← Quay lại trang sách

CHƯƠNG I (tt)

‘‘Nhóm người An Nam yêu nước’’, vào giữa tháng 6 có thảo một bản yêu sách về cải cách chính trị dân chủ‘’trong khi chờ đợi quyền dân tộc tự quyết chuyển từ lý tưởng thành hiện thực’’. ‘’Những yêu sách của nhân dân An-nam’’ rất khiêm tốn:

1.- Đại xá toàn bộ chính trị phạm bản xứ;

2.- Cải cách nền tư pháp ở Đông Dương bằng cách tạo cho người bản xứ cũng có những bảo đảm về pháp lý như đối với người Âu, và hủy bỏ vĩnh viễn và toàn bộ những tòa án đặc biệt.

3.- Tự do ngôn luận và báo chí;

4.- Tự do hội họp và lập hội;

5.- Tự do di trú và xuất ngoại;

6.- Tự do giáo dục và xây dựng ở các tỉnh những trường kỹ thuật và chuyên môn;

7-. Thay thế chế độ nghị định bằng chế độ luật pháp;

8.- Có đại biểu thường trực của người bản xứ được bầu bên cạnh Nghị Viên Pháp để phản ảnh kịp thời những nguyên vọng của người bản xứ. (15)

Không có một vang vọng nào từ phía các cường quốc phe Đồng Minh mà bản yêu sách đã vinh danh họ như là ‘’những chiến sĩ của Văn Minh chống lại Man Rợ’’. Sau đó, Phan Chu Trinh viết: ‘’Rõ ràng chúng ta lầm lạc vì đã quá hy vọng.’’ (16)

Nhóm Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn ái Quốc chẳng bao lâu gia nhập thêm: Một người Nam Kỳ là Nguyễn An Ninh, đến Paris học Luật, và một người Bắc Kỳ là Nguyễn Thế Truyền, sinh viên khoa học ở Toulouse năm 1919, đến Paris năm 1921 để chuẩn bị thi Cử Nhân Văn Chương. Truyền, hơn Ninh một tuổi, là con một quan huyện ở Ninh Bình. Cả hai đều dốc hết sức mình vào những hoạt động của Nhóm.

Nguyễn An Ninh mới có 20 tuổi khi đến Paris vào năm 1920. Đó là một con người có cao vọng duy tâm lãng mạn luôn hết lòng tha thiết với dân quê trong nước. Anh đã vong mạng tại nhà tù Côn Đảo vào năm 43 tuổi. Thân phụ anh là Nguyễn An Khương, là người nổi tiếng vì đã dịch sang chữ Quốc Ngữ những tiểu thuyết lịch sử lớn của Trung Hoa, là người đã ủng hộ Hội Duy Tân của Phan Bội Châu do Trần Chánh Chiếu (Gilbert Chiếu) vận động ở Nam Kỳ, và là người hỗ trợ du học sinh sang Nhật (Phong Trào Đông Du). Tại Paris, Ninh giao thiệp, không phân biệt với những người theo chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và vô chính phủ, trong đó có Charles Rappoport, người đã phản đối chiến tranh vào năm 1914, trở thành cộng sản năm 1919 và đã xuất bản quyển Cuộc Cách Mạng Thế Giới (La Révolution mondiale) năm 1921.

Nguyễn ái Quốc nhập Đảng Xã Hội Pháp, tham gia đại hội nhóm ở Thành Tours vào tháng 12 năm 1920. Quốc theo một số đảng viên nhập vào hàng ngũ Đệ Tam Quốc Tế, lúc đó tán thành việc giải phóng thuộc địa. (17)

Thời kỳ này, Phan Chu Trinh sống bằng nghề rửa ảnh tại Ponce vùng Charente Maritime và gặp gỡ các bạn trong Nhóm ở Paris. Ngày 13 tháng 6 năm 1921, ông cùng Nguyễn ái Quốc tham gia vào một kế hoạch chuẩn bị thành lập Liên Minh Thuộc Địa. Liên minh này bao gồm Nhóm những người An Nam yêu nước và Hội đòi quyền công dân cho người Madagascar tập họp nhiều nhóm người như An Nam, Dahomey (nay là Bénain), Réunion, Guadeloup, Quần Đảo Antilles, Martinique, Madagascar, Sénégal và Algérie. Ngày 1 tháng 4 năm 1922, cùng với Monnerville, Senghor, Messali Hadj, v.v...họ xuất bản tờ báo hàng tháng Người Cùng Khổ (Le Paria), ‘’ Diễn Đàn Vô Sản Thuộc Địa’’. Ảnh hưởng của tờ báo lan nhanh chóng tới các giới bồi bếp, thợ sơn lắc, thủy thủ An Nam. Trong khi đó, Ninh có cảm tình đặc biệt đối với những người theo chủ nghĩa vô chính phủ, viết ít bài trong báo Người Tự Do (Le Libertaire).

Năm 1922, Phan Chu Trinh ở Marseille. Tổ chức SFIO (Section française de l'International Ouvrière-Chi Hội Quốc Tế Công Nhân Pháp, tên của Đảng Xã Hội Pháp lúc đó) và Liên Minh Nhân Quyền đã giúp ông tập họp đồng bào của ông trong các cuộc mít tinh để ông giúp họ nhận thức thân phận nô lệ và nhu cầu tập họp để tự bảo vệ. Ở Paris, Nguyễn ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường cũng đấu tranh theo hướng đó qua tờ Le Paria và trên mục thuộc địa của tờ Nhân Đạo (L'Humanité). Hiệp Hội Bồi Bếp, ở số 8 phố Hoche, mở rộng thành Hiệp Hội Lao Động Đông Dương vào tháng 5 năm 1923, cũng đấu tranh theo hướng đó.

Cũng vào năm 1922, Hoàng Đế Khải Định đến viếng cuộc Triển Lãm Thuộc Địa tổ chức ở Marseille. Phan Chu Trinh lên án Khải Định, trong một bức thư ngỏ nêu lên 7 tội ‘’đại ác’’:

- Quên lời giáo huấn của Mạnh Tử (Dân vi quí, quân vi khinh);

- Cai trị tùy hứng, thưởng phạt bất minh;

- Duy trì một cách ngu ngốc lễ khấu đầu (quan lại phải quỳ lạy trước vua) làm trò cười cho thế giới văn minh;

- Xa hoa vô đạo: Vua còn bóc lột của dân vốn đã bị kiệt quệ vì nghèo đói;

- Trang phục bất xứng;

- Tùy tùng quá lộng lẫy phô trương trong cảnh thôn quê xứ Việt;

- Tự tôn một cách lố bịch khi gọi cuộc du hành sang nước Pháp là chuyến du hành khảo sát trong một nước cộng hòa dân chủ, nhất lại là cho những viên quan không có một trình độ trí thức bằng một đức trẻ mười tuổi người Pháp đi tháp tùng.

Kết luận, ông khuyên Khải Định nên ‘’nhường quyền lại cho dân, dân có thể hợp tác trực tiếp với dân Pháp.’’ (18)

Ngày 12 tháng 2 năm 1922, Phan Chu Trinh viết cho Nguyễn ái Quốc giục trở về nước, sống lẫn lộn trong nông dân mù chữ để tuyên truyền bằng lời nói những tư tưởng giải phóng:

Bấy lâu nay, tôi cùng anh và Phan (Văn Trường) đàm đạo nhiều việc, mãi tới bây giờ, anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân trí, chấn dân trí, hậu dân sinh của tôi. Còn tôi lại không thích cái phương pháp ‘’ ngoại ngọa chiêu hiền đãi thời đột nội’’ của anh, và cả cái dụng lý thuyết thâu nhân tâm của Phan. Bởi phương pháp bất hòa mà anh đã nói với anh Phan là tôi là hạng hủ nho thủ cựu. Anh lấy cái lẽ ở nước mình lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp ngoại ngọa chiêu hiền đãi thời đột nội, cứ như cái phương pháp ấy, thời anh viết bài đăng báo chương trên đất người để mà hô hào quốc dân đồng bào bên nhà đem tinh thần nghị lực ra làm việc nước. Tôi coi lối ấy phí công mà thôi. Bởi vì quốc dân đông bào mấy ai biết chữ Tây, chữ Quốc Ngữ, cầm tờ báo mà đọc nổi. Theo ý tôi mình đừng có dùng cái lối nương náu ngoại bang để rung chuông gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đông bào, đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công. Bởi cái lẽ đó mà tôi khuyên anh thu xếp mà về.

Lại còn cái điều ngộ bất trắc sa cơ, đương nhiên là sự phòng xa, thời ắt là lợi hơn thiển cận, song lẽ từ xưa đến nay biết bao nhân nhân, chí sĩ nước mình hoặc khởi sự hay ôn hòa đương đầu với cường quyền áp chế, mấy ai khỏi vùng lao lung tù tội, đày ải chém giết. Ngại vì sa cơ thì e rằng bỏ mất cái tài tình của mình, cơ hội chạy qua như dòng nước. Bởi thế cho nên phương pháp quy sào giác thế mà anh làm được thì may mắn cho quốc dân đông bào ta biết chừng nào.

E rằng Nguyễn ái Quốc có thể sang Moscou để dựa vào nước Nga, Phan Chu Trinh tiếp:

Anh cứ xem ông Phan Bội Châu hồi trước chẳng nghe lời tôi, mang người mang của đến cái đất Phù Tang, cầu cứu nghĩa cử đồng văn đồng chủng, chạy Đông chạy Tây, đi ngoài đột nội, rốt cuộc chỉ làm được mấy lần khởi sự. Thẳng như cái phương pháp của ông Phan mà thành công, thì quốc dân đồng bào vẫn nguyên là cái lưng con ngựa, chỉ thay người cưỡi mà thôi. (19)

Bức thư không đạt hiệu quả, vì Nguyễn đã sớm quyết định ra đi. Ông tới Moscou, vào tháng 7 năm 1923 và được huấn luyện trở thành một nhà cách mạng chuyên nghiệp. Trong Tạp Chí Cộng Sản (Revue Communiste) tháng 5 năm 1921 ông viết: ‘’Chế độ cộng sản phải chăng có thế áp dụng được cho Châu Á nói chung và cho Đông Dương nói riêng? Với câu hỏi đó, ta có thể trả lời khẳng định rằng được.’’ Ông chỉ trở về Việt Nam vào năm 1945, dưới tên gọi Hồ chí Minh, để xây dựng ở xứ nhà ‘’một xã hội chủ nghĩa thực sự’’ hữu danh vô thực, ‘’thực sự không, có chi là xã hội chủ nghĩa cả’’ (Maximilien Rubel), phủ trên một xã hội buồn tẻ trong một nước Việt Nam mà ngay cả đến nền độc lập quốc gia cũng không có thực lại kèm thêm những xiềng xích mới cho người vô sản và nông dân nghèo.

Ngược lại, Nguyễn An Ninh trở về Nam Kỳ năm 1922 sau khi ngao du khắp các nước Ý và Đức, những nước đã công nghiệp hóa. Ông sẵn sàng đối mặt công khai với chính quyền thực dân ở Sài Gòn trong thử thách hướng dẫn thanh niên theo tư tưởng giải phóng.

Vào năm 1923, một trong hai người em của Phan Văn Trường được ra khỏi tù. Lúc ấy Nguyễn Thế Truyền, một người luôn hoạt động tích cực trong Hội Liên Hiệp Thuộc Địa, đã nhắc lại vụ án hai anh em này trong tờ Paria, mục Diễn Đàn Đông Dương, tháng giêng năm 1924 như sau:

Chúng ta hãy nhớ lại.

Hai anh em đó phạm tội gì? Không ai biết được, nhưng sự việc là nước Pháp bảo hộ đã ban cho họ cùng một lúc người thì 5 năm biệt xứ, người thì 10 năm lưu đày. Ít ra tôi cũng hy vọng rằng, tất cả đồng bào chúng ta đã khắc sâu trong tâm trí hai anh em bị bắt bớ trong những tình trạng khốn nàn, và những lời kết án của tòa án đại hình đặc biệt Hà Nội đột xuất vào năm 1913 dưới quyền đại diện của Toàn Quyền Albert Sarraut, và tôi nghĩ rằng đồng bào cũng không quên thái độ bình thản của hai anh em đối diện bọn tra tấn.

Ngày 2 tháng giêng năm 1924, sinh viên Hội Ái Hữu Đông Dương (trụ sở ở số 15 Chomérac (Paris 6ème), một tổ chức được Bộ Thuộc Địa bảo trợ để ‘’đón tiếp’’ (thực ra là để canh chừng về chính trị) mời Phan Chu Trinh chủ tọa cuộc mít tinh tại Hội Quán Bác Học. Trong số khoảng 300 người tham dự, có 200 người An Nam, đại biểu Hội Lao Động Đông Dương. Cuộc hội họp này, có lẽ được triệu tập trên tinh thần ‘’Pháp-Việt liên minh’’ nhưng tới nửa đêm lại chuyển thành cuộc mít tinh chống đế quốc chủ nghĩa. Bài diễn văn của một Phan Chu Trinh đã gạt bỏ mọi ảo tưởng, những lời kêu gọi của sinh viên Trần Văn Khá, Phó Chủ Tịch Hội Ái hữu hô hào đuổi bọn chiếm đóng ra khỏi đất nước, lôi cuốn hàng năm chục người tham dự đi tuần hành tại khu Latin theo sau Trinh, Khá và một người Pháp tên Graffeuan.

Sau khi Phan Châu Trinh khởi hành về Sài Gòn, vào tháng 5 năm 1925, một luận văn châm biếm nảy lửa do Thư điếm Lao động (Librairie du Travail) phát hành và lập tức bị cấm ở Đông Dương. Đó là tập Bản án chế độ thực dân Pháp (Procès de la colonisation française) ký tên Nguyễn ái Quốc, nhưng có thể là do Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền viết. Những ấn bản bí mật được đưa lọt vào Việt Nam đã được tầng lớp thanh niên ngấu nghiến. Ta hãy trích vài dòng trong chương ‘’Thuế máu’’:

Trước năm 1914, họ chỉ là những người mọi rợ da đen bẩn thỉu, chỉ là lũ anamit bẩn thỉu, chỉ đáng làm công việc kéo xe và chịu những trận roi cá đuối do tay các nhà cai trị chúng ta. Cuộc chiến tranh tươi vui được công bố, thế là họ trở thành ‘’những đứa con thân yêu’’, và ‘’những người bạn dũng cảm’’ của các quan chủ tỉnh nhân từ như cha mẹ và cả các quan Toàn Quyền lớn bé của chúng ta. Họ (dân bản xứ) bỗng chốc được thăng trật đến cấp bậc tối cao là ‘’những người đi bảo vệ công quyền và nền tự do’’. Tuy nhiên, cái vinh dự thình lình họ được hưởng như thế ấy, họ phải trả giá khá đắt, bởi lẽ đến bảo vệ cho cái công quyền ấy, cái tự do ấy mà chính họ cũng không có được, họ đã phút chốc phải từ bỏ ruộng vườn, vợ con, bò cừu, để vượt qua bao đại dương đến những bãi chiến trường Châu Âu rồi bị vùi thây ở đó.

Trên đường vượt biển, có rất nhiều dân bản xứ, sau khi được mời tham dự vào những màn trình diễn khoa học kỳ diệu về thủy lôi, đã lặn sâu xuống đáy đại dương để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái.

Những kẻ khác đã phải bỏ mình trên sa mạc thơ mộng vùng Balkan vẫn tự hỏi phải chăng cái Bà Mẹ-Tổ Quốc chắc là có ý định là người đầu tiên dấn thân vào hậu cung của vua xứTurquie, chứ nếu không thì sao lại đẩy họ đến chết chui chết nhủi ở cái đất này? Còn những người khác nữa, bên bờ sông Marne hay trong bãi lầy ở Tỉnh Champagne, đã chịu tàn sát một cách hùng dũng để tưới máu mình trên vòng nguyệt quế của chủ tướng hay lấy xương mình để điêu khắc gậy chỉ huy cho các Tướng lãnh. Rồi đến những kẻ làm quần quật tại hậu phương, trong những xưởng thuốc súng khủng khiếp, tránh được nạn ngửi khí ngạt của bọn ‘’Boches’’, tiếng người Pháp miệt thị gọi người Đức), thì lại phải chịu những luồng hơi độc hại loang loáng của người Pháp; rút cục cũng vẫn như nhau bởi lũ người khốn khổ ấy cứ phải khạc phổi mãi như bị ‘’sặc hơi độc’’ vậy. (20)

Trong Nhóm còn lại có Nguyễn Thế Truyền, vẫn ra sức tập hợp đồng bào không mệt mỏi, ta lại thấy Truyền xuất hiện vào năm 1926 giữa đám sinh viên mới di chuyển sang Pháp toan lôi kéo họ ra khỏi Đảng Lập Hiến, một đảng của giai cấp tư sản và địa chủ Việt Nam thành lập ở Sài Gòn năm 1923 do Bùi Quang Chiêu, với ý đồ hợp tác với chính quyền thực dân để xây dựng một thể chế tự pháp lĩnh (domination) ở Đông Dương. Truyền phát biểu:Một nạn nhân của kẻ cướp không được phép công tác với kẻ cướp. Mục đích của chúng ta là giành lại nền độc lập chứ không phải là hợp tác Pháp-Việt (Pháp-Việt đề huề). Phương thức hành động của chúng ta là để tổ chức làm cách mạng chứ không phải là để đạt tới những cải cách. (21)

Nguyễn Thế Truyền cho rằng không nên nói tới chủ nghĩa cộng sản, là cái không thể thực hiện được ở các thuộc địa trước khi giải phóng dân tộc, và cho rằng điều cần thiết là phải đoàn kết mọi tầng lớp xã hội, do đó Truyền tách khỏi phân bộ thuộc địa của đảng cộng sản Pháp vào tháng 5 năm 1927 và thành lập Đảng An Nam Độc Lập.

Chúng tôi không phải những người theo chủ nghĩa bè phái, cũng không phải những người theo chủ nghĩa cộng sản, mà cũng không phải những người theo ‘’chủ nghĩa quốc gia’’ theo lối Châu Âu định nghĩa. Chúng tôi là những người nô lệ muốn trở thành những người tự do. Chúng tôi gồm 20 triệu người bị áp bức muốn tạo lập một quốc gia độc lập. Chẳng gì khác hơn, đảng của chúng tôi chính là một đảng vì độc lập, dân chủ và hòa bình. (22)

CHÚ THÍCH

1.- Văn Thân, sĩ phu có danh tiếng.

Phong Trào Văn Thân nổi dậy năm 1864 (chống Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ và chóng những người theo Đạo Ky-tô đã phụ lực Pháp) và cuộc sĩ phu bạo động năm 1874 (sau khi Francis Garnier đột chiếm Hà Nội).

Sĩ phu là những người biết đọc và viết chữ nho (chữ Tàu), biết nghi lễ, thông thạo kinh điển Khổng học (về luân lý, chính trị, triết học và cựu sử, và họ được tôn trọng hơn hết trong tứ dân: Sĩ, nông, công, thương. Trong làng họ là giáo thọ, hương chức, thầy thuốc, thầy bói khoa..., làm trung gian giữa chính quyền và dân dốt, họ bày giải cho dân tất cả những quyết định về hành chính. Chính trong nhóm người này các kỳ thi được tuyển mộ ra làm quan, họ là rường cột đẳng cấp quan chế Nhà Nước ‘’phong kiến’’.

Cần Vương (Giúp nhà vua) là phong trào bạo động toàn Trung Kỳ do quan phụ chính Vua Hàm Nghi phát khởi ngày 13 tháng 7 năm 1885, nhân danh nhà vua, sau khi Thành Huế bị quân của Tướng De Courcy chiếm và Vua Hàm Nghi thoát thân.

Các quan trung thành cùng nhà vua lần lần bãi chiến sau khi Nhà Vua Hàm Nghi bị bắt vào tháng 11 năm 1888, nhưng mãi đến lúc Phan Đình Phùng tử trận năm 1896 thì Phong Trào Cần Vương mới chấm dứt.

2.- Sau khi bố chết vào năm 1900, Phan Bội Châu mới thấy mình được chấm dứt những nghĩa vụ của người con một trong gia đình; ông liền bôn tẩu từ Bắc chí Nam để ‘’động viên tinh thần’’ và tìm cách liên lạc với những ‘’con người dũng cảm’’, kể cả những người theo Đạo Gia Tô, nhằm bước đầu xây dựng nền móng cho một đội quân vũ trang khởi nghĩa có khả năng chiến thắng cuối cùng. Vào năm 1905, Nhật thắng Nga, một nước Âu Châu, đã kích thích thêm niềm hy vọng.

Vào năm 1906, Phan Bội Châu ra Bắc Kỳ tìm sự giúp đỡ của một thủ lĩnh có uy tín là Đề Thám, mà thực dân gọi là tướng cướp, đồng bào lại xem là nhà yêu nước.

Chính quyền thực dân phải chấp nhận cho Đề Thám tự quản trị một khu vực ở Yên Thế và có quyền lập một đội quân cảnh vệ riêng, để đổi lấy sự yên ổn dọc con đường xe lửa Hà Nội-Lạng Sơn. Tuy còn đang ở trong tình trạng phải quy thuận, ông Thám cũng hứa với Phan Bội Châu là sẽ ‘’chuyển sang hành động nếu Bắc Kỳ nổi dậy’’. Ông bị liên quan trong vụ âm mưu đầu độc trại lính Pháp ở Hà Nội tháng 6 năm 1908 - thất bại và tiếp đó là 19 án tử hình và một cuộc săn người thực sự diễn ra - tuy ông không bị bắt nhưng trở thành một người trơ trọi, một con người mà Toàn Quyền Paul Doumer đã nói ‘’Đề Thám không phải là một tướng cướp mà là một thủ lĩnh nghĩa quân đã mở chiến dịch cầm cự với chúng ta từ mười năm nay’’. Khi nắm quyền chấp chính ở Đông Dương, chính Albert Sarraut đã khước từ sự quy hàng của con người bị truy nã này. Rốt cùng, Hoàng Hoa Thám bị địch mưu mô ám sát vào tháng hai năm 1913, từ trần khoảng 55 tuổi.

Đối với Phan Bội Châu, những năm 1908-1910 là ‘’thời kỳ tuyệt vọng nhất’’ trong đời người từ mười năm nay: Bất lực trong việc hỗ trợ hữu hiệu cho phong trào trong nước, bởi không chuyển được vũ khí về nước vì rất khó mua ở Nhật, là những năm tháng mà ông nhận được những ‘’tin khủng khiếp’’, lính tập nổi dậy ở Nghệ Tĩnh không thành công, những người bạn tốt nhất của ông bị bắt hoặc bị chết, tình trạng bi đát của Đề Thám, những cuộc thảm sát nông dân không có vũ khí ở Nghệ An, những vụ lưu đầy tù ngục, những trường học bị đóng cửa. Việc hiện đại hóa xứ sở, với triển vọng khởi nghĩa toàn quốc về lâu dài đã tỏ ra là không thể được; lúc ấy Phan Bội Châu đi theo xu hướng bạo động khủng bố (Phan Bội Châu, Tự Phán, California 1987, trang 66).

3.- Chương trình của Hội, in ở Nhật năm 1907, bị tịch thu tại nhà Gilbert Trần Chánh Chiếu khi mật thám bắt ông vào tháng 10 năm 1908. (Georges Coulet, Les Sociétés secrètes en terre d'Annam [Hội kín ở đất An Nam], Sài Gòn 1926, trang 288).

4.- Phong Trào Đông Du. Trong thời gian từ 1906 đến 1908, có khoảng 200 du học sinh sang Nhật, trong đó ở Nam Kỳ độ một trăm, ở Trung Kỳ khoảng năm chục và ở Bắc Kỳ khoảng bốn chục người. Sau Hiệp Ước Pháp-Nhật (10.7.1907) Phan Bội Châu bị trục xuất khỏi Nhật (8.3.1909), các du học sinh buộc phải giải tán. (Phan Bội Châu, Tự Phán, trang 114).

5.- Văn bản bằng chữ Hán, do E. Huber dịch, Bulletin de l'Ecole Française d'Extrême- Orient, Hà Nội 1907, trang 145.

6.- Bộ Luật Gia Long (Hoàng Đế Gia Long 1802-1819) được biết dưới cái tên Bộ Luật Càn Long (Hoàng Đế Trung Hoa 1736-1795) được Triều Đình Huế duy trì ở Việt Nam cho tới hết thời kỳ đô hộ của Pháp. ‘’Những hình phạt thân thể, cái chết dần mòn, xử treo cổ và cả một kho dụng cụ tra tấn coi như những phương tiện để tra hỏi đều được ghi vào luật hình của người Việt, và nước Pháp từ khi chinh phục, đã dung dưỡng một cách khoan nhượng (theo nguyên văn) toàn bộ những tập tục đó, những thứ không xứng với nền đạo đức và văn minh của người Pháp’’ (G. Michel. Tờ buộc tội đọc trước Tòa Đại Hình Sài Gòn, ngày 11.11.1913, vụ Phan Xích Long và ném bom ở Sài Gòn).

7.- Mười ba năm sau khi thành lập Hội Duy Tân, ở Hà Nội chỉ mới có 8 thương gia người Việt đối với 64 thương gia người Âu, 72 người Trung Hoa và 4 Ấn Độ; ở Hải Phòng, chỉ có 17 đối với 113 người ngoại quốc. (Georges Boudarel, Phan Bội Châu et la société vietnamienne de son époque [PBC và xã hội Việt Nam thời ông], trong France-Asie/Asia 199, Paris 1969, trang 160).

8.- Ngày 26.4.1913, tại khách sạn Hà Nội, anh thợ máy Nguyễn Văn Tuy ném một quả bom giết chết các Thiếu Tá Montel và Sapuy; trước đó, ngày 13 đã có vụ anh tài xế Phạm Văn Trang mưu sát Tuần Phủ Thái Bình. Hội Đồng Đề HìnhBắc Kỳ họp ngày 5 tháng 9.1913 đã kết án tử hình vắng mặt Phan Bội Châu và các đồng chí trong Hội: Cường Để, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Quỳnh Chi, thợ cơ khí Nguyễn Văn Tuy. Bảy người khác bị chém ngày 24.9.1913 trước nhà tù Hà Nội.

9.- Trích dẫn trong Thu Trang, Những Hoạt Động Của Phan Chu Trinh tại Pháp 1911-1925, Paris 1983, trang 46-48.

Cho tới lúc ông mất vào năm 1926, Phan Chu Trinh không ngừng tố cáo việc bắt buộc tiêu thụ rượu và việc để mặc tự do hút thuốc phiện (một sở quan do Paul Doumer lập ra năm 1899) và vẫn không thay đổi dưới thời kỳ Mặt Trận Bình Dân với Bộ Trưởng Thuộc Địa Marius Moutet, thuộc Đảng Xã Hội. Ông Moutet trước đó mới chỉ là nghị sĩ, đã lên tiếng binh vực Phan Chu Trinh mà ông gọi là một người bạn. Ông Bộ Trưởng này không phải là không biết những tai hại của hai thứ thuốc độc kia và cái ‘’chính sách chụp mồi’’ (politique de proie) của chủ nghĩa thực dân, như tài liệu sau đây xác nhận:

Số 3702 Võ Giàng ngày 17 tháng 9 năm 1935

Quan Tri Huyện Võ Giàng hân hạnh thông báo cho các ông chánh tổng, xã trưởng và 13 ông trưởng khóm được biết việc sau đây: Qua văn thư số 313D ngày 13.9.1935 ông Tổng Đốc cho biết là để tiêu thụ được thường xuyên hàng tháng lượng rượu do thượng cấp ấn định, mỗi làng phải dự trù một khoản tiền để mua lượng rượu đó; số tiền đó có thể trích ở công quỹ đối với những làng có ký gửi tại những Nông Phố Ngân Hàng; còn đối với những làng khác thì được phép lấy ra từ khoản tiền chuộc lại tiệc khao hoặc bán phẩm hàm để được cấp rượu.

Justin Godard do Bộ Trưởng Mutet phái đi điều tra ở Đông Dương năm 1937 báo cáo: Chính ở thuộc địa thuốc phiện được công khai tiêu thụ. Họ đã thu được lợi lớn. Hút thuốc phiện gây tác hại cho tới các loại người lao động hèn kém nhất. Các tiệm hút bình dân được phép mở công khai là những nơi nhớp nhúa, những hang ổ nhầy nhụa bẩn thỉu, bốc lên mùi hôi thối. Đã vơ vét cho ngân sách người ta đã bán ở đây sự đồi trụy cho những con người mà lý ra vì sống trong điều kiện khốn khổ phải được bảo vệ tránh cho khỏi bị quyến rũ nghiện ngập.

Cái cảnh những người nghiện kiệt sức, đau đớn khi cơn nghiện quật vào thân xác yếu ớt của họ, làm cho đầu óc của họ trống rỗng, cái cảnh đó thật là bi thảm trong các xóm nghèo (AOM PA 2803).

Trong năm 1938, thu nhập thường xuyên của ngân sách Đông Dương lên tới 91.207.510 đồng, trong đó khoảng 1/7 là do bán 53 tấn rưỡi thuốc phiện (12.367.647 đồng), khoảng 1/13 là do thu thuế tiêu thụ 36 triệu rưỡi lít rượu quý (6.854.859 đồng) do 51 nhà máy rượu chế biến. (Báo cáo tại Đại Hội Đồng Kinh Tế Lý Tài và Hội Đồng Chính Phủ, Hà Nội 1939).

10.- Việc thả Phan Chu Trinh là nhờ ở Jules Roux, sĩ quan, cựu phái viên chính phủ ở Bắc Kỳ (1904-1909), sau đó thế chân ủy viên chính phủ (1910-1913) tại Tòa Án binh thứ nhất ở Paris. Được giao nhiệm vụ điều tra trường hợp của Phan Chu Trinh, ngày 20.2.1915 Jules Roux đã can thiệp cùng Chưởng Lý Catroux. ‘’Ông ta, một con người mà thậm chí tôi phải phí bốn tháng trời để tìm hiểu tư tưởng trong lúc tôi lãnh sứ mạng chính thức gần gũi ông vào năm 1911, nay ta bỏ rơi ông ta trong lúc ông ta gặp thêm một hồi vận bĩ, thì nghĩ cũng có hơi thấp thỏi nhác hèn’’.

Ông Chưởng Lý Catroux nói tại sao tha Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường là đúng lý phải, theo báo cáo của ông ngày 28 tháng 6 như sau: ‘’Không tìm thấy một hành động chuẩn bị nào nhằm thực thi một âm mưu đối với hai phạm nhân nói trên. [Ta không nên] lầm lạc tạo nên một vụ án để buộc tội về khuynh hướng của người ta (procès de tendance)’’ (AOM, Slotfom III, 29).

Giữa Phan Chu Trinh và Jules Roux đã nảy sinh mối tình bạn hữu. Sau khi được tha, Trinh bầy tỏ tâm trạng bi quan của mình với Jules Roux trong một lá thư gửi cho Jules Roux, đối với chính quyền thực dân: ‘’Than ôi! Tôi chẳng còn hy vọng chút nào, những ước vọng của tôi đều tiêu tan’’ (Thu Trang, Những Hoạt Động Của Phan Chu Trinh tại Pháp 1911-1925, Paris 1983, trang 81).

11.- Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l'ndochine au Viet Nam, Paris 1991, trang 42.

12.- Mưu đồ của Đỗ Cơ Quang, hội viên của Hội Duy Tân của Phan Bội Châu, trù liệu cùng với các nhân viên Sở Hỏa Xa Vân Nam và lính tập ở Hà Nội rốt cuộc bị thất bại đẫm máu vào năm 1914.

Một năm sau vụ Đỗ Cơ Quang thất bại, vài chục người do Nguyễn Hải Thần và Hoàng Trọng Mậu, cũng trong Hội Duy Tân, chỉ đạo tiến đánh đồn Tà Lùng (thuộc Tỉnh Lạng Sơn) cũng bị thất bại vì thiếu phối hợp với bên trong. Hoàng Trọng Mậu bị bắt ở Hồng Kông ít lâu sau đó, bị giao trả cho Pháp rồi bị chém đầu ở Hà Nội.

Vào cuối năm 1914, 400 người Mán ở thượng lưu sông Hồng bất mãn với thực dân bắt họ nô dịch. Họ tin tưởng vào quyền năng thần bí của Trương Nhi Keo ‘’Chúa Mán và cũng là ông Hoàng của các Thần Linh’’, họ dùng súng bắn đá tấn công các đồn tiền tiêu do lính tập người Việt đóng. Kết quả: 80 người bị chết trong chiến đấu, Vua Mán bị bắt. Năm 1915, có nhiều nhóm loạn dân cảm mộ một thầy phù thủy nổi danh tấn công các đồn lính cảnh vệ người bản xứ quanh các vị trí của người Pháp ở Phú Thọ. (Georges Coulet, Les Sociétés secrètes en terre d'Annam [Hội kín ở đất An Nam], Sài Gòn 1926, trang 18-19).

Năm 1916, ở Trung Kỳ Hội Duy Tân của Phan Bội Châu nổi dậy: Một cuộc bạo động non vào tháng 5, những người âm mưu phân phát chương trình về các quyền tự do dân chủ và cải cách thuế khóa; họ dựa vào sự hỗ trợ không chắc chắn của người Đức và tin tưởng nơi ông vua trẻ Duy Tân (16 tuổi), ông này tham gia bị bắt và lưu đày.

Cuộc bạo động bị đàn áp tàn nhẫn: 16 người bị chém.

Ngày 24 tháng giêng năm 1916, tại Nam Kỳ, khoảng 150 đến 200 nông dân ở Tỉnh Biên Hòa, vũ trang bằng liềm hái và vài khẩu súng, tấn công các nhà hội làng, nơi mà hương chức đang thu nạp những người ‘’tình nguyện đi lính’’; tù nhân khám Biên Hòa nổi dậy cướp súng lính gác rồi đi theo dân nổi loạn; bị lính tuần đuổi theo, tất cả biến hết vào rừng. Phong trào phiến loạn sôi nổi khắp trong 13 tỉnh (trong số 20 tỉnh) ở Nam Kỳ, sau cùng vào tháng hai, nổ lên cuộc đánh phá Khám Lớn Sài Gòn trong đêm 14 rạng ngày 15 tháng 2 năm 1916, dân binh là những nông dân gia nhập hội kín Nghĩa Hòa, trong mình họ đeo bùa, họ tin đeo bùa thì đạn bắn không lủng, gươm đạm không thủng; họ toan giải thoát ‘’Hoàng Đế Phan Xích Long’’, bị giam từ năm 1913; họ sắp chiếm Dinh Thống Đốc. Rất nhiều người bị đạn bắn gục. Ngày 21, 172 người bị xử tại Tòa Án Binh: 38 người bị xử bắn, những người khác bị đưa ra Côn Đảo. Tổng kết toàn năm 1440 nông dân chống đối hoặc bị tình nghi là có tư tưởng phiến loạn bị kết tội trong 70 ‘’vụ âm mưu, hội kín, ám sát’’. (Georges Coulet, Les Sociétés secrètes en terre d'Annam [Hội kín ở đất An Nam], Sài Gòn 1926, trang 333,343).

Ngày 31 tháng 8 năm 1917, tại Bắc Kỳ, binh lính người Việt ở Thái Nguyên do Lương Ngọc Quyến khuyến khích đứng lên chống lại Công Sứ Darles, tính bạo ngược đã làm cho dân chúng sợ hãi từ tám năm qua. Theo một báo cáo chính thức, từ 1 tháng giêng đến 31 tháng 8 năm 1917 có tới 660 tù nhân bị chết trong trại giam lao ở địa phương. Mọi lá đơn kêu ca phàn nàn gửi lên cho thượng cấp về những đòn tra tấn của Darles đối với tù nhân và binh lính đều vô ích. Binh lính An Nam cướp lấy súng đạn, phá kho bạc, giết các viên chức người Pháp, giải thoát tù nhân rồi cùng nhau trốn vào rừng. Cuộc săn đuổi những người nổi dậy kéo dài hơn sáu tháng, hàng trăm người bị kết án tử hình hoặc tù giam. Darles bị xử nộp phạt 200 Franc! ‘’Nhà chức trách đã ban đặc ân cho y được giải chức để vào phục vụ cho Công ty Rượu Đông Dương nổi tiếng, một cơ quan đã chính thức tán thành việc áp dụng chế độ bắt buộc người bản xứ tiêu thụ rượu’’ (báo Ami du Peuple [Bạn dân] 14.9.1928).

13.- Ngày 8 tháng giêng năm 1918, Wilson trong thông điệp gửi đến Hội Nghị, đưa ra 14 điểm nổi tiếng. Điểm 5 liên quan tới quy chế các vấn đề thuộc địa, là phải làm sao để ‘’quyền lợi của dân chúng (thuộc địa) cân bằng với những đòi hỏi công bằng của chính phủ đương sự để xác định về pháp quyền’’. Ta hãy nhắc lại rằng ở Châu Âu lúc đó vấn đề dân tộc tự quyết đang nổi lên trong các chương trình nghị sự; Nga và Áo-Hung thực sự là những ‘’Nhà nước của các Dân Tộc’’ chứ không phải là những Nhà nước dân tộc (ở Nga có từ 25 tới 30 triệu dân là dị chủng); ngày 14 tháng 8 năm 1914, Quận Công Nicolai-Grand Duke Nikolaj Nikolajevitsj Romanov (1856-1929) hứa sẽ khôi phục lại dân tộc Pologne (Ba Lan)‘’dưới uy quyền Nga hoàng’’, đúng vậy, nhưng Pologne (Ba Lan) có tôn giáo, ngôn ngữ và bộ máy hành chính riêng.

Trong giới xã hội-dân chủ, vấn đề đó đã được bàn cãi từ trước khi chiến tranh nổ ra. Ngày 15 tháng 11 năm 1917 một sắc lệnh của chính phủ Ủy viên nhân dân đã công bố quyền tự quyết của các dân tộc ở Nga và cả quyền lập ra Nhà nước độc lập. Ngày 5 tháng giêng năm 1918, Lloyd George, trong một bài diễn văn đọc trước các đại biểu các Công Đoàn, đã khẳng định mục đích của Đại Anh Quốc là đi đến chỗ giải quyết vấn đề lãnh thổ trên cơ sở quyền các dân tộc tự quyết.

14.- Edouard Dolléans, Histoire du mouvement ouvrier 1871-1936 (Lịch sử phong trào công nhân 1871-1936), Paris 1946, II trang 282.

15.- Nguyễn ái Quốc, không hề là một nhà thơ, đã đặt những yêu sách thành một bài văn vần, Việt Nam yêu cầu ca, gửi cho đồng bào, kết luận bằng một lời hô hào, kêu gọi ‘’nhân dân Pháp ưa chuộng công bằng’’‘’chớ nên ngoảnh mặt đi’’; ông nhắc lại sự hỗ trợ của người Việt đối với nước Pháp trong chiến tranh 1914-1918:

Việt Nam xưa cũng oai thiêng,

Mà nay đứng dưới thuộc quyền Lang sa

Lòng thành tỏ nỗi xót xa,

Dám xin Đại quốc coi qua chút nào.

(16 câu lục bát kể 8 điều yêu cầu...)

Việt Nam ta vẫn một lòng,

Năm năm vẫn chịu trong vòng một vai.

Mấy mươi vạn chở sang Âu

giúp sức tùng chinh.

Người làm thợ kẻ làm binh,

Trong vòng nước lửa bỏ mình biết bao.

Máu nhuộm thấm khắp hào đất Pháp,

Xương chôn tràn dải cát Banh Kăn...

Biết bao thảm khổ nhọc nhằn,

Mà ta đã chút nỉ nằn chi nao!

Gian nan hiểm trở một lòng,

Cũng vì mong chút lý công trong đời.

Nay Đại Pháp gặp thời khánh hạ,

Nhân chúc mừng khắp cả đông dân,

Người vui chắc đã mười phân,

Nỡ nào ta lại mắc thân tôi đòi!

Người thì phải yêu nòi yêu nước,

Xem người Âu mà bắt chước bấy người Âu.

Người người ta cũng là người,

Người ta được chục mình mười mới hay.

Đồng tâm xin thấu tình cho.

Ký tên: Nguyễn Ái Quốc

56, rue Monsieur-le-Prince, Paris-6e.

Yêu cầu ca được đánh máy ra nhiều bản đề ngày 16.6.1919, và gửi cho nhiều tờ báo ở Đông Dương.

16.- D. Hémery, L'immigration vietnamienne en France, de 1926 à 1930 (Người Việt di cư sang Pháp từ năm 1926 tới 1930), trong Le mouvement social (Phong trào xã hội) số 90, Paris 1975, trang 11.

17.- Luận thuyết của Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ II, Moscou tháng 7.1920. Moscou và những người cộng sản Pháp sẽ ủng hộ nền độc lập của nhân dân Việt Nam, cho tới khi ký Hiệp Ước Laval-Stalin tháng 5.1935, ta thấy lãnh tụ Điện Cẩm Linh (Kremlin) sở cậy vào Nhà nước đế quốc Pháp, không còn ngó ngàng đến dân thuộc địa nữa và bỏ rơi công nhân Pháp.

18.- Đông Pháp Thời báo, 23.3.1927.

19.- Thu Trang, Những Hoạt Động Của Phan Chu Trinh tại Pháp 1911-1925, Paris 1983, trang 135.

20.- Về thuế máu này, trong chiến tranh 1914-1918, 887.400 dân các thuộc địa bị chuyên chở sang Pháp, trong đó có 80.000 dân Đông Dương; 350.000 người bị đưa đi làm việc trong các nhà máy quốc phòng. Theo điều tra năm 1918, trong số 36.715 người lao động Đông Dương, 25.236 người mù chữ. Tới ngày 1 tháng 7 năm 1919, số lao động Đông Dương ở Pháp còn 60.000 người; đến ngày 1 tháng 6 năm 1920 còn 19.000 người, trong thời gian đó đã có 41.000 người được trở về nước. (AOM, ‘’Ghi chú về vựng tập Slotfom’’). Bốn năm ở Pháp làm cho những người này ít nhiều thay đổi tánh tình; trở về làng, dưới con mắt hương hào thì những phu phen và lính tráng này là những phần tử làm đảo lộn trật tự và truyền thống. Năm 1931, Nguyễn Khoa Kỳ, Tổng Đốc ở Vinh, tuyên bố: Ngày nay, làng xã là nơi hỗn loạn vô chính phủ. Lính tráng từ Pháp trở về cùng những thanh niên ra khỏi trường học hiện đại đả kích uy quyền hào lý (AOM NF 363).

Về tên ký dưới bài văn phóng thích này, Nguyễn ái Quốc (trở thành Hồ chí Minh) đã tự kể lại là mình ‘’không viết thạo tiếng Pháp nên đã nhờ Phan Văn Trường viết thay. Chính là ông Nguyễn (ái Quốc) đã ký dưới các bài đó’’. (Trần dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Hà Nội 1958, trang 35).

Hồ Hữu Tường kể lại: ‘’Linh hồn của nhóm Ngũ Long này là Phan Chu Trinh. Khi viết báo chống thực dân, thì ý kiến thường do Cụ Tây Hồ xướng ra, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh thảo thành tiếng Pháp, và giao cho Tất Thành đem giao cho nhà báo với một bút hiệu chung. Về bút hiệu này, có một giai thoại kể ra buồn cười. Lúc ban đầu, các cụ chọn bút hiệu là Nguyễn Ố Pháp. Nghĩa là thằng Nguyễn ghét người Pháp. Tên này được độc giả Pháp hoan nghênh lắm, vì giọng nói dí dỏm đặc biệt của người Việt, lại thêm câu văn của Ninh và Truyền gọt giũa nên có duyên. Độc giả gửi thư đến nhà báo hỏi Nguyễn Ố Pháp là ai và tên ấy có nghĩa là gì? Các cụ buộc lòng phải dịch cho ngay tình. Các bạn phản đối cái tên cực đoan và dễ ghét, mà tiếng Pháp gọi là sô vanh (chauvin) và đề nghị đổi đi. Từ đó, bút hiệu Nguyễn Ố Pháp bị đổi là Nguyễn Ái Quốc. Về sau bốn vị kia tách ra, tên Nguyễn Ái Quốc còn lại riêng cho Hồ chí Minh.’’ (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Hồi ký, Paris 1984, trang 18-19).

21.- Việt Nam Hồn, số 7, tháng 7.1926 - Archives Nationales, Paris. F7 13409.

22.- La Nation Annamite Số 2, tháng 8.1927.