← Quay lại trang sách

Chú thích

...

[1]:. Pleistocène: Có sách gọi là Thời Cánh tân, chia làm 3 giai đoạn: sơ kỳ, trung kỳ và hậu kỳ, tương đương với thời đại Đá cũ (B.T.)

[2]:. Homo sapiens còn gọi là người hiện đại.

[3]:.  Các cuộc khai quật do các nhà khảo cổ tiến hành theo quan điểm Việt Nam từ 1959, tập trung chủ yếu vào các địa điểm sau đây: Thiệu Dương, tỉnh Thanh Hoá; Cổ Loa, gần Hà Nội; Việt Trì; nhiều di chỉ thuộc tỉnh Phú Thọ; Đào Thịnh, tỉnh Yên Bái; các tỉnh Sơn Tây, Hà Đông, Hà Tĩnh, Hoà Bình, Bắc Giang v.v... Các cuộc khai quật này cũng phát hiện ra nhiều di tích của thời đại đồ đồng. Những phát hiện này đã gợi ý cho nhiều đề tài nghiên cứu và gây ra nhiều tranh luận trong giới sử học việt Nam.

[4]:. Đoạn này cũng như hai đoạn trích của Lê Văn Hưu và Lê Quát dưới đây, lấy theo bản dịch đã in trong "NGUYỄN KHẮC VIỆN - tác phẩm'' Tập I, 2003 ("Bàn về đạo Nho").

[5]:. Rất tương phản với các nhà thờ công giáo lạc lõng giữa các xóm làng Việt Nam, tìm cách ngự trị cả thiên nhiên.

[6]:. Trong nguyên bản tiếng Pháp, tiếp theo là toàn văn ''Bình Ngô đại cáo". Bản dịch ra tiếng Pháp của BS. NKV. Chúng tôi in song ngữ  PHÁP-VIỆT tác phẩm này, do vị trí quan trọng của văn bản trong lịch sử Việt Nam, đồng thời để những độc giả biết tiếng Pháp đối chiếu và hiểu thêm nghệ thuật dịch của BS. NKV (BT.)

[7]:. Điếu phạt: do câu ''điếu đàn phạt tội'' ở Kinh Thư, nghĩa là: Thương xót nhân dân, đánh kẻ có tội.

[8]:. Lưu Cung: vua Nam Hán, sai con là Hoằng Thao đem quân xâm lấn nước ta, bị Ngô Quyền đánh bại. Cung sau đổi tên là Nghiễm. Bản Hoàng Việt văn tuyển viết là Nghiễm.

[9]:. Triệu Tiết: Tướng nhà tống, đem quân sang đánh nước ta đời Lý, bị Lý Thường Kiệt đuổi chạy.

[10]:. Toa Đô, Ô Mã (tức Ô Mã Nhi): Hai tướng nhà Nguyên sang đánh nước ta đời Trần. Toa Đô thị thua trận ở Tây Kết (Hải Hưng) và bị giết còn Ô Mã Nhi thì bị bắt ở sông Bạch Đằng năm 1288. Nguyên văn ở đây có lẽ nhầm.

[11]:. Hàm Tử, Bạch Đằng: bến Hàm Tử (Hải Hưng) là nơi Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô, Sông Bạch Đằng (Quảng Ninh) là nơi Ô Mã Nhi bị bắt sống.

[12]:. Con đỏ: Con mới đẻ ra còn đỏ. Ở đây chỉ người dân nói chung.

[13]:. Chim trả (sả), hươu đen: hai thứ vật quý mà quan lại nhà Minh bắt dân ta cống nộp.

[14]:. Trúc: xưa chưa có giấy, chép sử trên thẻ trúc, đây nói tội ác nhiều vô cùng, ghi chép không hết.

[15]:. Lược thao: tam lược lục thao, hai sách dạy binh pháp.

[16]:. Hưng phế. nói việc các triều đại khi dựng lên, khi bị lật đổ?

[17]:. Đồ hồi: mưu tính việc khôi phục lại.

[18]:. Nơi duy ác: mùng màn trong quân đội, nơi tướng chỉ huy ở, bàn bạc việc quân.

[19]:. Về đông: do chữ “dục đông” trong nguyên văn, lấy lời của Lưu Bang khi bị Hạng Võ phong cho vào Tây Thục, Lưu Bang có ý bực tức nói: ''Dư diệc dục đông nhĩ, an năng uất uất cửu cư thử hổ''? (Ta cũng muốn trở về đông, sao chịu bực tức mà ở mãi chốn này ư?). Nguyễn Trãi mượn lời này để nói Lê Lợi khởi nghĩa ở Tây Đô (Thanh Hóa) muốn tiến ra Đông Đô (Hà Nội).

[20]:. Phía tả: Tin Lăng Quân nước Ngụy nghe tiếng Hầu Doanh là một người hiền sĩ, đem xe đến đón, mình ngồi phía hữu, để trống  phía tả cho Hầu Doanh (bên tả là ngồi trên). Nghĩa bóng là tìm người hiền giúp việc.

[21]:. Hung đồ: bọn kẻ cướp hung hăng tàn bạo chỉ giặc Minh.

[22]:. Vận nước: dịch chữ quốc bộ trong nguyên văn.

[23]:. Linh sơn: núi Chí Linh, thuộc huyện Lang Chánh, thượng du Thanh Hóa.

[24]:. Khôn huyện: cũng gọi là Khôi sách, một địa điểm gần Nho Quan (Hà Nam Ninh).

[25]:. Ngọn cờ: do chữ ''yết can vi kỳ'' trong Hán thư (truyện Trần Thắng, Hạng Tịch): Lấy cần trúc làm cờ. ý nói khởi binh vội vàng chưa kịp may sắm cờ xí, phải dùng tạm cần Trúc làm cờ.

[26]:. Chén rượu: nguyên văn ''đầu giao hưởng sĩ''. Xưa có viên tướng giỏi, được người ta biếu một bình rượu,

[27]:. Bồ Đằng: tên một ngọn núi, cũng gọi là Bồ Liệp hay Bồ Cứ, thuộc Quỳ Châu (Nghệ Tĩnh) (đừng nhầm lẫn với Bồ Đề ở  bờ sông Nhị Hà).

[28]:. Trà Lân: cũng gọi là Trà Long, thuộc phủ Tương Dương (Nghệ Tĩnh).

[29]:. Trúc chẻ, tro bay: ý nói quân giặc tan rã nhanh chóng như chẻ trúc như tro bay vung.

[30]:. Sĩ khí, quân thanh: chí khí và thanh thế của binh sĩ.

[31]:. Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Phương Chính: các tướng nhà Minh.

[32]:. Tày kinh: tức thành Tày Nhai (Thanh Hóa) do nhà Hồ đắp.

[33]:. Đông Đô: tức Thăng Long (Hà Nội).

[34]:. Ninh Kiều: tên đất thuộc huyện Chương Mỹ (Hà - Sơn - Bình).

[35]:. Tốt Động: cũng có sách ghi là Tụy Động, một xã ở huyện Mỹ Lương (nay là Chương Mỹ, Hà - Sơn - Bình).

[36]:. Trần Hiệp, Lý Lượng, Vương Thông, Mã Anh: tướng giặc Minh.

[37]:. Mưu phạt tâm công: đánh bằng mưu trí và đánh vào lòng người.

[38]:. Tuyên Đức: niên hiệu vua Tuyên Tông nhà Minh.

[39]:. Thạnh, Thăng: Mộc Thạnh, Liễu Thăng, tướng nhà Minh

[40]:. Chi Lăng: địa điểm gần Lạng Sơn.

[41]:. Mã An: ở xã Mai Sơn, thuộc Lạng sơn.

[42]:. Đánh một trận... đánh hai trận: Nguyên văn là “nhất cổ, tái cổ” tức là hồi trống thứ nhất, hồi trống thứ hai khi ra trận.

[43]:. Lạng Giang: tên đất, nay thuộc Hà Bắc.

[44]:. Xương Giang. Xương Giang là tên chữ Hán của sông Thương. Thành Xương Giang ở trên sông Thương thuộc xã Thọ Xương, tức vùng thị xã Phủ Lạng Thương (Hà Bắc).

Bình Than: bến sông thuộc Hải Hưng.

[45]:. Lê Hoa: có lẽ thuộc vùng giáp giới Lào Cai ngày nay (xưa thuộc Tuyên Quang) hoặc là ở sông Mông Tự (Vân Nam).

[46]:. Cần Trạm: thuộc vùng Kép (Hà Bắc).

[47]:. Lãnh Câu và Đan Xá: (câu dưới): Ở gần ải Lê Hoa.

[48]: Máu chảy trôi chày: do chữ ''huyết lưu phiên chử'' ở Kinh Thư.  ý nói giặc bị chết nhiều.

[49]:. Thần vũ chẳng giết: do chữ ''thần vũ bất sát'' ở Kinh dịch. ý nói việc uy vũ thiêng liêng không có giết hại.

[50]:. Xã tắc: nghĩa đen: nơi tế thần Đất gọi là xã, và nơi tế thần Lúa gọi là tắc. Nghĩa bóng: chỉ quốc gia.

[51]:. Bĩ mà lại thái: qua cơn khốn cùng, trở lại thái bình.

[52]:. Hối mà lại minh: tối rồi lại sáng.

[53]:. Nhung y: áo giáp mặc khi ra trận, đây chỉ việc đánh giặc. Thiên Vũ thành trong Kinh Thư có câu: ''Nhân nhung y, thiên hạ đại định'' Một cỗ nhung y mà thiên hạ được bình định).

[54]:. Bản này do Bùi Văn Nguyên dịch lại, dựa theo bản của cụ Bùi Kỷ, có tranh thủ ý kiến của cụ Bùi Kỷ lúc sinh thời và một số các cụ thâm nho khác. (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X, thế kỷ XVII, Nhà xuất bản Văn học 1976).

[55]:. Còn gọi là Bá Đa Lộc. (B.T.)

[56]:. Lịch sử cuộc Viễn Chinh Nam Kỳ, 1862

[57]:. Những năm đầu tiên của xứ Nam Kỳ thuộc Pháp.

[58]:. Theo F. Vial, Sách đã dẫn.

[59]:. Malthus (1766-1834): Nhà kinh tế người Anh đưa ra thuyết "nhân mãn'' là tai hoạ của thế giới, đòi phải kiên quyết hạn chế sinh đẻ. (B.T.)

[60]:. Về sau, Henri Martin là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp.

[61]:. Sau này, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời đã chính thức được xác nhận là ngày 2-9-1969. (B.T.)

[62]:. Nguyên bản là “Bas-Laos” tức là “Hạ Lào”; chúng tôi chỉnh lại là “Đường 9- Nam Lào” theo cách thường sử dụng trên sách báo mà mọi người đã biết. (B.T.)

[63]:.  Hoàng cung (Đại Nội) đã bị không quân và pháo binh Mỹ phá hủy năm 1968.

[64]:. “Những lạc thú của thành Ca-pu” (Les délices de Capoue): Trong cuộc chiến tranh chống La Mã năm 215 trước Công Nguyên, quân đội của An-ni-ban, viên tướng lừng danh của Cộng hòa Các-ta-giơ, đã đánh chiếm được thành phố này. Nhưng sau đó, binh sĩ của An-ni-ban đã bị ngập vào trong những lạc thú xa hoa ở Ca-pu, do đó mất hết sức chiến đấu và cuối cùng bị đánh bại. (ND)

[65]:. Trong bài “Confucianisme et Marxisme au Vietnam” (“ Nho giáo và chủ nghĩa Mác ở Việt Nam”) đang Tạp chí “La Pensée” (“Tư tưởng”) số 10/1962. Đã dịch in trong cuốn “Bàn về đạo Nho”. (B.T.)