Việt Nam trong chiến tranh thế giới thứ I (1914 - 1918)
Nước Pháp vừa tìm cách tận dụng những tài nguyên thiên nhiên và nhân lực của Đông Dương để phục vụ cuộc chiến tranh, vừa đàn áp khốc liệt mọi biểu hiện yêu nước của nhân dân Việt Nam. Đông Dương - chủ yếu là Việt Nam, phải cung cấp cho Pháp 5 vạn lính chiến và 4,9 vạn lính thợ, bị cưỡng mộ từ các làng xã để đưa đi phục vụ các mặt trận ở Pháp. Đông Dương còn phải đóng góp 184 triệu đồng dưới hình thức công trái và 336.000 tấn lương thực. Những đóng góp đó càng nặng nề vì vào những năm 1914 - 1917, mùa màng bị thiên tai trầm trọng.
Tuy nhiên, vì thiếu một tổ chức thống nhất trên quy mô toàn quốc phong trào yêu nước Việt Nam mặc dù vẫn luôn luôn tồn tại nhưng đã không lợi dụng được những khó khăn của nước Pháp do chiến tranh gây ra để đưa các cuộc khởi nghĩa lớn đến thành công. Phong trào các sĩ phu đã yếu dần trong khi các lực lượng xã hội mới chưa đủ sức để khởi động những phong trào quan trọng.
Quang Phục hội dự định chiếm Hà Nội bằng một hành động phối hợp giữa lực lượng yêu nước nội địa với một đội quân cách mạng được xây dựng ở nước ngoài. Vì kế hoạch tác chiến bị tiết lộ, nhiều chiến sĩ của Hội bị bắt. Các chiến sĩ còn lại liên kết với những tổ chức khác, tự trang bị bằng những vũ khí thô sơ, họ tìm cách lôi kéo các binh sĩ trong hàng ngũ đội lính khố xanh của Pháp. Ngày 6 tháng Giêng năm 1915, 150 chiến sĩ yêu nước được võ trang tấn công đồn Phú Thọ; đồng thời nhiều đồn bốt địch ở các tỉnh khác, Nho Quan ở tỉnh Ninh Bình, Móng Cái gần biên giới Trung Quốc, cũng bị tấn công. Nhưng các cuộc tấn công đó đều thất bại. Quang Phục hội có tham vọng tấn công hàng loạt nhiều trung tâm quân sự và hành chính ở Bắc Kỳ nhưng kế hoạch dự kiến đã không thành.
Cũng ở Bắc Kỳ, ngày 31 tháng 8 năm 1917, đã nổ ra cuộc nổi dậy tại đồn Thái Nguyên dưới sự lãnh đạo của viên đội Trịnh Văn Cấn, cựu đồng đảng của Hoàng Hoa Thám và của Lương Ngọc Quyên, hội viên Quang Phục hội. Họ đã lôi kéo được nhiều binh lính và đã giết được viên sĩ quan Pháp chỉ huy đồn, chiếm được nhiều vũ khí và đạn dược, giải phóng nhiều tù chính trị để bổ sung cho đội ngũ chiến đấu của mình. Thành phố Thái Nguyên được giải phóng. Sau nhiều cuộc tranh luận, nghĩa quân đã không mở rộng sang các tỉnh khác, mà cố thủ trong thành phố thái Nguyên để củng cố lực lượng. Ngày 4 tháng 9, người Pháp chiếm lại thành phố khi nghĩa quân buộc phải rút lui. Phân tán vào các miền rừng núi xung quanh thành phố Thái Nguyên, họ tiếp tục chiến đấu chống lại 2.000 quân Pháp trong 6 tháng nữa.
Ở Trung Kỳ, nổi bật là sự kiện của vua Duy Tân - người đã lên ngôi từ năm 1907, lúc mới 7 tuổi - với sự thúc đẩy của một số quan lại và sĩ phu yêu nước, đặc biệt là Thái Phiên và Trần Cao Vân, đã ký lời hiệu triệu khởi nghĩa. Lực lượng chính mà ông tính dựa vào là những binh sĩ đã bị động viên để đưa sang Pháp và đã được tập trung đến con số hàng ngàn ở Huế. Hiệu lệnh khởi nghĩa dự định sẽ ban ra ngày 3 tháng 5 năm 1916. Không may bí mật bị bại lộ, người Pháp tước hết vũ khí của binh lính trước ngày khởi nghĩa. Vua Duy Tân tìm cách trốn khỏi kinh thành nhưng đã bị bắt và bị đầy sang đảo Reunion. Các toán vũ trang riêng rẽ bị người Pháp thanh toán một cách nhanh chóng. Hai nhà yêu nước Thái Phiên và Trần Cao Vân bị hành hình.
Ở Nam Kỳ, hoạt động yêu nước trong những năm đầu thế kỷ biểu hiện bằng việc thành lập những hội ẩm, quan trọng nhất là Thiên Địa Hội (Hội trời và đất) có chi nhánh ở nhiều tỉnh xung quanh Sài Gòn. Các hội đó thường có hình thức như những tổ chức chính trị-tôn giáo; một trong những hoạt động chủ yếu của họ là trừng trị bọn phản bội tay sai của Pháp.
Có quan hệ với các hội kín này, năm 1913 đã hình thành một phong trào do Phan Xích Long - một người từng khoác áo nhà sư lãnh đạo các hội viên mặc quần áo trắng, đầu quấn khăn trắng, tấn công vào các thành phố với những vũ khí thô sơ Phan Xích Long bị Pháp bắt được và bị hành hình. Năm 1916, các hội kín ở Nam Kỳ thử tìm cách tấn công vào nhiều trung tâm hành chính, đặc biệt nhà lao trung tâm ở Sài Gòn và Phủ Thông sứ Nam Kỳ. Đêm 14 tháng 2 năm 1916, hàng nghìn người được vũ trang bằng dao, đeo bùa hộ mệnh, bí mật kéo vào Sài Gòn đánh nhau với cảnh sát và quân đội Pháp; rút cục, họ đã bị đánh tan.
Vế phía chính quyền thuộc địa, họ vừa đàn áp khốc liệt phong trào yêu nước, vừa tìm cách xoa dịu một tầng lớp “ưu đẳng” bằng biện pháp thi hành nhỏ giọt một vài cải cách và đặc biệt là qua miệng vài viên toàn quyền Pháp được tiếng là thuộc phái ''tự do'', hứa hẹn một vài thay đổi quan trọng sau chiến tranh. Những hứa hẹn ấy tất nhiên là không bao giờ được thực hiện. Sở dĩ Pháp vẫn chiếm giữ được nước Việt Nam trong mấy năm chiến tranh chủ yếu là do sự non kém của phong trào yêu nước. Điều hiển nhiên là bao giờ cũng có những người yêu nước phất cao lá cờ độc lập dân tộc, nhưng các lực lượng xã hội mới còn manh nha, chưa thể đưa đến cho phong trào dân tộc sức mạnh và sự định hướng cần thiết. Sẽ còn phải chờ đợi sự phát triển của các lực lượng này trong những thập kỷ tiếp theo để phát động lại phong trào yêu nước trên những cơ sở mới.