Khởi nghĩa Lam Sơn và cuộc chiến tranh giành độc lập
Lê Lợi, một địa chủ đất Lam Sơn tỉnh Thanh Hóa, sinh năm 1385, trước khi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh, đã có dưới tay mình hơn một nghìn thuộc hạ. Ngày mồng 7 tháng 2 năm 1418, ông xưng vua lấy vương hiệu là Bình Định Vương, lôi cuốn về mình tất cả những ai không dịu chấp nhận ách đô hộ của nhà Minh. Một nho sĩ tên là Nguyễn Trãi trở thành người cố vấn được ông lắng nghe nhiều nhất về chiến lược và chính trị. Hai người đã cùng nhau lãnh đạo cuộc khởi nghĩa kéo dài nhiều năm cho đến thắng lợi cuối cùng.
Lê Lợi bắt đầu bằng đánh du kích trong vùng núi tỉnh Thanh Hóa, ông gây cho địch nhiều thiệt hại nhưng cũng nhiều phen rơi vào tình thế nguy nan, thậm chí tuyệt vọng. Nhờ lòng can đảm của binh sĩ, quyết tâm của những người cầm đầu và tinh thần tận tụy của các tướng lĩnh, phong trào đã có thể cầm cự. Hơn nữa, những cuộc nổi dậy của dân chúng ở nhiều tỉnh khác đã giúp cho Lê Lợi không bị rơi vào những gọng kìm xiết chặt của quân. Năm 1420, Lê Lợi uy hiếp được cả tỉnh lỵ Thanh Hóa và quân của ông kéo đến hạ trại trên bờ sông Mã. Năm 1423, quân Minh phản công đẩy lùi quân của Lê Lợi trở lại vùng thượng du, nhưng chính quân Minh cũng mệt mỏi. Bộ chỉ huy địch chấp nhận đề nghị đình chiến của Lê Lợi. Chính quyền nhà Minh tìm cách quyến rũ ông ta bằng những hứa hẹn ban cho lợi lộc và danh giá nhưng Lê Lợi từ chối. Năm 1424, quân Minh mở những cuộc tiến công mới, nhưng quân khởi nghĩa đã lợi dụng thời gian đình chiến để củng cố các vị trí của mình.
Theo đề nghị của Nguyễn Chích, Lê Lợi đã điều động quân đội của mình hướng vào tỉnh Nghệ An nhằm chiếm tỉnh này làm căn cứ kháng chiến. Nhân dân trong tỉnh nồng nhiệt đón quân khởi nghĩa. Sau khi bao vây và đánh bật nhiều cứ điểm của địch, Lê Lợi chiếm đóng tỉnh này. Tiếp đến là tỉnh Thanh Hóa, rồi các tỉnh ở phía nam Nghệ An. Cuối năm 1425, toàn bộ phía Nam của đất nước được giải phóng, trừ các thành Nghệ An và Tây Đô (Thanh Hóa). Thế là một vùng hậu phương rộng lớn đã được hình thành làm bàn đạp cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Năm 1426, Lê Lợi đã đủ sức để chuyển sang phản công.
Nhà Minh gửi sang 50.000 viện binh đặt dưới quyền chỉ huy của Vương Thông. Nhưng trước khi chúng đến nơi, Lê Lợi đã mở cuộc tiến công chiếm lại vùng châu thổ sông Hồng. Tháng 9 năm 1426, ba đạo quân tiến về phía Bắc, một đạo nhằm chặn đánh đạo quân Minh từ Vân Nam kéo xuống, một đạo nhằm chặn đánh quân Minh đến từ phía Lạng Sơn, còn đạo quân thứ ba nhằm hướng kinh thành tiến tới. Khắp nơi, dân chúng hồ hởi theo về với quân khởi nghĩa, còn bọn quân Minh thì rút vào cố thủ trong các thành trì để đợi quân cứu viện.
Tháng mười một, đạo quân của Vương Thông nhập được với những đội quân Minh đã rút lui cố thủ trong kinh thành, hợp thành một lực lượng 100.000 người sẵn sàng phản công. Nhưng quân Minh đã phải hứng chịu một trận thảm bại ở Tốt Động (phía tây kinh thành) và lại phải chui đầu vào thành cố thủ. Lê Lợi vội vã rời Thanh Hóa để tập toạng lực lượng xung quanh kinh thành, Vương Thông xin một thời gian đình chiến. Trong thư gửi tướng Minh, Nguyễn Trãi giải thích rằng bộ chỉ huy Việt Nam chấp nhận đề nghị đình chiến là để cho Vương Thông có thể rút quân khỏi nước này, là nhằm “ để cho nhân dân nước chúng tôi tránh được những tai họa của chiến tranh và cũng để cho binh sĩ Trung Hoa khỏi phải chịu đau khổ vì trận mạc ”.
Đối với Vương Thông, đình chiến chỉ là cái mẹo để chờ quân cứu viện. Tuy nhiên đồng thời với việc vây hãm thành, triệt dần sự kháng cự của những đồn riêng lẻ, bộ chỉ huy Việt Nam, theo gợi ý của Nguyễn Trãi, kiên trì tiến hành công tác địch vận đối với quân Minh, làm cho chúng thấy rằng thất bại là không thể tránh khỏi, chỉ cho chúng thấy sức mạnh của phong trào dân tộc Việt Nam, những nhược điểm của đế quốc nhà Minh. Công tác địch vận làm bại hoại nghiêm trọng tinh thần của quân Minh.
Tháng 10 năm 1427, viện binh của quân Minh kéo đến từ hai hướng, một đạo quân 100.000 người, dưới quyền chỉ huy của Liễu Thăng đi qua ải Lạng Sơn, một đạo quân khác gồm 50.000 người, do Mộc Thạnh chỉ huy tiến xuống đọc theo lưu vực sông Hồng. Bộ chỉ huy Việt Nam quyết định tiêu diệt cánh quân mạnh nhất; quân Minh ỷ vào sức mạnh tiến không chút đề phòng và đã bị đánh cho không còn một manh giáp trong một trận phục kích trên ải Chi Lăng. Chủ soái của quân Minh bị giết, nhiều tướng khác cùng với 30.000 quân bị bắt làm tù binh. Đạo quân tiếp viện kia nghe tin trận đại bại này đã bỏ chạy toán loạn, và bị quân của Lê Lợi đuổi đánh. Quân cứu viện bị tiêu diệt, Vương Thông bị vây hãm ở kinh thành buộc phải xin hòa. Lê Lợi chấp thuận, cấp cho quân Minh lương thực và các phương tiện vận tải cần thiết để chúng rút đi, đó là vào ngày 29 tháng Chạp năm 1427.
Cuộc chiến tranh giành độc lập do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo đã kéo dài mười năm. Khởi đầu với những phương tiện rất nghèo nàn, phong trào đã lớn lên dần dần tạo nên những căn cứ và những lực lượng hùng mạnh để cuối cùng tiêu diệt được những đội quân hùng mạnh. Bộ chỉ huy đã biết kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh vận động và công thành, kết hợp công tác đính trị với đấu tranh quân sự, tỏ ra đại lượng với kẻ thù, tránh những cuộc tàn sát vô ích. Lê Lợi, xuất thân từ giai cấp địa chủ, chông lại giới quý tộc - chủ nhân của những thái ấp lớn. Nguyễn Trãi và nho sĩ, một đầu óc bách khoa, cả hai người đã biết tạo nên một khối đoàn kết dân tộc, thức tỉnh ý thức yêu nước, tỏ rõ quyết tâm và sự sáng suốt vào những thời điểm khủng hoảng hay quyết định. Đó là một cuộc chiến tranh vừa có tính dân tộc, vừa có tính nhân dân, với liến lược và những chiến thuật phù hợp. Nhà Minh không bao giờ tìm cách chinh phục Đại Việt một lần nữa. Một thời kỳ hòa bình mở ra giữa Trung Quốc và nước Đại Việt kéo dài được hơn ba thế kỷ.