← Quay lại trang sách

3. Nhị Trưng phu nhân

Sử ghi tên chị là Trắc, em là Nhị, vốn họ Hùng, là con gái quan Lạc tướng ở Giao Châu ta, người huyện Mê Linh, thuộc Phong Châu. Chị lấy Thi Sách, người huyện Chu Diên. Thi Sách là người có dũng lực, chuộng hào khí. Thấy chừng cơ sự, quan Thứ sử là Tô Định bèn đặt vào phép, buộc tội Thi Sách mà hãm hại. Chị giận lắm, cùng với em cử binh đánh đuổi Tô Định, công hãm Giao Châu. Do đó các quận Nhật Nam, Hợp Phố, Cửu Chân, nghe tin bèn hưởng ứng, lược định được hơn sáu mươi lăm thành ở cõi Lĩnh Ngoại, tự lập làm vua đất Việt, đóng ở Chu Diên, rồi xưng là họ Trưng.

Khi ấy Tô Định chạy về quận Nam Hải. Vua Hán Quang Vũ nghe tin, nổi giận, biếm đuổi Định ra Đam Nhĩ, sai bọn Mã Viện, Lưu Long đem đại quân sang đánh hai bà. Quân Hán kéo đến Lãng Bạc, bà đánh lại, quân ít không địch nổi, rút về giữ Cầm Khê. Quân ngày một ly tán. Bà ở vào thế cô, bị chết trận.

Dân địa phương thương xót, lập đền thờ, nhiều lần hiển linh. Nay đền ở huyện An Hát.

Vua Lý Anh Tông, gặp thời hạn hán, sai Tĩnh Giới thiền sư làm lễ cầu mưa, thì được mưa, trời mát mẻ. Vua mừng lắm, nằm ngủ bỗng mộng thấy hai người đàn bà, mặt phù dung, mày dương liễu, áo xanh váy đỏ, mũ đỏ, thắt đai, cưỡi ngựa sắt, theo mưa mà đến yết kiến. Vua lấy làm lạ bèn hỏi. Đáp rằng:

- Chúng tôi là hai chị em họ Trưng, vâng mệnh Thượng đế làm ra mưa.

Vua tỉnh dậy cảm xúc bèn sắc cho sửa lại đền, sắm lễ vật để tế. Lại sai sứ rước về phía bắc trong thành, xây đền Vũ sư để thờ. Sau hai bà lại báo mộng cho nhà vua xin lập đền thờ ở Cổ Lai [1]. Nhà vua nghe theo, sắc phong là Trinh Linh phu nhân.

Năm Trùng Hưng thứ 4 (1288), phong chị là Chế Thắng phu nhân. Năm Hưng Long thứ 21 (1313), tặng thêm hai chữ “Thuần trinh”, lại tặng thêm cho em hai chữ “Bảo thuận”. Linh ứng rõ rệt từ lâu.

Chú thích:

[1] Cổ Lai: chưa rõ là ở đâu. Chỉ biết hiện nay hai nơi có đền thờ chính là:

- Tại làng Hương Viên cũ, tục gọi là bãi Đồng Nhân, nay thuộc khu phố Hai Bà, Hà Nội.

- Tại làng Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Sơn Tây (nay là Hà Tây).