi ác lắm như chú tôi. Tôi định ngày nào mà công-việc của tôi đã làm xứng đáng với cái nợ phải trả, ngày đó, tôi sẽ có quyền tìm tự-do.

Hôm sau, gánh xiếc chúng tôi đến chợ Huy-Ba. Chính ở đây, là lần thứ nhất, tôi được xem Diệp-Lan vào chuồng sư- tử và tôi được nghe ông Bô-La biện-thuyết.

Quần-áo trong hòm được lấy ra. Diệp-Lan mặc một cái áo chùng màu bạc có những vảy vàng lấp-lánh, đầu đội một vòng hoa hồng. Các bạn tôi, anh Phi, anh Bùi quần-áo đỏ, mũ nhọn đỏ. Hai người Đức ăn mặc kiểu kỵ-binh Ba-Lan, mũ gài những chùm lông dài rủ xuống đến mắt. Còn tôi phải trá hình thành Mọi da đen. Người ta bôi đen từ bàn tay tôi lên đến khuỷu, từ đầu tôi xuống đến ngực, Tôi đóng vai một tên nô-lệ Châu Phi, ở sa-mạc về với con sư-tử. Người ta cấm tôi không được nói một tiếng Pháp nào. Nếu có ai hỏi, tôi chỉ được trả lời bằng một nụ cười để lộ bai hàm răng trắng ởn. Trước sự hóa-trang ấy, giá mẹ tôi có trông thấy cũng không tài nào nhận ra được tôi. Chính ông Bô-La định tâm làm thế, vì ông sợ trong đám công-chúng đến xem lỡ có người đồng-hương nhận ra được tôi chăng.

Đã hai tiếng đồng-hồ rồi, chúng tôi khua trống, thổi kèn làm đinh tai nhức óc cả đến những người điếc.

Sau bài hát mở màn của Hề Bôn, Diệp-Lan nhẩy múa một bài với Bùi. Đến lượt ông Bô-La mặc sắc-phục Đại-Tướng ra sân-khấu. Khán-giả đến xem đông lắm. Chúng tôi trông xuống thấy toàn những mũ vải trắng xóa của dân địa-phương hoa cả mắt. Đại-Tướng giơ tay, âm-nhạc ngừng hẳn. Xong, Đại-Tướng quay sang phía tôi đưa điếu xì-gà đang hút dở và nói:

– Giữ lấy để ta nói chuyện.

Tôi ngơ-ngác nhìn Đại-Tướng, bỗng ở phía sau có một bàn chân đá vào mông tôi. Rồi Bôn nói to:

– Thằng ngốc quá. Đại-Tướng cho nó điếu thuốc, nò còn làm bộ!

Công-chúng lấy thế làm thích, vỗ tay cười ran.

Tôi chưa từng hút thuốc bao giờ, không biết hút vào hay thổi ra nhưng không phải là lúc để giải-thích, Bôn một tay kéo cằm tôi ra, một tay xách mũi tôi lên, tôi há hốc mồm, Đại-Tướng liền cắm điếu xì-gà vào mồm tôi. Chắc là lúc đó mặt tôi nhăn lại kỳ lắm, nên tôi thấy khán-giả cười rũ ra.

Chợt Đại-Tướng cất cao mũ lên, cả rạp im-lặng.

Đại-Tướng nói:

– Thưa quý-vị, quý-vị trông đây, trước mặt quý-vị là nhà danh-tiếng Bô-La. Vậy Bô-La là ai nhỉ? Là anh nói róc đang khoác bộ áo Đại-Tướng phải không? Chính phải. Chắc quý-vị đều tự hỏi tại sao một người danh tiếng như thế lại ăn vận một cách ngộ-nghĩnh như vậy? Thưa các ngài, đó là để mua vui cho các ngài. Bởi vì các ngài nếu đứng riêng ra thì đều là những vị khôn-ngoan, nhưng khi tụ lại thành đám đông thì lại là những người khờ-dại.

Có những điệu-bộ bất mãn và những tiếng lẩm-bẩm trong hàng các khán-giả. Ông Bô-La không rối-trí, bình-tĩnh rút điếu xì-gà ở miệng tôi cầm lên hít vài khói rồi lại đưa vào miệng tôi làm cho tôi rất khó chịu, ông nhìn xuống và nói:

– Kìa dưới kia có ông đội mũ trắng và mũ đỏ đang lẩm-bẩm phải không? Phải, vì lẽ tôi bảo khi ở nhà thì ông khôn ngoan lắm, nhưng, khi đến rạp này thì ông là người khờ dại. Vậy tôi xin lỗi ông: ở nhà ông là người khờ-dại, đến đây ông là người khôn-ngoan, có phải thế không?

Cả rạp cười ồ. Khi đã ngớt ồn-ào, ông Bô-La nói tiếp:

– Thực vậy, nếu tôi không mặc giả làm Đại-Tướng, thì đáng lẽ ngồi đây với những con mắt tròn xoe như hòn bi để nhìn tôi, quý-vị đã bước qua rạp không thèm vào. Tôi biết nhân-loại lắm và biết rõ nhân-loại có những nhược-điểm gì. Vì thế tôi đã phải sang tận nước Đức để tìm hai nghệ-sĩ trứ-danh mà quý-vị đã trông thấy đây. Tôi lại tuyển vào gánh của tôi tài-tử Phi, tài-tử Bùi có những thành-tích rực- rỡ mà quý-vị đã biết. Sau là Hề Bôn một tài-hoa lỗi-Iạc mà tôi không cần phải nói dài vì quý-vị đã nghe tiếng hát bất-hủ. Bây giờ chắc quý-vị nóng lòng lắm, muốn hỏi: “Cái ông Bô-La kia muốn trình-bày trò gì?”

– Thưa các ông nghệ-sĩ, xin các ông cho nghe một bản.

Cứ một diễn-từ phĩnh-phờ đó, đến đâu ông cũng lặp lại chỉ cần đổi một vài danh-từ cho hợp với địa-phương, hợp với khán-giả. Tôi có thể nhắc lại bài đó đủ từng tiếng không sai sót. Nghĩ thật buồn cười: những cái vớ-vẩn lắm khi dễ in sâu vào óc người ta, mà những điều bổ-ích thì học mãi cũng không vào.

Tuy-nhiên ngày hôm đó, tôi chỉ nghe rõ có phần thứ nhất của bài diễn-từ thôi vì khói xì-gà làm cho tôi nôn-nao, choáng-váng. Khi tôi bước vào lều thú vật thì tôi thấy trong người ngây-ngất, đứng không vững. Phần việc của tôi là phải mở cửa chuồng khi Diệp-Lan bước vào lều.

Tôi trông lờ-mờ thấy bóng Diệp-Lan tiến vào trong đám sương mù trước mặt tôi. Một tay nàng cầm cái roi, còn tay kia nàng giơ lên để yêu chào khán-giả. Hai con chó sói bước khập-khễnh lộn đi lộn lại trong chuồng. Con sư- tử nằm dài, đầu gục trên hai chân như đang ngủ.

Nàng ra lệnh:

– Mọi, mở cửa ra.

Tôi ngoan-ngoãn mở cửa chuồng.

Nàng bước vào. Con sư-tử không nhúc-nhích. Với đôi bàn tay nhỏ-nhắn, nàng liền cầm hai tai sư-tử kéo đầu nó lên, nàng hết sức kéo nhưng nó vẫn không động đậy. Nàng bực mình, quất cho nó một roi vào vai. Như bị đẩy mạnh bởi một cái lò-so, con vật đứng thẳng hai chân sau và gầm lên một tiếng làm tôi hoảng hồn. Phần bị say thuốc, phần vì sợ hãi, tôi trông mọi vật quay cuồng chung quanh tôi, tôi đứng không vững và ngã lăn ra đất.

Ông Bô-La là một người rất nhanh-trí và khéo lợi dụng mọi cái bất-ngờ thình-lình xảy ra.

Ông trông vào khán-giả và nói:

– Đấy quý-vị xem. Con sư-tử này có dữ không? Chỉ một tiếng kêu của nó đủ làm mất hồn ngay những đứa trẻ ở quê-hương nó.

Tôi say thuốc đã rõ-ràng, ai cũng biết. Công-chúng hiểu đó không phải là một tấn kịch đã xếp-đặt sẵn nên vỗ tay khen Bô-La. Trong lúc đó, Bôn bế tôi ném vào đằng sau lều như một gói đồ.

Suốt buổi diễn, tôi nằm đó như người sắp chết, không nhấc được chân tay và không biết ngoài sân-khấu người ta làm những trò gì, chỉ nghe lơ-mơ những tiếng sư-tử gầm, chó sói sủa cùng những tiếng hò-la của công-chúng.

Sau cùng, tôi nghe những tiếng bước rộn-ràng của khán-giả ra về.

Chợt tôi thấy có một bàn tay kéo cánh tay tôi. Tôi mở mắt ra. Đó là Diệp-Lan, tay cầm một ly nước.

Lan nói:

– Cầm lấy. Uống đi. Nước đường đấy. Anh thực ngây-thơ quá, đã sợ thay cho tôi. Dù sao, anh cũng là một người tốt.

Đó là lời đầu tiên mà Lan nói vói tôi từ ngày tôi vào làm với ông Bô-La. Cái dấu cảm-thương đó làm cho tôi ấm lòng, tôi cảm thấy không lẻ-loi nữa. Hàng ngày, Phi và Bùi cứ kết bè để trêu ghẹo tôi. Bây giờ tôi rất sung sướng được gặp một người bạn.

Sáng hôm sau, tôi muốn ngỏ lời cảm ơn Lan, nhưng Lan quay lưng lại không thèm nghe tôi. Từ đó Lan không hề nhìn tôi hoặc nói một câu gì với tôi. Tôi đành rút lui ý-kiến làm thân với Lan. Ít lâu sau, tôi bắt đầu nhận thấy những cái đá đít như mưa rào mà tôi phủi chịu-đựng, những việc chăm nom ngựa, rửa chuồng thú vật ban ngày và việc giả làm Mọi ban đêm đã đủ đền bù những manh quần-áo cũ mà ông Bô-La đã cho tôi, tôi nghĩ đã đến lúc phải rời bỏ đoàn xiếc để tiếp tục lên đường đi Hao-Cảng.

Mẹ ơi! Người mẹ đau-khổ của con ơi! Có phải mục-đích làm bồi ngựa cho gánh xiếc mà con bỏ nhà ra đi đâu! Giá mẹ trông thấy tình-cảnh này,chắc mẹ biết sự thực.

Mùa đông đã đến. Đêm thấy lạnh hơn. Ngày mưa nhiều hơn. Chỉ ít ngày nữa là tôi không thể ngủ được ở ngoài trời, trong những cánh đồng như trước. Tôi phải sửa soạn gấp. Ở Huy-Ba chỉ có đường về quận Loa thôi. Như vậy lại càng cách xa Hao-Cảng, nhưng tôi cũng phải đi.

Tôi không muốn phiêu-lưu một cách cầu may, không dự-phòng, như vậy rất nguy-hiểm. Vì thế, tôi nhặt những vỏ bánh thừa góp lại để dành và những lúc rỗi-rãi tôi cắt những miếng da giầy cũ chế một đôi dép để đi. Chương-trình của tôi đã quyết-dịnh. Đợi hôm nào đoàn xiếc khởi-hành là tôi lẳng-lặng từ-biệt họ.

Một buổi chiều, trước hôm tôi định ra đi, Diệp-Lan bắt gặp tôi đang khâu nốt chiếc dép.

Lan hỏi sẽ:

– Anh định trốn à?

Tôi liền ra hiệu cho nàng im.

Lan nói tiếp:

– Đã tám hôm nay tôi rình xem anh làm gì. Thấy anh lượm vỏ bánh khô gói giấu dưới gầm thúng thóc biết là có việc gì đây, nhưng anh đừng sợ. Tôi không mách đâu. Nếu anh muốn trốn thật, anh cho tôi đi theo với.

Tôi ngạc-nhiên hỏi:

– Cô định bỏ cha cô?

Lan đáp:

– Cha tôi à? Những người đó có phải là cha mẹ tôi đâu? Nhưng nói chuyện ở đây sợ người ta biết. Anh hãy đợi tôi ở chân thành, tôi sẽ ra sau. Nếu anh có lòng tốt, anh sẽ giúp tôi, tôi sẽ giúp anh.

Tôi đi đi lại lại ở chân thành hơn hai tiếng đồng-hồ không thấy Lan ra. Tôi bắt đầu nghi nàng nói dối, chợt thấy nàng đến. Nàng bảo tôi:

– Chúng ta vào trong bụi cây kia cho kín, đừng để cho người ta trông thấy hai người nói chuyện, người ta sẽ ngờ.

Tôi theo nàng vào trong bụi cây râm, người ngoài không thể nhìn thấy, nàng đứng lại.

Nàng nói:

– Trước hết, tôi hãy kể chuyện tôi cho anh nghe. Anh sẽ hiểu tại sao tôi muốn trốn.

Mặc-dầu chúng tôi bằng trạc tuổi nhau, Diệp-Lan nói chuyện như vẻ người lớn đối với trẻ con. Tôi không hiểu sao nàng cứng-cỏi thế lại cần đến sự giúp-đỡ của một đứa yếu đuối như tôi.’ Nhưng vì tự-nhiên tôi có một nỗi cảm mến đối với nàng và nhất là vì nàng biết chuyện bí-mật của tôi, nên tôi không ngần ngại và tỏ lòng thông-cảm.

Nàng nói tiếp:

– Bô-La không phải cha tôi. Chính cha đẻ ra tôi, tôi không biết mặt, vì người mất khi tôi còn ẳm-ngửa. Mẹ tôi làm nghề bán thực-phẩm ở Ba-Lê tại một phố mà tôi quên mất tên, chỉ biết ở gần chợ. Tất cả những điều tôi còn nhớ là mẹ tôi trẻ đẹp lắm, tóc hung-hung và rất dài, dài đến nỗi những buổi sáng anh tôi và tôi, đùa nghịch với nhau trên giường thường nấp vào sau đám tóc của mẹ tôi như ẩn trong bụi cây.

Mẹ chúng tôi yêu chúng tôi lắm, hôn chúng tôi luôn và không bao giờ đánh chúng tôi. Anh tôi lớn hơn tôi một chút, tên là Giang. Phố tôi ở có rất nhiều xe-cộ qua lại. Sáng nào cũng thế, trên vỉa hè người ta xếp la-liệt những đống bắp-cải, cà-rốt và các thứ rau cao lù-lù. Đứng cửa nhà tôi trông ra thấy mặt đồng-hồ chữ vàng của ngôi nhà thờ lớn. Trên nóc tháp chuông có những cái đen đen giống như cánh tay người suốt ngày cử-động khi giơ bên này, khi chỉ bên kia. Năm ngoái tôi hỏi một anh kép của gánh hát Mã-Sơn ở Ba-Lê về qua đây, anh bảo đó là nhà thờ Thánh An-Tập, còn những cánh tay đen kia là máy điện-tín.

Mẹ tôi làm việc suốt ngày, ít khi ra ngoài với chúng tôi, thường sai chị Hai, người tập việc đưa chúng tôi đi chơi. Một hôm, về mùa hè, trời nóng nực phố lắm bụi, chị Hai được lệnh cho tôi đi xem phiên chợ ở cạnh Ngọc-Tòa, một phiên chợ bán toàn bánh, chắc anh đã được nghe người trong đoàn nói đến nhiều lần. Tôi không hiểu hôm ấy sao anh tôi lại không cùng đi với tôi. Có lẽ mải chơi ở nhà.

Là lần thứ nhất tôi được trông thấy những rạp trò, tôi thích quá. Rạp nào tôi cũng muốn vào, nhưng chị Hai không có tiền, túi tôi có 4 xu của mẹ tôi cho để mua bánh, chị bèn móc lấy mua vé vào xem phòng “bí-mật”.

– Là cái gì?

– Anh nhà quê quá, không hiểu phòng “bí-mật” thì anh biết cái gì? Đó là một căn lều kín, người ta trình-bày một quái-thai, một con hải-báo hay các cái kỳ-lạ khác.

Trong lều này, người diễn trò cho chúng tôi xem hai con hải-báo bơi trong một cái chậu nước lớn. Tôi không hiểu sao chị Hai lại quen và nói chuyện với người diễn trò. Người này nhìn tôi và khen là em bé xinh quá. Xong hai người cùng ra với chúng tôi và đưa chúng tôi vào một tiệm rượu, ngồi trong một căn phòng hẹp, tối-tăm và không có ai cả. Lúc đó tôi bức và mệt quá. Trong khi hai người – chị Hai và người diễn trò – nói chuyện với nhau thì tôi ngủ lúc nào không biết.

Khi tôi dậy thì trời đã tối mà không thấy chị Hai đâu.

Tôi hỏi chị Hai đâu, người diễn trò vào, người diễn trò bảo tôi đi với ông ta tìm chị Hai. Tôi liền theo ông ta. Trên hè phố, đông người qua lại. Các rạp trò đều thắp đèn sáng trựng. Đàn hát vang lừng, ông ta cầm tay tôi hối-hả lôi đi.

Khi ra khỏi đám đông, chúng tôi ở trên con đường rộng, hai bên có cây cao. Chỗ này không có ánh đèn, tôi trông thấy lác-đác một vài nhà.

Tôi bắt đầu sợ. Người diễn trò thấy tôi đi chậm lại, liền ghé vai xuống định cõng tôi. Tôi không chịu. Ông ta giơ hai cánh tay ôm lấy tôi, tôi hét lên. Mấy người lính đi qua, thấy vậy, đứng lại Người diễn trò dỗ tôi:

– Sao em lại khóc. Gần về với má rồi, em ạ.

Tôi lại tiếp tục đi. Đường thấy xa hơn lúc đi nhiều và cảnh vật lạ cả. Chúng tôi đi qua một bức tường màu tro và một cái cổng lớn có lính canh. Rồi đến một khu rừng dài bất tận. Tôi sợ rủn người và không bước được nữa.

Người diễn trò liền giở giọng và quát:

– Đồ mất dậy. Mày không đi nữa phải không? Ta đánh vào xác mày bây giờ?

Lúc đó không có người qua lại. Ông ta nắm chặt tay tôi lôi tuột, tôi lẵng-nhẵng theo sau vừa đi vừa khóc. Trời ơi! Anh phải hiểu lúc đó tôi mới có lên năm thôi, còn nhát lắm và chỉ nhớ mẹ tôi.

Tôi không nhớ rằng tôi phải đi như thế hết bao nhiêu thì-giờ, chỉ nhớ rằng khi tôi mệt lả thì thấy ánh đèn trong làng kia lác-đác hiện ra. Tới cổng làng, tôi thấy có mấy cái xe của phường làm trò rong đậu trên bãi cỏ dọc theo một bức tường gỗ. Người diễn trò đưa tôi vào một cái xe đó. Tôi trông thấy một người đàn bà cụt chân đang uống rượu. Người diễn trò cúi xuống nói nhỏ với người đàn bà rồi cả hai người đều nhìn vào tôi.

Người đàn bà nói:

-Trên má nó có dấu à?

Cái dấu ấy là một mụn cơm hồng-hồng bây giờ còn cái sẹo lũng xuống đây.

Người đàn ông nói:

– Khó gì! người ta sẽ làm tiêu nó đi.

Tôi sợ quá hỏi:

– Mẹ tôi đâu?

Người đàn bà nói:

– Con ơi! Sáng mai má con sẽ đến. Hôm nay con phải ngoan và đi ngủ đi.

Người đàn ông nói thêm:

– Chắc nó đói.

– Để tôi cho nó ăn.

Nói xong, người đàn bà cụt chân chống hai tay xuống đất lê đi. Tôi kinh-ngạc quá. Bà ta đem cho tôi một đĩa hột đậu to tướng vừa lấy ở nồi ra hãy còn nóng. Tôi ăn ngon lành lắm, mặc dầu đậu nhạt và thiếu bơ. Thấy tôi dễ ăn, bà khen.

– Bé ngoan quá!

Biết đâu, ở nhà thầy thuốc cấm tôi ăn thứ đó và mẹ tôi chỉ cho tôi ăn thịt quay vì tôi hay ốm. Tôi thèm đậu nay được ăn sướng quá.

Khi tôi ăn xong, bà bảo:

– Bây giờ bé đi ngủ đi, chóng ngoan!

Bà kéo chiếc màn vải ra, trong cùng xe có hai cái giường.

Thực ra, ngủ ở trong xe tôi thấy là-lạ và thinh-thích. Tôi thiếp đi lúc nào không biết.

Khi tôi thức dậy tôi thấy cái giường tôi nằm đu-đưa như khiêu-vũ. Tôi tưởng tôi đang ở trong giấc mơ, nhưng mình tôi bị đảo qua đảo lại và tôi nghe rõ tiếng nhạc loong-coong và tiếng xích kêu xọc-xạch, tôi không mê. Phía trên và ngay cạnh giường tôi có cái cửa sổ con, một ánh-sáng yếu-ớt lọt vào. Tôi liền quỳ lên và nhìn ra: trời chưa sáng rõ, cây cối lần-lượt diễn qua cửa sổ. Xa-xa trong cánh đồng cỏ, một giải sông con uốn khúc. Tôi hiểu ngay buồng tôi và giường tôi đang đi. Tôi sực nhớ đến mẹ tôi, tôi gọi: Mẹ ơi! Mẹ ơi!

Một tiếng ồ-ồ, tôi không quen, đáp lại:

– Xe đang đi đón má bé đây.

Nhưng tôi vẫn sợ và |gào khóc. Lúc đó một người đàn ông tôi chưa từng trông thấy bao giờ bước vào buồng tôi, thân-hình to lớn, đầu đội mũ Cảnh-binh cao chạm nóc xe, bảo:

– Mày không nín, tao giết chết.

Tôi càng gào lớn. Người đó tiến lại trước mặt tôi, hai tay giang ra. Tôi sợ ông ta bóp chết tôi nên tôi nín bặt

Khi ông ta ra rồi, tôi tìm quần-áo để mặc thì không thấy đâu nữa. Tôi không dám hỏi cứ ngồi im thin-thít trên giường. Xe đi lâu lắm, khi ở đường đá, khi vào đường đất. Nhìn qua cửa sổ, tôi biết là xe đang đi qua các làng.

Sau cùng xe dừng bánh, người đàn bà cụt chân vào.

Tôi hỏi:

– Mẹ, mẹ tôi đâu?

– Lát nữa sẽ gặp má em.

Bà ta nói dịu-dàng, tôi đỡ sợ và nói:

– Tôi muốn xuống giường.

– Chính ta cũng định bảo em thế. Đây, quần-áo đây, em mặc vào.

Bà ta cho tôi một cái áo dài xấu quá.

– Không phải áo của tôi.

– Em phải vận áo này.

Tôi định cãi lại và xé tan cái áo khổ ấy ra, nhưng người đàn bà kia nhìn tôi bằng đôi mắt kinh khủng, tôi phải vâng lời.

Khi tôi mặc áo xong thì xe cũng dừng hẳn. Người đàn bà bảo tôi xuống xe, chỗ đó ở giữa bình-nguyên, chung quanh tôi đồng ruộng mông-mênh, xanh mượt đến tận chân trời.

Người đội mũ Cảnh-binh nhẩy xuống dóm bếp ở vệ đường. Ba cái gậy buộc chụm đầu vào nhau, dưới treo một cái nồi. Lục đó tôi đói lắm nên nghe thấy tiếng nồi reo tôi mừng quá.

Người đàn bà cụt chân vẫn ở trong xe. Người đàn ông lên bế bà ta đặt xuống đường. Bà ta nhìn tôi nói:

– Cái dấu kia!

– Phải đấy.

Rồi người đàn ông dữ tợn ngồi xuống lấy hai chân kẹp tôi vào lòng, hai tay giữ chặt hai cánh tay tôi, tôi không sao nhúc-nhích được. Người đàn bà lê lại, một tay hếch mặt tôi lên, tay kia cầm kéo mở rộng, bà ta cắt đến sật một cái đứt hẳn mụn cơm trên má tôi.

Máu chảy dòng-dòng vào cả miệng tôi, chảy cả xuống áo tôi. Tôi tưởng họ giết thịt tôi, tôi khóc hét lên, giẫy-giọn và cắn vào tay bà ta. Bà ta bình-tĩnh như thường, bôi cái gì vào má tôi, rát lắm, tức thì máu không ra nữa.

Bà ta bảo người đàn ông:

– Thôi, thả ra cho nó đi.

Bà ta tưởng tôi muốn trốn. Nhưng không. Tôi sấn vào bà ta và lấy tay đánh túi-bụi. Bà ta định đánh lại tôi thì người đàn ông đã nhắc tôi lên, quẳng vào xe và đóng cửa lại.

Họ giam tôi trong ấy một ngày không cho ăn uống gì. Mãi đến tối, họ mới mở cửa. Lời nói thứ nhất của tôi là đòi mẹ tôi.

Người đàn bà không chân trả lời gọn lỏn:

– Mẹ mày chết rồi!

Suốt thời-gian bị nhốt trong xe, tôi đã nghĩ mãi. Tôi đáp:

– Không phải, mẹ tôi không chết. Bà là người ăn cắp.

Bà ta toét miệng cuời làm tôi tức giận thêm.

Tôi ở với người đàn ông đội mũ Cảnh-binh và người đàn bà cụt chân trong ba tuần-lễ, hay một tháng. Trước họ tưởng họ có thể áp-phục tôi cũng như người ta áp-phục các con vật bằng cách bắt nhịn đói. Nhưng họ không đạt được kết-quả. Lúc nào cần ăn, họ bảo gì tôi cũng thuận. Nhưng một khi đã ăn no rồi, tôi không làm gì cả. Người đàn bà cụt chân biết rằng không đời nào tôi tha-thứ mụ về việc đã khoét má tôi. Mụ thường nói:

– Con này ghê lắm. Nó có thể cầm dao đâm chết tôi được.

Một ngày kia, chúng tôi đi đến một miền mà tôi không biết tên, tôi chỉ nhớ là có nhiều sông con lắm. Nhận thấy không thể dùng tôi được việc gì, họ bán tôi cho một người mù. Người này không mù hơn anh và hơn tôi, nhưng y giả cách mù để đi ăn xin.

Suốt ngày, tôi phải ngồi trên cầu, chìa tay xin. May sao ông ta có một con chó con, tối đến, tôi có thể chơi với nó nên cũng đỡ buồn.

Tôi không có khiếu về “nghề” ăn mày, nghĩa là tôi không biết quấy nhiễu những khách không chịu cho tiền. Không biết giả khóc và theo họ, nên ngày nào tôi cũng bị ăn đòn. Đánh mãi chán tay, ông già lại bán tôi cho một bọn nghệ-sĩ rong để tôi làm việc quyên tiền trong khi họ trình diễn.

Họ đã đưa tôi đi nhiều nước. Tôi đã qua nước Anh, nước Mỹ và đã ngồi trên tàu biển hàng tháng.

Khi trở về Pháp, lại một lần nữa, tôi bị bán và vào tay ông Bô-la. Ông này mua tôi về để làm trò leo dây. Trong khi chờ đợi, tôi giữ việc cho loài vật ăn. Dạo ấy, chúng tôi có ba con sư-tử. Con lớn nhất dữ lắm, nhưng đối với tôi, nó lại rất hiền. Mỗi lần tôi mang cái ăn cho nó, nó chạy đến liếm tay tôi.

Một hôm, bực vì tôi không sao tập được một trò khó, Bô-La cầm roi quất tôi veo-véo. Tôi kêu vang lên. Bên cạnh là chuồng con sư-tử của tôi. Thấy tôi bị áp-chế tức thì con sư-tử có nghĩa kia thò ngay chân qua song sắt vồ lấy vai Bô-La và kéo vào. Bô-La cố giật ra nhưng móng chân sư-tử cứ cắm sâu vào thịt không chịu buông ra. Nếu người ta không vác những gậy sắt đến thì con sư-tử còn giữ chặt. Thế rồi Bô-La bị ốm mất hai tháng.Tuy-nhiên tai-nạn đó đã làm cho Bô-la nẩy ra ý-kiến cho tôi “vào chuồng sư-tử”. Bà Bô-La bảo tôi:

– Vì những con sư-tử là bạn mày, chúng sẽ không ăn thịt mày. Vả lại con lớn sẽ bênh mày.

Sự thật, tôi thích nghề này hơn nghề leo dây. Thế là từ ngày đó, trong lời giáo-đầu của ông Bô-La được thêm một đoạn rất hay ho: “Vẻ yêu-kiều cũa kỳ-nữ Diệp-Lan khuất-phục được loài ác-thú miền sa-mạc ”

Chúng dữ thì dữ thật, nhưng có khi chúng hiền-lành hơn những con chó. A! nếu con Hồng-Sư còn sống, anh đã được trông nó khôn thế nào. Tôi cho cả ba con vào một chuồng, rồi lấy roi đánh hai con kia túi-bụi. Chúng chồm lại nhe nanh gầm gừ. Tôi bảọ con Hồng-Sư: “ Giữ chúng lại!”. Nó liền nhảy ra chận hai con kia lại và gầm lên như tiếng sấm. Tôi giả-cách té ngất đi. Nó chạy lại liếm liếm mặt tôi. Người ta mở chấn song. Nó ngậm ngang mình tôi mà tha ra. Tiếng hoan-hô, tiếng vổ tay chấn-động cả rạp. Người xúm lại tặng tôi nào hoa, nào kẹo. Lại có những thiếu-phụ xinh đẹp chạy đến hôn tôi.

Tôi thành-công rực-rỡ. Người ta mời ông Bô-La sang diễn ở Ba-Lê. Tôi khấp-khởi mừng thầm vì đến Ba-Lê tôi sẽ có dịp trốn đi tìm mẹ tôi.

Không may, gần đến ngày đi Pháp, con Hồng-Sư thụ bệnh. Dạo ấy là mùa đông, trời rét như cắt; nó nằm run một chỗ không ăn uống gì. Tôi hết lòng săn-sóc nó. Ban đêm tôi đắp chung chăn với nó cho khỏi lạnh. Nhưng rồi nó cũng chết.

Tôi buồn rầu không tả được. Người ta tưởng tôi sẽ chết theo nó. Nhưng rồi tôi cũng khuây dần. Thế là việc đi Ba-Lê bỏ, tôi hết hy-vọng tìm mẹ tôi.

Từ ngày đó, tôi nghĩ đến việc trốn đi. Nhưng một mình tôi, tôi không dám làm. Có Phi và Bùi đấy, nhưng tôi sợ chúng phản trắc. Còn anh, anh không phải là người của đoàn, anh có bằng lòng giúp tôi đi tìm mẹ tôi không? Thấy tôi, mẹ tôi sẽ sung-sướng và sẽ cảm lòng anh.

Ba-Lê không phải là Hao-Cảng, tôi liền đem chuyện tôi kể thật cho Lan nghe.

Nàng hỏi:

– Như vầy cứ đến Ba-Lê đã, mẹ tôi sẽ trả tiền tàu cho anh đi Hao-Cảng và rất có thể chúng tôi sẽ đưa anh đi.

Tôi bèn nói cho Lan biết việc sống trên đường cái rất khó-khăn. Ăn vào đâu? Ngủ ở đâu?

Lan nói:

– Tôi có 7 phật-lăng 6 xu. Tiền đó dùng để ăn. Còn ngủ thì nằm ở ngoài trời. Miễn ở bên cạnh anh là tôi bớt sợ.

Lòng tin của Lan làm tôi hào-hãnh nên tôi quyết-định theo ý nàng. Vả lại, Lan là một cô bé mà người ta khó lòng từ-chối. Nàng có đôi mắt xanh nhu-mì mà hăng-hái. Một cái nhìn vừa ngây-thơ vừa từng-trải, vừa dịu-dàng vừa rắn-rỏi. Con mắt ấy, cái nhìn ấy nó không để cho người ta khước-từ hoặc làm phật-ý. Chúng tôi nhất-định khi xe đến Óc-Lê-Ăng là cùng nhau trốn bỏ đoàn xiếc.

Nàng nói:

– Từ nay đến hôm ấy, trước mặt mọi người tôi không nói chuyện với anh đâu. Nhưng anh thật-thà quá, đừng vô ý làm lộ chuyện, nhớ nhé.

Tôi nhăn mặt lại. Nàng biết tôi không thích về câu nàng khen đó.

Lan nói:

– Anh bắt tay tôi đi. Thấy anh là người tốt nên tôi hết lòng trông cậy vào anh.

Chú thích:

[69] Bề trên trong một chủng viện.

[70] Tức tín đồ Hồi giáo.

[71] Tựa như thứ lính đánh thuê (của Thổ).

[72] Tức cái khoảng rộng mắt mình trông thấy.