← Quay lại trang sách

Tổ chức giáo dục và văn hóa

Về phương diện văn hóa, chính sách của thực dân Pháp cố gắng nâng cao trình độ học vấn của dân chúng thì ít, mà chủ yếu một mặt nhằm xây dựng đội ngũ viên chức làm thuộc hạ cho bộ máy cầm quyền, mặt khác tạo ra một đội ngũ trí thức ''mất gốc dân tộc'', xa rời hẳn nền văn hóa dân tộc mất hết tinh thần độc lập về phương diện văn hóa. Trước thời Doumer, những viên toàn quyền đầu tiên đã một thời nghĩ đến việc sử dụng nền giáo dục truyền thống làm công cụ phục vụ cho họ. Doumer đã duy trì chế độ thi tuyển quan trường cũ ở Bắc Kỳ cho đến năm 1915, ở Trung Kỳ đến năm 1918. Từ năm 1862, chữ quốc ngữ, hình thức chuyển ngôn ngữ tiếng Việt bằng chữ cái La tinh, được sử dụng ở Nam Kỳ rồi lan dần ra cả nước. Năm 1896, chính quyền thuộc địa cho đưa chữ quốc ngữ vào một vài môn thi của các kỳ thi tuyển chọn quan lại. Năm 1903, một môn thi tiếng Pháp trở thành bắt buộc trong các kỳ thi cử đó.

Dần dần, thay vào nền giáo dục truyền thống là một nền giáo dục gọi là “Pháp - Việt” chủ yếu để tuyển chọn một số ít công nhân và viên chức thuộc hạ cho chết thuộc địa. Một vài trường chuyên nghiệp được mở ra, và vào năm 1901, Trường Y khoa được thành lập lên để đào tạo những thầy thuốc phụ ngạch (y sĩ). Thực ra ở cấp nào cũng chỉ là một thứ giáo dục rẻ tiền. Ngay như Trường Đại học Đông Dương, mở cửa từ năm 1908, trước sau vẫn chỉ dạy một chương trình què quặt, méo mó. Nhà trường dạy bằng tiếng Pháp, việc học ngôn ngữ và lịch sử dân tộc bị thu hẹp đến mức chỉ để gọi là cho có. Học sinh và sinh viên đọc thuộc lòng câu ''Tổ tiên của chúng ta là người Gô Loa'', bình luận hết ngày này sang tháng khác về Racine và Chateaubriand mà chẳng bao giờ đi sâu nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ngay cả những tác giả Pháp thế kỷ XVIII, như Montesquieu, Rousseau... cũng bị cấm đoán. Trong Trường Đại học Đông Dương, không có khoa dạy các môn khoa học, cũng không có trường đào tạo kỹ sư.

Tính chất quan trọng nhất của nền giáo dục thuộc địa là sự hạn chế tối đa theo tinh thần chủ nghĩa Malthus (59). Chính quyền thuộc địa ra sức hạn chế tối đa việc truyền bá học vấn. Ở nước Việt Nam truyền thống, mặc dầu chế độ phong kiến ngăn cản bằng mọi cách, nhân dân rất hiếu học vẫn tổ chức được ở hầu khắp các thôn xã những lớp học cho trẻ em. Việc thay thế nền giáo dục truyền thống bằng nền giáo dục thuộc địa đã làm giảm đột ngột số lượng các trường học và học sinh, mở rộng diện người mù chữ. Một trong những yêu sách chủ yếu của nhân dân Việt Nam trong suốt thời kỳ thuộc địa là đòi hỏi vừa phổ cập giáo dục vừa Việt Nam hóa giáo dục. Do áp lực thường xuyên như vậy nên chính quyền thuộc địa buộc lòng phải lập ra một số trường học.

Trường đại học được thành lập năm 1908, chủ yếu là nhằm mục đích giữ chân những thanh niên có ý muốn sang Nhật Bản du học. Thế nhưng, chẳng bao giờ có được một sự phổ biến giáo dục mạnh mẽ: 90% trẻ em Việt Nam không được đến trường, vào những thời kỳ sáng sủa nhất cũng chỉ có được ba trường trung học cho cả nước Việt Nam. (Cộng đồng người Pháp chỉ gồm mấy chục nghìn người cũng có đến ba trường trung học cho con em của họ.) Ba chục năm sau, kể từ ngày thành lập, Trường đại học chỉ vẻn vẹn có 600 sinh viên.

Nhằm khai thác hiệu quả hơn những tài nguyên của đất nước này, vào cuối thế kỷ IX, chính quyền thuộc địa đã lập ra vài viện nghiên cứu: Trường Viễn Đông Bác Cổ, Viện Pasteur, Nha Khí tượng thủy văn, Cục địa chất, địa lý, Trường Lâm nghiệp v.v... Mặc dù trong một số lĩnh vực, các nhà nghiên cứu người Pháp đã thực hiện được một số công trình bổ ích, toàn bộ hoạt động của các Viện nghiên cứu ấy đều hướng vào phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa. Vả chăng, người Việt Nam đã bị gạt khỏi mọi công việc nghiên cứu một cách có hệ thống.

Một trong những yếu tố văn hóa quan trọng nhất là việc dùng chữ quốc ngữ thay cho thứ chữ viết tượng hình trước đó (chữ Hán). Việc in ấn báo chí và sách vở bằng chữ quốc ngữ phát triển rất nhanh, bọn thực dân muốn sử dụng nó làm công cụ tuyên truyền phục vụ cho họ, nhưng chữ quốc ngữ đã nhanh chóng trở thành một phương tiện truyền bá những tư tưởng độc lập và tiến bộ của phong trào yêu nước Việt Nam.