Chương 12 1961-1962 hai năm khốn cùng
Sau sáu năm cai trị (1954-1960), gia đình ông Diệm và chế độ Cần Lao Công giáo đã đưa miền Nam đến khúc quanh nghiệt ngã mà chỉ cần vài nét chấm phá, ký giả Bernard C. Nalty cũng đã phác họa được bức tranh đen tối đó:
... Ngô Đình Diệm không thiếu gì kẻ thù. Chủ trương chống Cộng của ông ta là tiêu diệt các đảng phái và bắt bớ giam cầm tất cả những ai là đối lập với ông ta, kể cả những người chống Cộng. Ông ta cai trị với cung cách cứng nhắc của một người mà lại không có cái phong độ của Hồ Chí Minh. “Bác Hồ” biết hòa mình với dân chúng và luôn luôn làm như muốn thỏa mãn nguyện vọng của nhân dân. Trong lúc ông Diệm lại xa rời quần chúng, bao vây bởi những người anh em trong gia đình vốn tham lam và ích kỷ, và ông ta chuyên cai trị bằng sắc luật. Ngay cả y phục của ông ta cũng đã tố cáo ông ta rồi: trong lúc Hồ Chí Minh mặc áo quần theo kiểu dân quê thì Ngô Đình Diệm lại mặc âu phục trắng theo kiểu các quan cai trị thực dân cũ.
Diệm không thể tin tưởng vào quân đội của ông ta. Tháng 11 năm 1960, lực lượng Nhảy dù đã bao vây dinh Độc Lập buộc ông ta hứa phải cải tổ chính phủ, thứ chính phủ gồm hầu hết là Cần Lao và bà con của ông ta. Trong lúc đưa ra lời hứa thì Diệm lại bí mật kêu gọi đám quân trung thành về Sài Gòn bao vây lại đám quân đảo chánh. Diệm đã không giữ lời hứa cải thiện chế độ.
Sau sáu năm trời làm một thứ Quốc trưởng không ai lay chuyển nổi, Diệm vẫn bất an. Sự ủng hộ của nhân dân phai lạt, quân đội không thể chiến đấu theo lối chiến tranh cách mạng của Việt cộng, còn kinh tế quốc gia hầu hết hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ Mỹ [1].
Về điểm ông Diệm xa rời quần chúng mà Bernard C. Nalty đề cập trên đây thì không thiếu những sự kiện để chứng minh. Ở đây tôi muốn đưa ra hai hình ảnh điển hình có tính cách hài hước lố lăng làm chướng tai gai mắt dân chúng để làm dẫn chứng.
Việc thứ nhất được chương trình Vietnam: A Television History của ký giả Karnow trình chiếu trên đài truyền hình PBS Hoa Kỳ năm 1984 cho thấy ông Hồ Chí Minh di chuyển thì lội bộ giữa bùn lầy, hay đi bộ trong rừng rậm, còn ông Diệm thì chễm chệ ngồi trên ghế bành một mình trên chiếc thuyền có sĩ quan cấp tá của quân đội lội nước hì hục đẩy, trong lúc một toán lính ngâm mình dưới nước bồng súng dàn chào theo kiểu vua chúa phong kiến thời xưa.
Việc thứ hai là lúc ông Diệm đi kinh lý Đà Lạt, khi trở về Sài Gòn phải đến phi trường Liên Khương để lên phi cơ, chẳng may phi cơ đến trễ nên quốc lộ 20 bị chặn lại, xe cộ kẹt cứng đến cả cây số làm cho dân chúng phải đậu xe hai bên lề đường chờ đợi lâu cả mấy tiếng đồng hồ. Không ngờ trong đám dân chúng đó lại có văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, gia đình ông và một số thân hữu. Ông Nguyễn Tường Tam bèn nói đùa với con cháu ông ta: “Nếu trong số đây mai sau có ai lên làm Tổng thống, thì hãy nhớ đến cái ngày hôm nay, phải chờ đợi bực mình như thế này nhé” [2].
Chính sách cai trị thất đức và bất tài của anh em ông Diệm đã mạnh mẽ và trực tiếp gây thanh thế và thực lực cho Cộng sản để họ có thể mau chóng thành lập được “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam” vào ngày 20 tháng 12 năm 1960, nghĩa là chỉ sáu năm sau khi ông Diệm nắm chính quyền. Từ nay, trước đồng bào miền Nam và trước quốc tế, quốc gia gọi là Việt Nam Cộng Hòa đã bị coi ngang vị thế với “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam” mặc dù Mặt trận chỉ là sản phẩm chính trị của Hà Nội mà thôi. Sự ra đời của Mặt trận là một đòn chính trị vô cùng xuất sắc của Bộ Chính trị Bắc Việt. Sự ra đời đó mang một ý nghĩa tuyên truyền cách mạng rằng chính lực lượng nhân dân miền Nam vì căm thù chế độ tay sai của Mỹ nên đã nổi dậy để chống lại đám tay sai và ông chủ của chúng là đế quốc thực dân mới. Sự ra đời của Mặt trận không những mê hoặc và lôi cuốn được một số trí thức, sinh viên, thanh niên miền Nam mà, quan trọng hơn cả, là đã động viên được tầng lớp nông dân và lao động của miền Nam, vốn bất mãn với chế độ Diệm mà họ cho là chế độ của người Bắc xâm lược miền Nam bằng chính sách nâng đỡ đặc biệt cho người Công giáo miền Bắc di cư và bằng chính sách kỳ thị tôn giáo qua chế độ “Công giáo trị”. Với sự ra đời của “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam”, Hà Nội còn được ưu thế đứng ngoài vòng tranh chấp của những người sống ở phía Nam vĩ tuyến 17, không xen vào nội bộ miền Nam, do đó tạo được chính nghĩa kháng chiến cho Mặt trận mà Hà Nội khỏi mang tiếng là “kẻ xâm lăng”. Trên mặt quốc tế, Hà Nội tạo được uy tín và cảm tình với mọi quốc gia, đặc biệc là với những quốc gia trong khối đệ tam vốn chưa ý thức được chiến lược và chủ trương của Cộng sản. Khẩu hiệu “Mỹ Diệm” mà Hà Nội tung ra để mê hoặc người Miền Nam và quốc tế quả thực là một thủ đoạn tuyên truyền vô cùng lợi hại. Cho nên nhìn lại toàn bộ cuộc chiến thì kể từ khi “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam” ra đời vào cuối năm 1960, sự thất bại chính trị của Việt Nam Cộng Hòa coi như đã bắt đầu.
Trước thủ đoạn chính trị chia rẽ người miền Nam với chế độ Diệm căn cứ trên những thực tế chính trị và xã hội rất rõ ràng, và trước cơn lâm nguy của đất nước, đáng lẽ sau sáu năm thất bại, anh em ông Diệm phải thay đổi chính sách, phải thực hiện một cuộc cách mạng xã hội, thực hiện đại đoàn kết dân tộc để mỗi thành phần quốc gia, mỗi tôn giáo, đảng phái cùng có cơ hội chung lo việc chống Cộng cứu nước, thì bất hạnh thay, anh em ông Diệm lại càng ngoan cố hơn, độc tài hơn trong việc củng cố địa vị, trong độc quyền chống Cộng. Họ đã lợi dụng vụ “Tuyên ngôn Caravelle”, vụ đảo chánh của Nhẩy Dù để tiến hành một chính sách đàn áp khủng bố mới bằng những cuộc lùng bắt bố ráp những người quốc gia đối lập. Chủ trương bắt bớ giam cầm của anh em ông Diệm đã làm cho hàng ngũ quốc gia, nhất là những phần tử có uy tín với quốc dân phải tan rã: kẻ thì bị vào tù, kẻ thì phải tìm phương ẩn tránh, kẻ thì trốn ra ngoại quốc, kẻ thì giữ thái độ trùm chăn tìm sự bình yên. Hậu quả của sự tan rã này là chính nghĩa và sức mạnh chống Cộng bị kiệt quệ, Cộng sản bèn lợi dụng tuyên truyền khối quần chúng bất mãn đã thiếu mất lớp người quốc gia đối lập đáng lẽ có thể hướng dẫn cho họ vừa chống Diệm vừa chống cả Cộng sản.
Không cần phải dài dòng mà chỉ cần đọc lại đoạn hồi ký và bài thơ trong tù của ông Trần văn Hương (thuộc nhóm Caravelle) cũng đã đủ thấy chiến dịch bắt bớ, giam cầm của nhà Ngô sau biến cố 11-11-60 như thế nào rồi [3]:
Ngày thứ bảy 12-11-60, lối 11 giờ (nghĩa là ngay cả trước khi các lãnh tụ đảo chánh chưa ra đi, tình hình Sài Gòn chưa trở lại yên ổn) tôi bị Nha Cảnh sát và Công an Quốc gia đòi đến rồi câu lưu luôn để cứu xét vì tôi bị tình nghi có liên quan trong vụ biến cố 11-11-60. Qua ngày sau và những ngày kế tiếp, một số anh em trong nhóm 18 người của khối Tự do Tiến bộ mà người ta thường gọi là nhóm Caravelle lần lượt bị đòi và bị câu lưu. Nhìn anh em, tôi chợt nhớ bài thơ Ngồi Trăng của ông Học Lạc nên mượn vân thơ (chú, lũ, tụ, phủ, vụ) làm bài sau đây:
Ngồi tù một lũ
Này anh, này cụ, này là chú,
Lóc cóc vào đây ngồi một lũ,
Những tưởng buồn như chó mất nhà,
Nào ngờ vui quá bàn xôm tụ,
Thân này dẫu vướng chốn lao lung,
Nỗi ấy vẫn ghi trong phế phủ,
Xuống chó lên voi lắm chuyện đời,
Xưa nay diễn biết bao nhiệm vụ.
Ông Trần văn Hương là một nhà giáo mô phạm, là thầy học của rất đông thành phần trí thức của miền Nam đương thời. Ông là một nhân sĩ tiêu biểu cho lớp sĩ phu tiền bối như Đồ Chiểu, Thủ Khoa Nghĩa, Thủ Khoa Huân, Phan văn Trị của miền Nam luôn luôn được nhân dân miền Nam hết sức trọng vọng. Ông từng là Đô trưởng Sài Gòn - Chợ Lớn thời ông Diệm mới chấp chánh, nổi tiếng nhờ tính tình cương trực liên chánh. Ông thường đi làm bằng xe đạp và không xử dụng công xa. Khi thấy rõ anh em ông Diệm độc tài, kỳ thị địa phương và kỳ thị tôn giáo, ông xin từ chức ngay rồi về nhà sống cuộc đời nghèo nàn thanh bạch. Nhưng tâm hồn kẻ sĩ nơi ông không cho phép ông im hơi lặng tiếng trước một chế độ càng ngày càng gây thêm nhiều tội lỗi, ông bèn tham gia nhóm “Tự Do Tiến Bộ” họp báo tại Caravelle ra tuyên ngôn phản đối chế độ Diệm.
Việc nhà Ngô bắt giam ông không những là một tội ác đối với dân tộc mà còn là một hành động chà đạp tự hào và tự ái của dân miền Nam, vì toàn dân miền Nam, bất kỳ những ai có chút học hành có chút hiểu biết thời thế, đều coi ông Hương như một tấm gương sáng trong cách xử thế, một bậc thầy trong trường đời. Giam cầm ông Trần văn Hương (cũng như ông Phan Khắc Sửu và Kỹ sư Trần văn Bạch) nhà Ngô, một lần nữa, đẩy trí thức nhân sĩ miền Nam vào vòng chống đổi, đẩy lao động nông dân miền Nam chạy theo Việt cộng.
° ° ° ° °
Trong lúc Công an, Cảnh sát và Mật vụ của Lê Quang Tung và Dương văn Hiếu mở chiến dịch lùng bắt và điều tra thành phần dân sự đối lập thì Nha An ninh Quân đội phụ trách việc điều tra thành phần quân nhân.
Ngày 14 tháng 11 năm 1960, tôi được Tổng thống Diệm gọi vào dinh Độc Lập để ông cho những chỉ thị cần thiết. Mới thấy tôi, ông hỏi ngay: “Anh có biết mấy lâu nay những thằng CIA Mỹ nào thường gặp gỡ thằng Thi?”. Khi tôi trả lời không biết thì ông nói tiếp đại ý cho rằng chính người Mỹ đã xúi dục Nguyễn Chánh Thi tổ chức đảo chánh để lật đổ chính phủ của ông. Sau đó ông ra lệnh phải tìm cho ra tên tuổi những nhân viên Tòa đại sứ Mỹ thường tiếp xúc liên lạc với Đại tá Thi, những người Mỹ nào hay lui tới với các sĩ quan Nhảy dù.
Thấy ông Diệm lầm Đại tá Thi là người chủ xướng cuộc đảo chánh do sự xúi dục của Mỹ, tôi bèn nói: “Thưa cụ, Nguyễn Chánh Thi là một sĩ quan đã có thành tích ủng hộ cụ ngay từ đầu, khi cụ còn gặp những khó khăn vào những năm 1954, 1955, do đó được cụ tín nhiệm giao cho chỉ huy Lữ đoàn Nhảy dù thay Đỗ Cao Trí. Thi là một người cương trực, được binh sĩ Nhảy dù kính mến và tuy bấy lâu nay Thi có tỏ thái độ bất mãn với ông bà Cố vấn, với ông Cậu, nhưng đối với cụ, Thi không hề đả động đến”. Để củng cố thêm lập luận đó, tôi trình bày thêm: “Thưa cụ, vào khoảng 4 giờ sáng ngày 11-11-1960, sau khi tiếng súng “phản loạn” nổ và được anh Bằng cho biết là quân Nhảy dù đang tấn công dinh Độc Lập, tôi gọi điện thoại ngay về nhà Thi thì được một trung sĩ Nhảy dù trả lời rằng vào khoảng nửa đêm, Đại tá Thi đang ngủ ở nhà thì bị Trung tá Vương văn Đông và 4, 5 sĩ quan Nhảy dù đến mời đi, mời với thái độ nài ép, bắt buộc. Theo tôi thì nhóm Vương văn Đông mới là kẻ xướng xuất cuộc đảo chánh, nhưng họ thấy Đại tá Thi thường tỏ thái độ bất mãn với chính phủ nên họ lợi dụng uy tín và địa vị Tư lệnh của Đại tá Thi để toàn thể binh sĩ Nhảy dù tuân phục nhóm đảo chánh và hăng hái tham dự”. Ông Diệm vẫn không tin, nói lại: “Nhưng mà ông Cố vấn đã có những tin tức cho biết chính CIA Mỹ chủ động cuộc đảo chánh này”. Khi ông Diệm đã đưa danh nghĩa ông Nhu ra thì tôi biết không còn gì để tranh luận nữa, nhưng cũng cố gắng nói thêm: “Thưa cụ, không biết ông Cố vấn dựa vào đâu mà nói vậy, nhưng theo tôi, trong vụ đảo chánh vừa rồi, nếu có bàn tay của người ngoại quốc thì chỉ có thể là bàn tay của Pháp chứ không thể là của Mỹ, và trái lại chính Mỹ đã cứu cụ”. Ông Diệm mở to mắt nhìn tôi, tôi nói tiếp: “Thưa cụ tôi luận như thế vì có mấy yếu tố cần được phân tách, thứ nhất là từ khi cụ cầm quyền, người Pháp có thái độ chống đối cả cụ lẫn người Mỹ; thứ hai Vương văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng và Bộ trưởng Trần Lê Quang đều là rể của cựu Trung tá Huấn (quản lý khách sạn Caravelle của Ngô Đình Thục) là một người thân Pháp, thân với tướng Nguyễn văn Hinh; yếu tố thứ ba là đa số sĩ quan thuộc thế hệ trước, thế hệ “quân đội quốc gia”, trong đó có nhóm Vương văn Đông đều có tinh thần bài Mỹ, điển hình như Lê văn Kim, Đỗ Cao Trí, Lam Sơn... vốn có tư tưởng và hành động chống Mỹ mà Cụ đã biết rõ và vẫn thường la rầy (trường hợp Đỗ Cao Trí và Lam Sơn). Còn yếu tố thứ tư là chính ông Miller thuộc Tòa đại sứ Mỹ, đã đến trước dinh Độc Lập để khuyên Vương văn Đông tạm đình cuộc tấn công trước sự hiện diện của tướng Khánh”. Tuy tôi đã đưa ra những phân tách như thế nhưng ông Diệm, vốn bị ảnh hưởng nặng nề của ông Nhu, nên vẫn cố nói thêm: “Nhưng trong vụ đảo chánh này có thằng Phan Quang Đán và thằng Hoàng Cơ Thụy là tay sai của CIA”. (Sau này, tôi được biết sau khi thất bại, ông Hoàng Cơ Thụy nhờ CIA Mỹ lái xe cho ông lên phi trường để xuất ngoại nhưng ông Thụy không phải là người của CIA).
Trước định kiến chắc nịch như thế của ông Diệm tôi còn biết nói gì thêm, chỉ thắc mắc tự hỏi vì sao ông Nhu lại cứ đổ cho ông Phan Quang Đán trong khi biết chắc hai ông Thi và Đán không phải là người tổ chức cuộc đảo chánh. Ông Thi chỉ được nhóm đảo chánh Vương văn Đông mời tham dự, còn ông Đán thì lại do ông Thi mời hợp tác với quân đảo chánh vào buổi trưa ngày 11-11-1960. Là một thuộc cấp, tôi chỉ biết tuân lệnh nhưng lòng riêng vẫn thắc mắc tại sao ông Nhu, “đại trùm mật vụ” của chế độ, lại có những nhận định phản khoa học, phản tình báo như thế. Ba năm sau tôi mới biết rõ thủ đoạn của ông ta.
Tôi bắt đầu mở cuộc điều tra vụ đảo chánh thì bỗng nhận được văn thư của Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Đình Thuần (hiện ở hải ngoại) chỉ thị rằng theo lệnh ông Cố vấn thì Thiếu tá Nguyễn Hữu Kính (Công giáo di cư), Phụ tá của Lê Quang Tung, và ba Đại úy thuộc lực lượng Đặc biệt được biệt phái đến Nha An ninh Quân đội, đặt dưới quyền tôi để đặc trách cuộc điều tra vụ đảo chánh của Thi và Đông.
Theo tinh thần của bức văn thư thì tôi vẫn chịu trách nhiệm cuộc điều tra và phải ký giấy tờ liên hệ đến cuộc điều tra, nhưng người trực tiếp điều hành công tác lại là nhóm sĩ quan Lực lượng Đặc biệt. Bằng phương thức này, ông Nhu chẳng những đã công khai tỏ ra không tin tưởng tôi mà còn cố tình làm mất uy tín của tôi đối với nhân viên thuộc quyền. Tôi cứ thắc mắc tự hỏi tại sao ông Nhu không giao hẳn việc điều tra vụ “phản loạn” cho cơ quan của Lê Quang Tung thụ lý để tôi tránh được một công tác tế nhị. Tế nhị vì sự dằng xé của lương tâm, vì một mặt tôi phải làm bổn phận trung thành với chế độ mà chính tôi cũng bất mãn, và mặt khác tôi phải trừng trị nhóm người “phản loạn” mà trong thâm tâm tôi rất cảm phục. Đã thế, thiếu tá Kính và nhóm sĩ quan của Lê Quang Tung lại thường qua mặt tôi trong việc bắt bớ giam cầm những sĩ quan và binh sĩ ở các đơn vị khác chỉ vì các đơn vị trưởng muốn lập công và do nhóm Cần Lao làm điểm chỉ. Có ngày họ bắt về hàng trăm binh sĩ, hàng trăm đàn bà con nít thuộc gia đình những quân nhân “phản loạn”, tạo nên tình trạng hỗn loạn cho Nha tôi, và nhất là tạo sự hiểu lầm nơi một số quân nhân đối với riêng cá nhân tôi. Nhóm sĩ quan biệt phái cũng lợi dụng danh nghĩa của An ninh Quân đội để khủng bố làm tiền giới Hoa Kiều Chợ Lớn, làm cho tôi mang tiếng, cũng như trước kia nhóm Cần Lao Mật vụ của ông Cẩn ở Huế lấy danh nghĩa của An ninh Quân đội khủng bố ông Hà Thúc Ký và nhiều Đảng viên đảng Đại Việt để làm tiền sau vụ Ba Lòng. Tôi muốn nhắc lại những chuyện này để trình bày một lần cho xong với các bạn quân nhân hiện ở hải ngoại vốn từng làm việc dưới quyền tôi thời Ngô Đình Diệm, để anh em thấy rõ nỗi lòng cay đắng của tôi lúc bấy giờ đã không thể công khai nói lên được.
Sáu, bảy năm trời anh em đã cộng tác với tôi, đã thấy rõ tinh thần công minh liêm chính của tôi, đã thấy chủ trương “đoàn kết dân tộc” của tôi, đã thấy đường lối “huynh đệ chi binh” mà tôi chủ xướng từ ngày còn ở Phân Khu Duyên Hải, đã thấy chính sách “nặng giáo hóa, nhẹ trừng trị” của tôi... nhưng vì vận nước truân chuyên và, nói như ký giả Robert Shaplen, “ở đâu có ảnh hưởng Cần Lao xen vào là ở đó sinh ra rối loạn”, cho nên dù đã cố gắng hết sức, Nha của chúng ta đã có những lúc bị hiểu lầm, hoặc bị cố tình bôi bẩn mang tai tiếng. Bây giờ, giai đoạn lịch sử đó đã qua rồi và trong trạng huống của một người sống tha hương, hồi tưởng lại những năm điều khiển Nha, tôi vẫn thấy hãnh diện và tự hào về cả phẩm lẫn chất của Nha, nên tôi thấy cần phải nói lên để cho Sự thật không bị che mờ. Có lẽ anh em còn nhớ vụ Dương văn Hiếu (hiện ở Mỹ) đã bắt Chuẩn úy Lê Hữu Thúy giấu biệt tích không thông báo cho tôi, rồi đưa ra miền Trung cho ông Ngô Đình Cẩn xử dụng mặc dù Thúy là người Công giáo nhưng lại là một đảng viên cao cấp của Cộng sản nằm vùng. Có lẽ anh em vẫn còn nhớ vụ em ruột bà Nhu là Trần văn Khiêm, lúc sắp nhận chức Giám đốc Nha Nghiên cứu Chính trị, đã bắt giữ và đòi làm tiền hai nhân viên Ty An ninh Quân đội An Giang. Vụ này chẳng những ông Nhu đã không la rầy người em vợ lại còn nặng lời chỉ trích khi tôi đến trình bày nội vụ với ông ta. Có lẽ anh em còn nhớ vụ Trung tá Nguyễn Huỳnh được ông Nhu và nhóm Cần Lao đặt làm phụ tá cho tôi mà không thèm hỏi ý kiến tôi. Mới về Nha chưa được bao nhiêu ngày, Huỳnh đã làm tiền Hoa Kiều một triệu bạc trong vụ đấu thầu đồ phế thải quân đội mặc dù hơn năm năm trời, Nha An ninh Quân đội tuy mang tiếng là Mật vụ, là tay sai của chế độ Cần Lao mà vẫn được tiếng liêm khiết. Nguyễn Huỳnh, người Công giáo bà con với Tỉnh trưởng Nguyễn Trân quê ở Quảng Nam, lúc làm Tỉnh trưởng Long Khánh, Huỳnh đã tham nhũng cả mấy chục triệu bạc để che giấu mấy trăm triệu thuế của Tây đồn điền thời ông Bùi văn Lương làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Huỳnh chia chác cho ai, Tây đồn điền biết hết thế mà ông Nhu lại đem y về đảm nhiệm chức vụ số hai của cơ quan có nhiệm vụ “bảo vệ tinh thần quân đội”! v.v...
Tôi muốn kể lại những vụ nhỏ nhặt nhưng tiêu biểu trên vì lúc bấy giờ đã có nhiều sĩ quan của tôi đến than phiền và bày tỏ sự công phẫn trước tư cách hống hách, lộng hành của nhóm Cần Lao mà tôi chỉ khuyên họ nên ẩn nhẫn.
Tuy nhiên, sau vài tháng, không chịu nổi sự lạm quyền của Thiếu tá Kính nữa, tôi gọi Kính lên văn phòng và cho biết rằng từ nay anh ta phải hoàn toàn chịu mệnh lệnh của tôi, tôi sẽ trực tiếp nắm lấy cuộc điều tra.
Bắt tay vào việc, tôi liền trả tự do cho nhóm phụ nữ và trẻ em và nhóm quân nhân không liên hệ trực tiếp đến vụ đảo chánh nhưng chỉ bị tố cáo là có cảm tình với nhóm phản loạn, chẳng hạn như đã “nói xấu Tổng thống, đã mạt sát ông Cẩn, bà Nhu, đã có những lời lẽ chỉ trích chế độ, nói xấu người Công giáo, đã tỏ ra vui mừng khi nghe tiếng súng đảo chánh nổ, đã ca ngợi Phan Quang Đán và Nguyễn Chánh Thi...”
Tôi nghĩ rằng những sĩ quan tham dự đảo chánh, những sĩ quan bất mãn với chế độ cũng cùng mang một tâm sự như mình. Nếu tôi không ấp ủ tình cảm chung thủy với ông Diệm, cái tình cảm keo sơn thắm thiết đã gần 20 năm trời, biết đâu giờ này tôi cũng đã đứng vào hàng ngũ “phản loạn”. Tôi lại nghĩ rằng tạo cuộc binh biến là dễ dàng mua lấy cái chết mà họ dám hy sinh chỉ vì lòng yêu nước của họ, chỉ vì họ sợ quốc gia rơi vào tay Cộng sản, như vậy thì họ đâu có phản Tổ quốc Đồng bào mà trái lại họ chỉ muốn đạp đổ một chế độ bất lực thối tha đang làm cho đất nước suy vong. Huống chi đời tôi cũng ít nhiều vào tù ra tội vì chống Thực, Phong, Cộng, há vì cái chế độ “Cần Lao Công giáo” này mà làm tan rã quân đội, mà đi ngược lại lòng dân sao? Cho nên mặc dù có hàng ngàn sĩ quan và binh sĩ trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến cuộc đảo chánh, tôi chỉ đề nghị đem ra tòa có 19 người và phạt quân kỷ độ 30 người. Tôi còn cẩn thận đem danh sách những can phạm ra trước một Hội đồng cấp Tướng họp tại Bộ Tổng Tham mưu để Hội đồng định đoạt lấy số phận những người mà tôi đề nghị phạt quân kỷ, ngõ hầu mai hậu tôi khỏi mang tiếng dựa thế Tổng thống Diệm gây oan khiên đau khổ cho nhiều người, nhiều gia đình. Ngay cả những tướng tá như Lê văn Kim, Phạm Xuân Chiểu, Nguyễn Cao Kỳ, Hoàng Cao Tiêu... đã có chứng cớ rõ ràng liên hệ đến nhóm đảo chánh, tôi cũng cố che giấu cho họ để hàn gắn vết thương quân đội trước một kẻ thù Cộng sản ngày càng hiếu chiến, và cho một tập thể binh sĩ đã chịu quá nhiều thương vong. Tôi vẫn khắc ghi trong lòng lời dặn dò của người anh cả quân đội, Đại tướng Lê văn Tỵ, khi trả lời Trung tá Vương văn Đông: “Tôi già rồi, các anh muốn làm gì thì làm nếu thấy là phải, miễn đừng để quân đội phải tan rã”. Tôi tự nghĩ tướng Tỵ, một lính già xuất thân từ một gia đình cai đội, xuất thân từ một Thiếu sinh quân thời Pháp thuộc, trải bao chế độ chính trị, chứng kiến bao nỗi thăng trầm của quê hương đất nước, nên ông đã có cái nhìn sâu sắc và nhân bản hơn về vai trò của những chế độ, về quân đội, về tương lai xứ sở. Vì thế ông nhắc lại với tôi lời ông đã nói với ông Vương văn Đông như thầm nhắn nhủ tôi đừng làm cho quân đội tan nát. Có phải thế không thi sĩ Cao Tiêu? (Lúc bấy giờ ông Hoàng Cao Tiêu là Đại úy Chánh Văn phòng cho Đại tướng Lê văn Tỵ).
Trong nhóm lãnh tụ đảo chánh thì Đại tá Nguyễn Chánh Thi là người bạn tri kỷ của tôi, vị sĩ quan gan dạ, ngay thẳng, đã cùng học lớp Trung đoàn trưởng với tôi tại Hà Nội và đã được tôi tuyên truyền ủng hộ cho ông Diệm khi ông Diệm mới về nước. Tôi làm sao có thể thù hận người chiến sĩ mũ đỏ đã bao phen xông pha trận mạc, tôi làm sao quên được tình bạn thắm thiết khi cùng đi hành quân với một Liên đoàn Lưu động bên bờ sông Bạch Đằng để hai anh em có dịp vào dâng hương trước bàn thờ Đức Trần Hưng Đạo. Tôi làm sao quên được cử chỉ thiết tha của Thi khi suốt mấy ngày tôi bị đau sốt rét, Thi mang hộ ba lô hay nhảy xuống ao bắt cá nấu cháo cho tôi ăn trong cuộc hành quân giữa cánh đồng lầy lội giữa miền quê tỉnh Hải Dương Bắc Việt. Tôi làm sao quên được thái độ hào hiệp của Thi khi đưa tay cản mũi súng của Trần Đình Lan, một thứ Tây con, đang nhắm vào đầu tôi trong nhà Trần văn Đôn, khi tôi phản đối lời bộ hạ của ông Hinh hô hào đảo chánh ông Diệm.
Thi là một người chân thành yêu nước, dày công chiến đấu chống Cộng, từng hết lòng ủng hộ ông Diệm, nay vì đại nghĩa mà phải lưu vong nơi quê người cho nên trước khi trả tự do cho nhóm phụ nữ và trẻ con, tôi cho mời vợ Thi lên văn phòng để có mấy lời an ủi. Tôi khuyên vợ Thi về nhà lo làm ăn, nuôi con chờ chồng, đợi ngày Thi “áo gấm về làng”, đợi ngày gia đình đoàn tụ. Tôi đưa vợ Thi 2.000 đồng bạc và hẹn cứ mỗi tháng đến gặp tôi, tôi xuất mật phí đưa cho 1.000 đồng. Nhưng vợ Thi không bao giờ trở lại cho đến cuối năm 1963, sau khi chúng tôi lật đổ chế độ Diệm, Thi từ Nam Vang trở về (như tất cả sĩ quan, chính khách tự ý lưu vong, hay bị tù đày ngoài Côn Đảo) như những chiến sĩ hùng anh đã có công chống đối chế độ Diệm. Nhưng khi Thi trở về quê cũ thì hỡi ơi, cảnh nhà Thi đã trâm gẫy bình rơi, lạnh phím tơ đồng!
Thời thế đảo điên, quê hương nghiêng ngửa, chế độ Cần Lao tàn bạo và số phận nghiệt ngã đã làm Thi tan nát cả cõi lòng. Nhưng rồi Thi đặt nặng “việc diệt thù cứu nước”, gác mối sầu riêng, nhận lệnh lên đường chỉ huy Sư đoàn I Bộ binh nơi tuyến đầu Quảng Trị.
Ngoài Thi ra, trong nhóm lãnh tụ đảo chánh, từ lâu tôi vẫn chú ý và cảm mến những sĩ quan trẻ tuổi như Phạm văn Liễu, Phan Trọng Chinh và Phan Lạc Tuyên, mặc dù tôi chưa hề tiếp xúc với họ. Liễu là đảng viên Đại Việt đã từng học trường Võ Bị Yên Bái do Nhật Bản tổ chức năm 1945, đã từng hoạt động cách mạng và trốn sang Tàu. Chinh là con một nhà cách mạng thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng, từng chiến đấu chống cả Pháp lẫn Việt Minh. Còn Phan Lạc Tuyên, viên sĩ quan trẻ tuổi này đã làm cho tôi khâm phục vì những bài tham luận hoặc quan điểm của anh trên các tờ báo của Nha Chiến tranh Tâm lý, những bài báo với nội dung sâu sắc và văn từ đầy hào khí của một quân nhân nặng tình tự với quê hương dân tộc, lồng trong ý chí sắt đá chống Cộng cứu nước. Cả ba là những sĩ quan cương trực, liêm chính, nhưng Phan Lạc Tuyên thì đã trốn lên vùng Cao Đài theo Việt cộng. Quyết định theo Việt cộng của Tuyên tuy nông nổi nhưng tôi không ngạc nhiên, vì với một chế độ phản dân tộc và phản cách mạng như chế độ Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ thì con người đầy ắp tinh thần dân tộc và tâm chất cách mạng như Tuyên làm sao không theo “giải phóng” được! Tôi cũng đã đích thân mang ít quà bánh đến trại giam Lê văn Duyệt để tặng những sĩ quan đang bị chính tôi giam giữ tại đó, tôi đã gặp mặt và có mấy lời thăm hỏi Phan Trọng Chinh nhưng tôi không dám chuyện trò lâu dài với Chinh vì chính tôi cũng sợ tai mắt Cần Lao, tuy là Giám đốc Nha An ninh Quân đội (Thiếu tướng Phan Trọng Chinh hiện ở Mỹ).
Trong cuộc binh biến ngày 11-11-1960, nhóm “phản loạn” và tôi tuy ở hai phe đối nghịch nhưng khi nghe tin Thiếu tá Nguyễn Triệu Hồng chết, tôi không khỏi xúc động ngậm ngùi bởi vì Hồng đã để lại cho tôi một kỷ niệm khó quên khi tôi gặp cảnh lao lung trên bước đường binh nghiệp. Năm 1953, khi tôi bị tướng Cogny và Trung tá Dương Quý Phan phạt 60 ngày trọng cấm và bị thuyên chuyển về Liên đoàn Lưu động số 3 của Thiếu tá Phạm văn Đổng đang hành quân tại Ninh Bình, ngày tôi từ giã Hưng Yên ra đi với vợ và bốn con nhỏ dưới sáu tuổi, Trung tá Phan chỉ cho tôi một chiếc xe Doge-4 với một Hạ sĩ lái xe cho tôi lên Hà Nội. Con đường tỉnh lộ từ Hưng Yên đến Bần Yên Nhân, cạnh quốc lộ số 5, dài 38 cây số là một con đường tử thần luôn bị phá hoại vì phục kích mà mỗi tuần chỉ được Khu chiến thông lộ một lần để tiếp tế liên lạc. Chính tôi đã có lần chỉ huy những cuộc mở đường đó mà mỗi lần là phải sử dụng cả Tiểu đoàn 4 của Đại úy Đặng văn Sơn với một đại đội Thiết giáp, một đại đội Bảo an của tỉnh và phải có pháo binh sẵn sàng yểm trợ. Thế mà Dương Quý Phan bắt tôi phải rời Hưng Yên ngay không được đợi đến ngày mở đường. Tuy đoán rằng Dương Quý Phan muốn mượn tay Việt Minh để giết mình nhưng tôi vẫn ra đi, vì không lẽ tôi đã công khai bày tỏ lập trường chống Pháp, đã khinh bỉ Phan ra mặt mà bây giờ phải xin xỏ một chút ân huệ, dù là hợp lý, của y. Tôi ra đi trước sự ngậm ngùi của Trung úy Nguyễn văn Thiệu và Cao văn Viên, hai người bạn đã cùng tôi chia vui sẻ buồn mấy tháng tại cái Khu chiến hoàn toàn bị bao vây bởi Việt Minh gần cả hai năm trời này.
Chiếc xe chở gia đình tôi đi độ mười cây số thì gặp một đồn lính (mà nếu tôi nhớ không lầm thì danh hiệu của đồn là Lệ Thanh) với quân số độ hơn một trăm binh sĩ do Trung úy Nguyễn Triệu Hồng chỉ huy. Tôi vào đồn để vợ con nghỉ ngơi chốc lát và hỏi thăm tình hình an nguy của đoạn đường dài còn lại. Thấy tôi “đơn thương độc mã” trên lộ trình đầy nguy hiểm, Hồng lộ hẳn vẻ băn khoăn:
- Đường sá hết sức bất an, hai bên dân làng đều là Việt Minh mà Đại úy dám liều như thế sao?
- Tôi đâu dám liều, nhưng Bộ chỉ huy ra lệnh phải đi ngay nên tôi phải đi anh Hồng ạ.
- Thôi Đại úy và gia đình hãy ở lại đây với em, đợi hai ngày nữa có mở đường rồi hãy đi.
- Cám ơn anh nhưng đàn bà con nít bất tiện lắm, vả lại đợi ngày mở đường thì ông Cogny, Ông Phan lại hành hạ tôi thêm.
- Hay là em cho Đại úy một trung đội theo hộ tống cho đến Bộ chỉ huy tiểu đoàn hai gần quốc lộ số 5.
Tôi nghĩ bụng, một trung đội thì ăn nhằm gì khi gặp Việt Minh. Vả lại nếu chẳng may có đụng độ thế nào trung đội cũng bị thiệt hại và Hồng sẽ bị phạt nặng, nên tôi cảm tạ lòng hào hiệp của Hồng rồi từ chối sự giúp đỡ của anh ta. Hồng cố nài nỉ nhưng tôi vẫn lên đường trước vẻ mặt ái ngại của người bạn trẻ, phó mặc thân thế gia đình mình cho số phận rủi may. Lạ thật! Có lẽ nhờ phúc đức vẫn còn dày vẫn lớn, nên cả gia đình tôi được “thuận buồm xuôi gió” trên con đường đã hai năm qua nổi tiếng là kinh hoàng.
Thời gian trôi qua với biết bao vật đổi sao dời, không ngờ bảy năm sau Nguyễn Triệu Hồng, một chàng trai tuấn kiệt của đất Việt trời Nam không chết về tay kẻ thù Cộng sản mà lại chết oan khiên vì viên đạn của người quốc gia! Cái thảm trạng vô lý đó của cuộc đời, sự oái oăm chính trị đầy oan khiên đó đã bắt đầu và được nuôi dưỡng từ dưới chế độ Ngô Đình Diệm, để rồi còn kéo dài cho đến khi thân thể của lực lượng quốc gia kiệt lực vì những nhát chém sau lưng cho đến ngày miền Nam sụp đổ.
Đầu năm 1961, trong lúc tại Sài Gòn tôi đang tiến hành cuộc điều tra về vụ “phản loạn” thì tại Nam Vang, nhóm lãnh tụ ngày 11-11-1960 vì chính kiến bất đồng nên mâu thuẫn với nhau rồi chia ra hai nhóm: nhóm Vương văn Đông và nhóm Nguyễn Chánh Thi. Nhóm của Thi chỉ có Phạm văn Liễu và sau này thêm phi công Nguyễn văn Cử. Tôi được tin ông Nguyễn Chánh Thi vẫn giữ mối tình cố cựu đối với tôi trong lúc Vương văn Đông thì thù ghét tôi. Sở dĩ tôi biết được Đông ghét tôi vì nhờ phòng phản gián đã trình cho tôi tờ báo “Realités Cambodgiennes” có bài của Vương văn Đông đả kích nặng nề chế độ Ngô Đình Diệm, nhận đình rằng chế độ đó không thể chiến thắng nổi Cộng sản mà rồi sớm muộn cũng bị lật đổ. Riêng tôi, Đông đã đặt cho một hỗn danh là “Le Tigre Noir” (cọp đen) của chế độ.
Nhưng tôi không vì thế mà buồn phiền thái độ thiếu hiểu biết của Đông, bởi vì dù gì đi nữa thì tôi đang ở trong tư thế của một thứ trùm mật vụ của chế độ Diệm nên làm sao tôi có thể công khai trang trải nỗi lòng của mình cho thiên hạ biết mình ngay gian. Huống gì tâm lý quần chúng thường không ưa Công an Cảnh sát, và tâm lý binh sĩ thường không ưa An ninh Quân đội và Quân cảnh.
Qua các phúc trình điều tra tổng hợp, tôi được biết trước khi tổ chức đảo chánh, Trung tá Vương văn Đông đã có dịp gặp ông Nhu tại dinh Độc Lập để trình bày tình hình nguy ngập của đất nước và tình trạng sa sút của quân đội cả về tinh thần lẫn hiệu năng. Vương văn Đông là một sĩ quan trẻ tuổi, thông minh, cương nghị, có ý thức chính trị cao, và cũng như Phạm văn Liễu, tiềm tàng giòng máu cách mạng, tràn đầy nhiệt huyết, chống Cộng có ý thức và dám sống chết cho lý tưởng của mình. Cả hai đều có chí lớn, có tham vọng làm lãnh tụ nhưng hình như số mạng của họ đã được an bài, họ hì hục “mua vé cho người ta xem hát”, hì hục “chỉ đường cho nai đi”, còn riêng họ thì chí hướng, ước nguyện có lẽ không bao giờ thành.
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa cho đến năm 1962, trừ những vị tướng già thuộc thế hệ đàn anh, trừ những sĩ quan trẻ đã mang sao rồi, chẳng hạn như Nguyễn Khánh, Dương văn Đức, thì những Nguyễn Đức Thắng, Phan Trọng Chinh, Phạm văn Liễu, Vương văn Đông, Nguyễn Bá Liên, Trần văn Nhật, Nguyễn Huy Lợi, v.v... (và còn nhiều người khác nữa mà tôi không nhớ tên) quả thật là những sĩ quan ưu tú nhất của quân đội, xứng đáng mọi mặt về văn hóa và chính trị cũng như khả năng quân sự và tác phong. Những sĩ quan này chưa trở thành danh tướng nhưng chắc chắn khả năng quân sự của họ không thua kém những sĩ quan của các quốc gia tiên tiến. Nhưng tất cả đã bị mai một vì cơ duyên đoạn trường của vận nước một phần, và phần khác vì quốc gia không có kẻ lãnh đạo sáng suốt biết trọng dụng hiền tài. Họ đúng là những kẻ muốn làm chuyện đội đá vá trời nhưng lại sinh bất phùng thời.
Về phần tôi, trong khoảng thời gian đó tôi gặp nhiều nghịch cảnh vui buồn lẫn lộn. Một kỷ niệm êm đềm làm cho tôi nhớ mãi là trong lúc tôi bị Vương văn Đông kết tội là “Cọp đen” của chế độ Diệm thì một việc bất ngờ nhưng rất phấn khởi xảy đến cho tôi. Độ hơn một tuần lễ sau khi trả tự do cho nhóm đàn bà con nít vợ con các sĩ quan “phản loạn” thì một hôm, hai mẹ con bà Đại úy Phan Phụng Tiên (người đã nhận lệnh Nguyễn Cao Kỳ lái máy bay cho nhóm lãnh tụ “phản loạn” qua Nam Vang) đến thăm tôi tại nhà riêng. Bà Cụ thân mẫu (hay nhạc mẫu) của bà Tiên nói: “Thưa Đại tá, ở ngoài thiên hạ đồn Đại tá là tay chân thân tín của Cụ Tổng thống, Đại tá có quyền sinh sát ghê gớm lắm thế mà vợ con các sĩ quan bị giam cầm về đều ca ngợi Đại tá đạo đức hiền lành. Chẳng những Đại tá lo lắng ăn ở cho họ chu đáo, đối xử tử tế với họ mà Đại tá còn giữ kỷ luật nghiêm minh để cho đàn bà con gái giữ được thanh danh trong cơn sa cơ thất thế. Vì thế, tôi xin đến đây để tỏ lời cám ơn Đại tá”. Tôi nghe bà Cụ nói và tự xét mình chẳng làm gì gọi là ân nghĩa ngoài cái bổn phận tất nhiên của một sĩ quan và cách cư xử tự nhiên của một người bình thường, thế mà sao hai người đàn bà này lại có cử chỉ tuy thân kính nhưng lại đường đột như thế. Tôi nhìn bà Đại úy Tiên thì thấy bà ta là một phụ nữ thùy mị đoan trang và chợt tìm ra rằng những bà mẹ hiền Việt Nam thường ưu tư cho con gái, nhất là con gái xa chồng mà lại phải sa vào nơi mà họ tưởng là “hang hùm ổ rắn”, nhưng rồi thấy con mình được danh tiết bảo toàn sau cơn hoạn nạn nên bà vui mừng đến thăm và ngỏ lời tạ ơn. Câu chuyện quả thật không có gì đáng nói nhưng chính vì lòng yêu thương lo lắng cho con gái của một bà mẹ Việt Nam hiền hòa chất phác, chính vì những lời nói chân thành của bà Cụ, một bà già không phe đảng, không “chính chị chính em” mà tôi cảm nhận được rõ ràng nhân dân và quân sĩ đang coi chế độ Diệm là một địa ngục trần gian, coi những tay sai của chế độ, trong đó có tôi, là những hung thần ác quỷ. Lời bà Cụ như có mãnh lực khuyến khích tôi, nhắn nhủ tôi luôn luôn phải giữ mình, không những luôn luôn phải nhìn về việc phải, hướng về điều lành, mà còn phải hành xử trong đạo đức và chính trực (gia đình tướng Phan Phụng Tiên hiện ở Mỹ).
° ° ° ° °
Năm 1960, như đã trình bày, nếu đã là năm mở đầu cho sự băng hoại tận gốc rễ của chế độ Diệm với năm biến cố là sự thảm bại của Sư đoàn 13, bức tranh chuột đục khoét quả dưa hấu miền Nam của báo Tự Do, bản tuyên cáo của nhóm Caravelle, cuộc binh biến 11-11 do binh chủng Nhảy dù khởi xướng, và sự ra đời đầy thách đố của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, thì năm 1961, Việt cộng phát động những trận đánh lớn, nâng mức độ hủy diệt của chiến tranh lên một tầng cao hơn để phát triển mạng lưới chính trị ở nông thôn, xây dựng hạ tầng cơ sở, tuyên truyền tố cáo những tội ác của chế độ để phát huy chính nghĩa và thanh thế thêm cho Mặt trận.
Tình trạng mất an ninh của miền Nam cũng như viễn tượng hủy diệt của chính chế độ rõ ràng và khẩn cấp đến nỗi thành phần rường cột trung kiên nhất của chế độ lúc bấy giờ cũng phải hốt hoảng lo lắng. Nguyễn văn Châu, Giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lý, Chủ tịch Quân ủy đảng Cần Lao, Lê văn Thái (hiện ở San Diego), Phụ tá Giám đốc Nha Nghiên cứu Chính trị của Trần Kim Tuyến và bác sĩ Lý Trung Dung, Ủy viên Trung ương Đảng Cần Lao, bèn vận động với ông Ngô Đình Nhu và một số chính khách nhân sĩ đối lập ôn hòa để thành lập Hội nghị Đại đoàn kết Toàn dân chống Cộng trong mục đích cải thiện chế độ và làm giảm bớt nỗi căm thù của quần chúng đối với chế độ ông Diệm. Cuộc vận động bắt đầu từ 18 tháng Giêng mà mãi đến mồng hai tháng Bảy năm 1961 mới thành hình, và mới triệu tập được một buổi họp chính thức tại tư gia của bác sĩ Phan Huy Quát với sự tham dự của một số chính khách có cả bác sĩ Đặng văn Sung (hiện ở Mỹ) và dưới sự chủ tọa của ông Ngô Đình Nhu. Người bạn trẻ của tôi, anh Tạ Chí Diệp (cháu ruột của cụ Tạ Chương Phùng, một cựu đồng chí của ông Diệm) vừa mãn tù ra và được Đại hội cử làm thuyết trình viên. Sau khi trình bày thực trạng nguy ngập của đất nước, những hiểm họa rõ ràng của Cộng sản, Đại hội đưa ra quyết nghị gồm các điểm: “công khai hóa hoạt động của các chính đảng, lập một diễn đàn chính trị, xét lại vấn đề chính trị phạm (vì người quốc gia chống Cộng bị bắt bớ giam cầm quá nhiều, nhất là ở thôn quê), lập một hội đồng chính trị có nhiệm vụ phê bình và chất vấn chính quyền, và cử một Ủy ban vận động Đại Đoàn kết gồm 11 người để thực hiện nghị quyết”.
Rõ ràng nghị quyết đó là một giải pháp chính trị ôn hòa và thực tế để cứu nước, một phương thức dân chủ gây lại tinh thần đoàn kết, xóa bỏ hận thù. Nhưng ông Nhu không những bác bỏ ngay hết mọi đề nghị của Đại hội mà còn nặng lời chỉ trích các chính khách, đảng phái, và lên án họ đã phá hoại chế độ, không để cho chính quyền của ông ta rảnh tay lo đối phó với Cộng sản. Sau lần gặp gỡ đó, ông Nhu không bao giờ đi họp nữa và Đại hội cũng tan luôn. Tội nghiệp cho mấy vị chính khách nhiệt thành và mấy ông Cần Lao sốt sắng; họ không biết kinh nghiệm đã cho thấy rằng đối với anh em nhà Ngô thì cả nước chỉ biết cúi đầu tuân phục. Những thiện chí, những sáng kiến, dù có giá trị và xuất xướng từ người thân tín, mà hễ đả động đến tự ái của anh em nhà Ngô thì chỉ là những giấc mơ không bao giờ thành sự thật. Nhiều khi kẻ đưa ra thiện chí, đưa ra sáng kiến còn mua lấy tai họa như trường hợp Tạ Chí Diệp vì quá hăng say trong việc cứu nước mà mua lấy cái chết sau này.
Sau Đại hội Đoàn kết bất thành, Diệp bị bắt và bị thủ tiêu luôn. Được tin Diệp bị Công an sát hại, Bác sĩ Tuyến và tôi vô cùng bàng hoàng. Chúng tôi gặp nhau than thở không ngờ nhóm Nguyễn văn Y, Dương văn Hiếu tàn ác đến thế, không ngờ chế độ mà mình đang phục vụ lại bất nhân đến thế.
Không ai có thể chối cãi được thái độ chính trị của Tạ Chí Diệp cũng như những đề nghị của anh ta trong Hội nghị Đoàn Kết là những đề nghị xây dựng để mong cứu lấy miền Nam, thế mà Diệp đã chết vì cái chủ trương đối lập xây dựng đó. Huống chi Diệp lại là cháu ruột của cụ Cử Tạ Chương Phùng, một đồng chí son sắt của ông Diệm trong phong trào Cường Để, từng hy sinh thân thế, sự nghiệp, tiền của cho ông Diệm, từng bị mật thám Pháp tra tấn đến nỗi gẫy cả răng và điếc cả tai.
Diệp chết đi để lại một ông Bác gần 70 tuổi nghèo nàn và cô đơn, với một bà mẹ già trên 90 tuổi già nua bệnh tật. Trước cảnh thương tâm đó, chỉ còn Cụ Huỳnh Minh Ý và Bác sĩ Bùi Kiện Tín giúp đỡ cụ Tạ một phần nào mà thôi. (Xem thêm thư của Cụ Huỳnh Minh Ý trong phần phụ lục).
Cái chết của Tạ Chí Diệp cũng như cái chết của Nguyễn Tấn Quê, Vũ Tam Anh, Nguyễn Bảo Toàn v.v... và hàng trăm ngàn người dân vô tội ở thôn quê nằm trong chính sách tiêu diệt người quốc gia đối lập của chế độ Diệm. Ai cũng biết rằng cái chết oan khiên của hàng trăm ngàn dân quê nhiều khi là do hành động lạm quyền của các cán bộ Cần Lao Công giáo, nhưng còn việc sát hại những nhân vật chính trị tên tuổi tại Sài Gòn là phải có lệnh của các ông Diệm, Nhu, Cẩn. Thế mà sau khi chế độ Diệm bị lật đổ, trước Tòa án Cách mạng, Đại tá Nguyễn văn Y khai rằng ông ta đã ra lệnh giết những nhân vật quốc gia kia chỉ vì “nghe không rõ lệnh của Tổng thống”. Đó là một lời khai gian dối tuy có ý bênh vực Tổng thống Diệm nhưng đồng thời cũng tố cáo Tổng thống Diệm đã liên hệ vào các vụ giết người. Dù sao thì một chế độ chủ trương sát hại, thủ tiêu những người quốc gia đối lập đã là một chế độ tàn bạo kiểu Cộng sản và Nazi Đức Quốc xã. Còn một chế độ mà ông Tổng giám đốc cầm đầu ngành Công an, Cảnh sát vì “nghe không rõ lệnh của ông Tổng thống” mà đem những nhân vật quốc gia chân chính đi trấn nước cho chết (xem lời tố cáo của bà Đức Thụ trong phần phụ lục) như trấn nước một con chó dại thì chế độ đó là chế độ gì? Đừng trách những nhà văn Hiếu Chân, Chu Tử, Từ Chung buộc tội chế độ Diệm là thứ “Chế độ phi cầm, phi thú” (xem lời tuyên bố của ba nhà văn này trong phần phụ lục).
Trường hợp yểu tử của Đại hội Đoàn kết nếu đã để lại những xót xa và phản tỉnh trong lòng một số người thì nó cũng đã xác nhận thêm cái chân tướng chính trị của Ngô Đình Nhu, một chân tướng được đúc nặn bằng tâm địa thâm độc chủ quan và óc tham quyền cố vị. Năm 1953, khi cần tạo uy thể cho anh mình để nắm chính quyền, Ngô Đình Nhu đã chủ trương chính sách đại đoàn kết với các đảng phái đến nỗi Ngô Đình Nhu không ngại ngồi chung và cộng tác với những kẻ mà Nhu cho là “ăn cướp” như Năm Lửa, Bảy Viễn; thế mà khi nắm giữ được quyền hành rồi, Nhu lại bác bỏ phương thức đại đoàn kết để cứu nước, chỉ điều hành sinh hoạt quốc gia bằng những luật lệ độc tài phản dân chủ, khinh thị quốc dân, chỉ trích mạt sát các đảng phái mặc dù đất nước đang rách nát đau thương do chính tay gia đình ông ta gây ra.
Đã không chịu thực hiện công cuộc đại đoàn kết, liều thuốc cuối cùng và hợp lý nhất để cùng nhau đương đầu với kẻ thù chung là Cộng sản, nhà Ngô còn ngoan cố bác bỏ mọi đề nghị dân chủ hóa chế độ của người Mỹ, mọi đề nghị đoàn kết của quốc dân, còn khinh thường thái độ của quân đội và nhân dân đã nhiều phen tha thiết biểu lộ nguyện vọng xin chính quyền nới rộng bàn tay kềm kẹp. Thủ đoạn thành lập chính phủ mới dưới đây càng tỏ rõ thái độ ngoan cố và khinh thường ý kiến của người Mỹ và ý nguyện của nhân dân Việt Nam.
Sau khi làm lễ tuyên thệ chức Tổng thống nhiệm kỳ II trước Quốc hội vào ngày 28-5-1961, anh em ông Diệm thành lập một chính phủ mới, và tuy tuyên bố có cải tổ trong thành phần nhân sự nhưng thật sự cũng chỉ là những người thân tín cũ. Nếu có vài người mới thì cũng chỉ là thứ người chỉ biết uốn mình theo chế độ. Cũng như mới nhìn thì có vẻ có một sự tái phối trí về nhiệm vụ nhờ một số danh từ mới, nhưng những danh từ này thật ra chỉ cốt để đánh lận con đen, không lừa dối được ai mà lại càng bảy tỏ rõ ràng thêm những thủ đoạn chánh trị ấu trĩ. Chánh phủ mới có ba bộ đặc nhiệm gồm có Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ kiêm Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp Phát triển Kinh tế, ông Nguyễn Đình Thuần, làm Bộ trưởng tại Phủ tổng thống kiêm Bộ trưởng Phụ tá Quốc phòng và Bộ trưởng Đặc nhiệm phối hợp An ninh, và ông Trương Công Cừu, vốn là Dân biểu và Chủ tịch “Ủy ban Chống Phiến Cộng”, giữ chức Bộ trưởng Đặc nhiệm Văn hóa Xã hội. Lúc đặt ra ba bộ đặc nhiệm, anh em ông Diệm muốn chứng tỏ đang thực hiện chính sách tản quyền nhưng thiên hạ còn lạ gì thủ đoạn của họ Ngô, vì trong lúc đưa ra ba bộ Đặc nhiệm do chính cộng sự viên thân tín nắm giữ thì đồng thời nhà Ngô cũng lại ban hành nhiều sắc luật đặc biệt để nắm lấy quyền hành, những sắc luật mà tôi sẽ đề cập vào đoạn sau của chương này.
Ngoài ba vị Bộ trưởng Đặc nhiệm trên đây còn có các ông: Vũ văn Mẫu, Bộ Ngoại giao; Bùi văn Lương, Bộ Nội vụ; Nguyễn văn Lượng, Bộ Tư pháp; Nguyễn Quang Trình, Bộ Giáo dục; Ngô Trọng Hiếu, Bộ Công dân vụ; Hoàng Khắc Thành, Bộ Kinh tế; Nguyễn Lương, Bộ Tài chánh; Trần Lệ Quang, Bộ Cải tiến Nông thôn; Trần Đình Đệ, Bộ Y tế; Huỳnh Hữu Nghĩa, Bộ Lao động; Nguyễn văn Dinh, Bộ Giao thông Công chánh; (đa số các vị trên đây đều có mặt tại hải ngoại). Ngoài một số Bộ trưởng được dư luận coi như nhân tài hay liêm chính như các ông Trần Lệ Quang, Vũ văn Mẫu, Trần Đình Đệ, Nguyễn văn Lượng... một số khác có những “huyền thoại” riêng, tuy nhiên có hai nhân vật đặc biệt được dư luận bàn tán rất nhiều là các ông Huỳnh Hữu Nghĩa và Ngô Trọng Hiếu.
Ông Huỳnh Hữu Nghĩa (hiện ở Pháp) tuy rất trẻ tuổi và không có một bằng cấp văn hóa nào nhưng ông ta là “chiến hữu” của tướng Trình Minh Thế đã được Đại tá CIA Lansdale thuyết phục kéo quân từ chiến khu Bà Đen về hợp tác với anh em ông Diệm từ thời 54-55. Thân phụ của ông Nghĩa là một nhà nho có tinh thần cách mạng. Nếu chỉ có thế thì có lẽ đã không có dư luận bàn tán, nhưng từ khi cởi áo cách mạng mang áo công hầu thì ông Nghĩa có nhiều thành tích mà hàng công thần của nhà Ngô nhiều người không có được. Giới báo chí và dân chúng thủ đô cho rằng ông lo việc bàn đèn cho ông Nhu tại Sài Gòn cũng như một ông Thị trưởng lo bàn đèn cho ông Nhu tại Đà Lạt mỗi khi ông Nhu đi săn bắn. Dư luận đó không biết có đúng không, nhưng theo ông Nguyễn Đình Thuần kể lại cho nhiều người Mỹ biết thì ông Nhu là người nghiện thuốc phiện [4]. Ông Nhu có cặp môi xám đen như thường thấy nơi những người hút sách nghiện ngập, thường đến chơi và thường ăn cơm tại nhà ông Nghĩa. Vì tôi cũng là một bạn quen của ông Bộ trưởng họ Huỳnh nên thỉnh thoảng được mời đến ăn cơm với ông Nhu, ông Thuần ở đấy. Nhưng chuyện mà các chính khách và các văn nghệ sĩ ở Sài Gòn bàn tán nhiều là vào năm 1956, ông Nghĩa đã cho ra đời một thi phẩm tựa đề là “Việt Nam Ngày Nay” để ca tụng Tổng thống Diệm như một “vĩ nhân giữa đời, kết tinh ý trời và hồn sông núi” để trong phần kết luận tác giả đã chiêm ngưỡng thần tượng do mình tạo nên bằng cách “Cúi đầu lạy trước Cao dày, cùng nhau kể lể những ngày sau xưa”. Thi phẩm quái đản này và việc lo bàn đèn cho ông Nhu chắc chắn đã đóng góp vào chức vụ Bộ trưởng Bộ Lao động mà ông Nghĩa đã nắm cho đến ngày tàn của chế độ Ngô triều. Ông Nghĩa với tôi cũng có chút giao tình nên tôi biết ông là người hiền hậu, xuề xòa không làm hại ai, không gây ân oán với ai, nhưng tập thơ “Việt Nam Ngày Nay” của ông và việc ông lo bàn đèn cho ông Nhu đã làm cho dư luận bàn tán nhiều về bản chất ưa nịnh bợ của anh em ông Diệm.
Người ta chú ý đến ông Ngô Trọng Hiếu (hiện ở Mỹ) vì ông Hiếu làm Bộ trưởng cho chính phủ “Cách mạng Nhân Vị” Việt Nam Cộng Hòa mà gốc gác lại không phải là người Việt Nam. Mẹ ông là người Việt nhưng cụ thân phụ của ông lại là người Phi Luật Tân có quốc tịch Pháp, và tuy ông sinh đẻ ở Thủ Dầu Một nhưng lại theo quốc tịch cha. Ông đã từng học luật ở Pháp và vì là người Pháp, nên ông được chính phủ Bảo Hộ cử giữ chức Trưởng ty Ngân khố (dưới thời Pháp thuộc chỉ có người Pháp mới được giữ chức này). Thời Pháp thuộc, chức Trưởng ty Ngân khố được gọi là “Percepteur”. Ông Hiếu từng là “Percepteur” ở Lao Kay, Hưng Yên trước 1945. Ngày Nhật Bản đảo chánh 9-3-45, ông Hiếu bị Nhật bắt chung với mọi Pháp kiều thời bấy giờ. Tây trở lại Việt Nam, ông Hiếu lại được giữ chức Trưởng ty Ngân khố tỉnh An Giang dưới quyền Tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Thơ, nguyên là Bí thư của toàn quyền Decoux. Từ chỗ tri giao đó cho nên khi ông Thơ làm Phó tổng thống cho người bạn thân là ông Ngô Đình Diệm thì ông Hiếu được ông Thơ đề cử với ông Diệm giữ chức Phó tổng giám đốc rồi lên Tổng giám đốc Nha Ngân khố Trung ương. Con đường công danh của ông Hiếu từ đó mở rộng thênh thang để từ lãnh vực chuyên môn ông bước qua lãnh vực chính trị. Ông được ông Thơ giới thiệu với anh em ông Diệm cho đi làm Đại sứ Việt Nam ở Phnom Penh là nơi mà hệ thống gián điệp quốc tế (nhất là gián điệp Pháp và Cộng sản Hà Nội) dăng dày như lưới. Nhưng những thất bại ngoại giao của ông ở Cao Miên đã đưa đến việc ông Sihanouk thiên hẳn về Cộng sản Hà Nội và Trung Cộng, đưa đến việc Quốc trưởng Cao Miên quyết liệt hơn trong việc chống đối Việt Nam Cộng Hòa và dung túng cho Cộng sản đóng quân tại biên giới Miên-Việt để làm xuất phát điểm tấn công miền Nam. Buồn cười thay, những thất bại trong nhiệm vụ Đại sứ lại làm cho ông trở thành Bộ trưởng Công dân vụ cho đến ngày chế độ Diệm sụp đổ. Tôi còn nhớ ngày ông Hiếu sắp được cử làm Đại sứ tại Phnom Penh, tôi đã gặp ông ngồi chờ ở ngoài phòng đợi tại văn phòng chính trị của bác sĩ Tuyến. Khi ông Tuyến tiễn tôi ra khỏi văn phòng, tôi không khỏi nhịn cười khi thấy cảnh ông Ngô Trọng Hiếu, một người to lớn phốp pháp đã phải khom lưng cúi mình trước một ông Tuyến nhỏ thó hiền lành. Nhưng rồi thời gian trôi đi, ông Tuyến, một trung thần của nhà Ngô, một bạn thân đã từng giúp ông Nhu trốn thoát Cộng sản tại Thanh Hóa thời 1945, dần dần bị thất sủng để cuối cùng phải chịu cái mệnh hệ “được làm vua thua làm Tổng lãnh sự” ở Ai Cập, thì ông Hiếu lại như diều gặp gió, được nhà Ngô hết sức tín nhiệm và cử nhiệm chức Bộ trưởng Công dân vụ. Trên danh nghĩa thì Bộ này còn thua kém quyền hành của nhiều bộ khác như các Bộ Ngoại giao, Nội vụ, Quốc phòng chẳng hạn, nhưng trên thực tế, nhất là vào cái thời buổi nhiễu nhương loạn ly lúc bấy giờ thì Bộ Công dân vụ chịu trách nhiệm về vấn đề điều động nhân lực và tham gia vào việc xây dựng các sách lược quốc gia.
Thật vậy, sự kiện ông Hiếu chỉ huy các ngành thông tin, tuyên truyền, Công dân vụ, sự kiện ông Hiếu phụ trách về quốc sách ấp chiến lược, rồi lại đăc trách giao thiệp với các tôn giáo nhất là với Phật giáo trong biến cố 1963, đã nói lên cái địa vị, quyền hành to lớn của ông ta, cũng đã nói lên sự tín nhiệm gần như tuyệt đối của anh em ông Diệm đối với ông ta.
Một tài liệu (mà tôi quên tên) tại Sài Gòn cho biết ông Hiếu là em ruột của ông Phạm văn Tươi, cũng là một người có Pháp tịch, chủ một nhà sách lớn tại Sài Gòn (thời chiến tranh Pháp - Việt 1945-1954). Thời Hồ Chí Minh mới cướp chính quyền, ông Ngô Trọng Hiếu cải tên họ từ Paul Hiếu ra Hồ Trọng Hiếu, nhưng khi Pháp trở lại, ông vội trở về với tên Paul Hiếu, lúc ông Ngô Đình Diệm bắt những người có quốc tịch Pháp phải đổi thành quốc tịch Việt Nam, ông Paul Hiếu đổi tên lần nữa thành Ngô Trọng Hiếu. Khi tiếng súng cách mạng nổ giữa Sài Gòn năm 1963, ông Hiếu trốn vào Tòa đại sứ Phi Luật Tân và sau này, dưới chế độ Nguyễn văn Thiệu, một chế độ Diệm không Diệm, ông Hiếu đắc cử Dân biểu đơn vị có nhiều giáo dân di cư tại Hố Nai nhờ lòng trung thành của ông đối với chế độ cũ, đối với anh em ông Diệm ngày xưa. Ông Lê Quang Luật cũng ra ứng cử tại cùng đơn vị Hố Nai nhưng đã bị thất cử mặc dù ông Luật có công rất lớn trong việc tổ chức những người Công giáo di cư vào Nam năm 1954-1955. Theo ông Luật, ông đã thất cử là vì không có tiền để thỏa mãn các vị cha cố tại Hố Nai và nhất là vì ông đã từng chống đối quyết liệt anh em ông Diệm. Từ ngày bị thất cử, dù là một tín đồ Công giáo, ông Luật thường thống trách các vị linh mục, cho rằng họ chỉ biết quyền lợi mà không hề biết đến ân tình.
Ông Hiếu thường ca tụng ông Ngô Đình Nhu là Trương Lương đời nay. Trương Lương có tài nhưng lại biết sau khi “công thành thì thân thoái”, tránh được nạn “vắt chanh bỏ vỏ” của Lữ Hậu, trong lúc ông Ngô Đình Nhu chẳng những đã vô tài mà còn tham quyền cố vị để cuối cùng phải chết bất đắc kỳ tử.
Dư luận đã cho rằng việc nhà Ngô trọng dụng ông Ngô Trọng Hiếu là một thái độ khinh thị quần chúng, coi quốc gia đã hết nhân tài nên mới dùng “con Tây” làm Bộ trưởng. Hai nhân vật Ngô Trọng Hiếu và Huỳnh Hữu Nghĩa trong tân nội các của ông Diệm vào nhiệm kỳ Tổng thống thứ nhì đã biểu lộ một cách chính xác nhất bản chất chế độ Diệm chỉ là chế độ trung ương tập quyền và phong kiến quan lại, chỉ tin dùng những bề tôi nịnh thần. Còn việc đặt ra ba Bộ “đặc nhiệm” cho có hình thức tản quyền chỉ là thủ đoạn ấu trĩ không lừa dối được ai, chỉ mua thêm sự chán nản của đồng bào, của đồng minh Hoa Kỳ và dư luận quốc tế mà thôi.
° ° ° ° °
Vì Miền Nam đã thực sự suy yếu, chế độ Diệm đã thực sự lung lay ngay từ năm 1960 khi những biến cố chính trị và quân sự dồn dập xảy đ