Sự đầu hàng của chế độ quân chủ và thiết lập chế độ thuộc địa
Trong hai mươi năm cuối của thế kỷ XIX, nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản phương Tây phát triển tăng tốc, các cường quốc phương Tây đua nhau lao đến các lục địa khác, thực hiện một sự phân chia thế giới có lợi cho họ. Trước đó, chính sách thuộc địa của nước Pháp đôi khi còn do dự, lúc này được tiến hành một cách cương quyết và có hệ thống hơn. Việc người Anh chinh phục Miến Điện càng đẩy nhanh các kế hoạch của Pháp đối với Việt Nam.
Vi phạm hiệp ước năm 1874, năm 1882, Pháp phái sang Bắc Kỳ những đơn vị quân đội mới dưới quyền chỉ huy của Henri Riviere. Viện cớ mình bị những lực lượng “chuẩn bị chiến đấu” của người Việt Nam uy hiếp, y gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Hà Nội, đòi phá bỏ các công sự bảo vệ và đòi quân đội Việt Nam phải rút ra ngoài thành phố.
Ngày 25 tháng 4 năm 1882, quân Pháp chuyển sang tấn công đánh chiếm Hà Nội, Tổng đốc Hà Nội là Hoàng Diệu tự sát. Quan quân ở Bắc Kỳ muốn phản công, nhưng vua Tự Đức vẫn luôn luôn nghĩ đến chuyện thương lượng, tưởng có thể qua đó mà thu hồi trọn Hà Nội như hồi năm 1874. Nhưng trong khoảng thời gian đó, quân Pháp đã chiếm đóng các vùng than Hồng Gai và Cẩm Phả rồi Nam Định. Tự Đức vốn không mấy tin tưởng vào quân đội của chính mình đã cầu cứu triều đình Bắc Kinh. Họ gửi 10.000 quân sang đóng ở phía tây bắc Hà Nội, nhưng án binh bất động.
Cũng như hồi năm 1873, các lực lượng Việt Nam bao vây Hà Nội, đánh bại quân Pháp trong một trận ở các ngõ thủ đô, giết chết Henri Riviere ở chính ngay chỗ Francis Gamier đã chết. Paris gửi sang 4.000 viện binh; về phía mình, Tự Đức vẫn chăm chăm tìm cách thăm dò thái độ của Pháp để thương lượng, triệu hồi những viên quan chủ trương chiến đấu vũ trang.
Tháng 7 năm 183, Tự Đức chết mà không để lại người kế vị Tại Huế, các phe phái và bè đảng cắn xé lẫn nhau; chỉ trong vòng mấy tháng, ba vua được tấn phong, trong khi các quan đại thần thì chia rẽ về kế sách cần phải theo dõi với nước Pháp. Kẻ thì chủ trương kháng chiến vũ trang, người thì theo phe thương lượng, một số phần tử lại công khai tính chuyện phản bội, hợp tác với kẻ xâm lược. Thậm chí triều đình cũng không nắm được tình hình những thắng lợi quân sự của các lực lượng Việt Nam ở Bắc Kỳ.
Lợi dụng tình hình lộn xộn này, Bộ chỉ huy Pháp tập trung lực lượng đánh chiếm Đà Nẵng rồi tiến theo hướng thành phố Huế. Vừa nghe tiếng súng đại bác của Pháp bắn vào cửa Thuận An - tiền đồn bảo vệ đường tiến vào thủ đô, các quan đã vội vã ký kết với người Pháp, chấp nhận tất cả mọi điều kiện của họ. Ngày 25 tháng 8 năm 1883, nước Việt Nam mất chủ quyền, trở thành một xứ bảo hộ của Pháp. Giới quan lại chia thành 2 phe. Nhiều người không tuân lệnh triều đình, xin từ chức để tiếp tục cuộc kháng chiến, trong khi một số khác cúi đầu làm tay sai cho Pháp.
Vấn đề còn lại là những đội quân do Bắc Kinh phái sang. Triều đình Mãn Thanh đã suy yếu, không muốn một cuộc chạm trán với nước Pháp; Paris và Bắc Kinh thỏa thuận ký kết Hiệp ước Thiên Tân (ngày 11 tháng 5 năm 1884). Các quan phụ chính Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường vốn chống lại hiệp định năm 1883, đành phải cam chịu xác nhận Hiệp ước bảo hộ vào tháng 6 năm 1884. Tuy nhiên khi quân nhà Thanh rút qua cửa ải Lạng Sơn, một sự cố xảy ra ở địa phương đã làm nổ ra xung đột giữa họ với quân đội Pháp và những đơn vị của Pháp đã bị đánh bại. Bộ chỉ huy Pháp liền mở một cuộc tiến công quy mô lớn chống Trung Quốc, đổ bộ quân lên Đài Loan, bắn phá cửa biển Phúc Châu. Tháng 2 năm 1885, các lực lượng Việt Nam hợp đồng tác chiến với quân Thanh đã giáng cho quân Pháp một đòn thất bại mới ở Lạng Sơn.
Nhưng triều đình Bắc Kinh chẳng hề muốn kéo dài cuộc xung đột, ký với Pháp một hiệp ước mới (ngày mồng 9 tháng 6 năm 1885) từ bỏ mọi quyền kiểm soát đối với Việt Nam.