Sự khai thác kinh tế thuộc địa
Tất cả bộ máy hành chính, quân sự, tài chính, văn hóa ấy rút cục là để củng cố hệ thống kinh tế thuộc địa, phục vụ công cuộc khai thác kinh tế trên đất nước này đưa lại lợi nhuận cho các công ty tư bản Pháp đã đầu tư vào các doanh nghiệp Đông Dương. Xứ thuộc địa này phải trở thành một thị trường tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp của Pháp, một nguồn cung cấp nguyên liệu và nhân công rẻ mạt. Thế là một mặt dành ưu tiên cho nhập khẩu hàng công nghiệp Pháp, đối thủ cạnh tranh nguy hiểm làm phá sản nền thủ công truyền thống, mặt khác là từ chối không chịu phát triển nền công nghiệp trên đất nước này; tập trung vốn của Pháp để sản xuất những sản phẩm có thể xuất khẩu được ngay: than, quặng, cao su dùng mọi biện pháp ngăn cản sự ra đời của một nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa Việt Nam. Một hệ thống thuế quan đánh thuế nặng các hàng hóa nhập từ nước ngoài - trừ Pháp, đảm bảo cho Pháp gần như nắm độc quyền thị trường Đông Dương. Vả chăng, trái với những đóng góp nặng nề đè lên người đóng thuế Việt Nam, các Công ty Pháp lại được hưởng một chế độ thuế khóa nhẹ nhất, được hưởng những miễn giảm, những trợ cấp, được ký những hợp đồng béo bở với Nhà nước; chi phí cho mọi thứ đó tất nhiên đều lấy từ tiền thuế do người Việt Nam đóng.
Ngay từ năm 1897, một sắc lệnh ban bố nhiều khoản chuyển nhượng về hầm mỏ cho các công ty Pháp với những điều kiện đặc biệt có lợi. Từ đầu thế kỷ XX, cùng với các mỏ than Quảng Yên, nhiều mỏ thiếc, mỏ vàng, mỏ vôn-phram và ăngti-moan cũng được khai thác. Hầu hết sản phẩm khai thác đều được xuất khẩu. Công nghiệp chế biến chỉ được phát triển một cách chiếu lệ, chính quyền thuộc địa luôn chủ tâm không mở mang tại chỗ một nền công nghiệp cạnh tranh với nền công nghiệp của nước Pháp. Những năm đầu thế kỷ XX, xuất hiện trước hết ở Nam Kỳ những nhà máy xay xát gạo để xuất khẩu; những nhà máy này lớn dần đến mức cung cấp được hàng trăm nghìn tấn gạo. Ở Bắc Kỳ mọc lên một số công ty: Công ty Bông (sợi và dệt) năm 1900, Công ty Nước và Điện lực năm 1900, Công ty Nấu rượu của Pháp năm 1901, Công ty Khai thác Lâm sản và làm diêm năm 1909, các xí nghiệp gạch ngói, rồi nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy giấy Đáp Cầu, nhà máy thuốc lá Hà Nội. Ở Trung Kỳ, các công ty của Pháp đầu tư ít hơn nhiều; ở Vinh và Thanh Hóa có nhà máy cưa, nhà máy diêm; Huế có một lò vôi, Phú Yên có những xưởng dệt lụa.
Tất cả những công nghiệp này chỉ cung cấp một lượng sản phẩm nhỏ bé, các khoản lời lãi là do đồng lương rẻ mạt nhiều hơn là do khối lượng sản phẩm tạo nên. Các khoản tiền lãi đó được chuyển về Pháp và hậu quả là Việt Nam phải chịu một sự thâm hụt tài chính thường xuyên; sự thâm hụt này lại càng trầm trọng thêm do các khoản tiền tiết kiệm của các công chức người Pháp đều được gửi về nước.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, chính quyền tạo điều kiện thuận lợi cho một số tên thực dân hoặc những công ty chiếm đoạt các vùng đất đai phì nhiêu mà có ít dân. Ở vùng trung du Bắc Kỳ, lúc xẩy ra chiến sự, có nhiều làng toàn bộ dân chúng bỏ đi, đất đai của họ được cấp cho những tên thực dân hoặc ở những vùng cao Tây Nguyên đất đai được cấp cho các Công ty ở Nam Kỳ nhờ có các công trình tiêu nước trong vùng châu thổ sông Mê Kông, những khu đồn điền rộng mênh mông được cấp cho thực dân Pháp hoặc cho các công chức người Việt của chính quyền thuộc địa. Như thế, từ năm 1897 đến năm 1913, bọn thực dân và các Công ty đã chiếm đoạt 470.000 ha (306.000 ha ở Nam Kỳ) không tính 90.000 ha nhượng cho Công ty Lâm sản. Trước năm 1918, hầu hết các đồn điền nhượng cho thực dân người Pháp đều trồng lúa. Đông Dương, đặc biệt là Nam Kỳ, trở nên nơi cung cấp gạo xuất khẩu ngày càng nhiều: 80 vạn tấn năm 1900, 1,2 triệu tấn năm 19.20. Tuy thế chẳng hề có một chút cải tiến kỹ thuật nào cho nghề trồng lúa truyền thống: năng suất lúa gạo vẫn vào loại thấp nhất thế giới: mỗi ha bình quân là 12 tạ thóc. Bọn điền chủ thực dân chỉ biết mỗi một việc là bóc lột sức lao động của người nông dân Việt Nam nhiều hơn nữa và việc xuất khẩu gạo vẫn cứ tiếp tục với một nhịp độ bất nhân không gì kìm hãm nổi, ngay cả khi nạn đói đang hoành hành.
Về phương diện thương mại, hàng hóa nhập từ Pháp chiếm lĩnh thị trường, được miễn mọi thuế hải quan từ năm 1892; giá những hàng này đắt, còn hàng hóa Việt Nam lại xuất khẩu với giá rẻ. Từ năm 1892 đến năm 1913, hàng xuất khẩu tăng từ 26 triệu đồng lên 102 triệu đồng, hàng nhập khẩu từ 19 triệu lên 110 triệu đồng. Lãi ngoại thương hầu hết vào tay một vài công ty tầm cỡ: Hãng U.C.I.A, Denis Frères...
Nhằm mục đích khai thác kinh tế và mục đích chiến lược, chính quyền thuộc địa, đặc biệt dưới thời Doumer, đã thúc đẩy sự phát triển tương đối nhanh các đường giao thông. Những tuyến đường sắt hẹp, đi một chiều được xây dựng: đường Hà Nội - Lạng Sơn năm 1920, đường Hà Nội - Vinh năm 1905, Huế - Đà Nẵng năm 1906, Sài Gòn - Nha Trang năm 1919, Hà Nội - Vân Nam năm 1919. Ở Nam Kỳ, nhiều kênh rạch được đào nhằm mục đích tăng thêm diện tích trồng lúa và tạo thuận lợi cho việc xuất khẩu gạo. Chính những năm đầu của thế kỷ XX là thời gian số lượng đường giao thông được xây dựng nhiều nhất trong suốt thời kỳ chế độ thuộc địa.