← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VIII -BẮC THUỘC LẦN THỨ TƯ (603 – 939)--

Nhà Tùy và nhà Đường đối với Lâm Ấp và Giao Chỉ

- Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương

- Cuộc xâm lăng của Nam Chiếu

- Sự nghiệp của Cao Biền

1 – Nhà Tùy đánh Lâm Ấp

Nhà Tùy mất năm Mậu Dần (618) sau 28 năm ở ngôi. Vương triều này không để lại gì trên lịch sử Việt Nam vì quá ngắn ngủi nhưng sử chép rằng năm Nhâm Tuất (602) khi nhà Hậu Lý Nam Đế hết thời (Ất Sửu – 605) tướng nhà Tùy là Lưu Phương được lệnh đem quân đánh Lâm Ấp vì nghe nói nước này có nhiều vàng bạc và quý vật.

Lâm Ấp lúc này cũng khá mạnh. Quốc Vương là Phạm Phàm Chi, nghe tin quân Tùy tới bèn sửa soạn chống đỡ.

Hai quân buổi đầu gặp nhau ở sông Đồ Lê. Quân Tùy vượt qua sông đánh quân tiền đạo của Lâm Ấp. Đại binh của Lâm Ấp đuổi theo sa hết xuống hố. Tức thì quân Tùy trở lại phản công kịch liệt, cung nỏ bắn tên bay qua như mưa cũng làm cho một phần lượng binh phải kinh sợ tháo lui giày xéo lên quân Lâm Ấp chết hại nhiều.

Trận đánh tiếp diễn luôn 8 ngày đêm sau đó quân Tùy mới tiến được vào thủ đô Lâm Ấp. Vua Lâm Ấp bấy giờ đã cùng hoàng gia rút khỏi kinh thành.

Quân Tùy vào cướp phá rồi rút về sau khi quốc vương xin tiếp tục cuộc hòa hiếu và tiến công như cũ. Đến đời Đường Thái Tông vào năm Trinh quan, vua Lâm Ấp là Phạm Đầu Lê chết đi, con là Phạm Trấn Long nối ngôi bị giết, người con của bà cô là Chư Cát Địa được tôn lập.

Chư Cát Địa đổi quốc hiệu ra Hoàn Vương Quốc nhưng nước này vẫn quen thói quấy nhiễu Giao Châu. Đã có phen họ chiếm được Châu Hoan, Châu Ái (tức là hai tỉnh Thanh Nghệ của ta).

Hai thế kỷ sau vào năm Mậu Tí (808), Đô Hộ Trương Chu lại đem quân đánh vào Hoàn Vương Quốc rất tai hại khiến họ phải lui xuống phía Nam (hai vùng Nam Ngãi bây giờ).

Lại một lần nữa do sự thất bại, quốc hiệu Lâm Ấp đổi ra Chiêm Thành cho tới ngày nay.

2 – Nhà Đường đối với Việt Nam

Năm Mậu Dần (618), nhà Tùy mất sau 28 năm thống trị, nhà Đường lên thay. Ba năm sau, vua Cao Tổ phái Khâu Hòa làm đại tổng quản sang cai trị Giao Châu. Việc phái một võ tướng qua Giao Châu cho ta hiểu rằng nhà Đường đã áp dụng một chế độ quân phiệt đối với chúng ta. Họ rút kinh nghiệm ở dĩ vãng giữa Giao Châu với các vương triều Trung Quốc trước nên đề phòng cẩn mật mọi sự bất trắc bằng một chính sách hoàn toàn võ lực, chính sách này tất nhiên phải dùng đến nhiều luật lệ khe khắt, thời nào cũng vậy và ở đây, ta thấy nhà Đường đã rất am hiểu vấn đề Giao Châu.

Năm Kỷ Mão (679), Giao Châu đổi ra An Nam đô hộ phủ dưới đời Đường Cao Tông, chia ra 12 châu, 59 huyện. Nhiều tỉnh bên Trung Quốc cũng lâm vào cuộc cải cách này. (Nước ta đeo cái tên An Nam từ thuở đó.)

Mười hai châu như sau:

1) Giao Châu có 8 huyện (Hà Nội, Nam Định,…)

2) Lục Châu có 3 huyện (Quảng Yên, Lạng Sơn)

3) Phúc Lộc Châu có 3 huyện (Sơn Tây)

4) Phong Châu có 3 huyện (Sơn Tây)

5) Thăng Châu có 3 huyện

6) Trường Châu có 3 huyện

7) Chi Châu có 7 huyện

8) Võ Nga Châu có 7 huyện

9) Võ An Châu có 2 huyện

10) Ái Châu có 6 huyện (Thanh Hóa)

11) Hoan Châu có 4 huyện (Nghệ An)

12) Diễn Châu có 7 huyện (Nghệ An).

Còn một châu nữa ở phía Tây Bắc Giao Châu, hẳn là vùng thượng du Bắc Việt bây giờ, có dân Mường, Mán trú ngụ, gọi là Man Châu (có 3 huyện), hàng năm phải tiến công cho nhà Đường và chịu một chế độ riêng biệt.

3 – Mai Hắc Đế Khởi Nghĩa (722)

Dưới bàn tay sắt của nhà Đường, phương Nam có được yên trị hay không? Ta có thể nói rằng không.

Từ khi nhà Đường lên ngôi là năm Mậu Dần (618) đến năm Nhâm Tuất (907) tức là trong vòng ba thế kỷ, phương Nam luôn luôn rối loạn, khi ở địa hạt này, khi ở khu vực khác, tuy không to tát. Đến năm thứ 10 dưới đời Đường Huyền Tông (sau hơn một trăm năm) Mai Thúc Loan, người Hoan Châu thuộc huyện Thiên Lộc (hay Can Lộc, Hà Tĩnh) phất cờ cách mạng. Ông rất khỏe mạnh, to lớn mặt đen xì, thấy nhân dân quằn quại dưới ách tham tàn của bọn quan lại nhà Đường, liền hô hào trăm họ đứng dậy chống quân xâm lược. Ông được các nơi hưởng ứng nhiệt liệt. Việc đầu tiên của ông là chiếm lấy một nơi để làm căn cứ tại Hoan Châu thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, xây thành đắp lũy, tự xưng là hoàng đế và được mệnh danh là Hắc Đế. Ông liên kết ngay với Lâm Ấp và Chân Lạp để có hậu thuẫn và rộng đường lưu tới, càng làm cho nhà Đường thêm lo ngại.

Nhà Đường phái quân do Dương Tư Húc điều khiển, sang hợp với Đô Hộ Quan Sở Khách đánh Mai Hắc Đế. Hắc Đế không cầm cự nổi phải bỏ chạy và ít lâu bị bệnh mà mất.

Theo Đông Tùng trong Minh Tân Tạp Chí số 48, nghĩa quân chạy tới sườn núi Hùng Sơn tục gọi là Rú Đụn, bên bờ Lang Giang sau một trận ác chiến cuối cùng. Mai Hắc Đế đã vì nước hy sinh một cách vô cùng anh dũng.

Nay ở núi Vệ Sơn, huyện Nam Đường, tỉnh Nghệ An còn có di tích thành cũ của vua Hắc Đế và còn đền thờ Ngài ở xã Đức Nậm, huyện Nam Đường (Nam Đường nay đổi tên là Nam Đàn), kiến trúc rất huy hoàng.

4 – Giặc Công Lôn và Đồ Bà

Năm Định Vị (767), là năm Đại Lịch thứ hai đời vua Đại Tông nhà Đường, giặc bể là quân Côn Lôn và Đồ Bà vào cướp phá Giao Châu, vây hãm phủ trị. Kinh Lược Sứ là Trương Bá Nghi cùng với Đô Úy Cao Chính Bình họp nhau trừ được quân giặc bể. Sau này Trương Bá Nghi cho đắp La Thành để đề phòng mọi cuộc biến loạn. La Thành có từ bấy giờ.

5 – Bố Cái Đại Vương

Việc đánh dẹp yên, năm Tân Vị (791) Cao Chính Bình được cử giữ chức Đô Hô Giao Châu. Y cai trị dân rất tàn ác, lòng người oán giận vô cùng.

Tại quận Đường Lâm thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây, Phùng Hưng vận động dân chúng đánh phá phủ trị khiến Cao Chính Bình lo sợ mà chết. Quân Giao Châu chiếm được la Thành và phủ trị nhưng mấy tháng sau Phùng HƯng bị bệnh qua đời, nhân dân nhớ ơn ông lập đền thờ và gọi ông là Bố Cái Đại Vương. Bằng danh từ này, dân tỏ ý quý ông như cha mẹ đối với con cái. Con ông là Phùng An được nhân dân tôn lên để kế nghiệp.

Nhà Đường lại đem quân sang dẹp, cử Triệu Xương làm Đô Hộ, Phùng An yếu thế đành phải hàng.

6 – Cuộc xâm lăng Giao Châu của Nam Chiếu

Giao Châu đau khổ về cuộc thống trị của nhà Đường cũng như của các tiền triều Trung Quốc như trên đã nói; Giao Châu còn bị Lâm Ấp luôn luôn cướp phá, đó là cái nạn thứ hai. Khi nhà Đường sắp mắt, Giao Châu lại bị cuộc xâm lược của Nam Chiếu, đó là cái nạn thứ ba.

Nam Chiếu là nước nào và ở đâu?

Phía Tây Bắc Giao Châu thuộc miền tây tỉnh Vân Nam, có một xứ mà dân là người Thái xưa kia, chia làm 6 chiếu tức là thuộc 6 tù trưởng (chiếu đối với dân Thái tức là vua) địa phương quản trị; Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng và Mông Xá. Sáu chiếu này đã cùng thần phục nhà Đường.

Mông Xá ở phía Nam đối với các chiếu trên kia và giáp địa phận Giao Châu. Đó là Nam Chiếu. Dân Nam Chiếu đã từng sống nhiều phen oanh liệt và quật cường. Dưới đời Ngô Tôn Quyền (thời Tam Quốc) họ đã biết tìm những nơi sông ngòi, núi non hiểm trở như Hà Hoa, Quế Chữ, Vọng Cái, Hoành Sơn, Trường sa, Hải Ngạn, Lỗ Lôi, Ô Tôn, thuộc Hoa Nam để tụ hợp. Ngoài ra họ còn giao dịch mật thiết với các nước Tây Bà Dạ để lấy vây cánh. Có sách chép họ là con cháu của Triệu Vũ Đế và quan thái phó Lữ Gia bị các tướng nhà Hán là Lộ Bác Đức và Dương Bộc đánh xiêu bạt đến các xứ trên đây.

Dưới đời Tấn (265-316), họ lại hợp lực với bọ thổ tù lân cận là Triệu Công Lý chiếm cứ châu Quỳ, châu Diên đặt làm lộ Da La, lấy Châu Cầm, châu Hoan làm lộ Lâm An, cùng nhau cai trị. Họ lập thành trì ở xã Cao Xá, thuộc đất Diễn Châu, phía đông giáp bể. phía tay giáp Tây Bà Dạ, phía nam giáp núi Hoành Sơn rồi tự xưng vương.

Đời Đông Tấn (317-420) Tào Nhĩ được cử đi đánh, nhiều phen đuổi được Nam Chiếu ra tận bể, nhưng quân Nam Chiếu rất khôn ngoan, biết trốn tránh sức mạnh, biết áp dụng chiến thuật co dãn và tiêu hao. Quân Tấn không chịu được thủy thổ, đau ốm chết hại nhiều, phải rút lui. Nam Chiếu lại trở về hoành hành như cũ. Khoảng năm Khai Nguyên (713-741) đời vua Đường Huyền Tông, Bì La Cáp là vua Nam Chiếu có chí lớn, đút lót Tiết Độ Sứ đạo Kiêm Nam là Vương Dục, xin thống nhất và quản lĩnh cả 6 chiếu và lấy cớ rằng 5 chiếu kia suy nhược không đứng vững nổi. Đường triều, theo lời đề nghị của Vương Dục chấp thuận cho việc thống nhất này và đặt lên cho 6 chiếu và lấy cớ rằng 5 chiếu kia suy nhược không đứng vững nổi. Đường triều, theo lời đề nghị của Vương Dục chấp thuận cho việc thống nhất này và đặt tên cho 6 chiếu hợp nhất là Qui Nghĩa. Việc thống nhất thực hiện xong, Nam Chiếu trở nên một quốc gia cường thịnh xuất quân đánh phá các dân tộc lân cận. Trước nhất là nước Thổ Phồn (sau này là Tây Tạng) bị Nam Chiếu xâm lăng. Sau này, Nam Chiếu tự đặt thêm một tên khác là Đại Lý và thành một mối lo ở biên cương cho Trung Quốc.

Năm Tân Tỵ, Đường Thiên Bảo thứ 9 (750), quân Nam Chiếu vây thành Côn Minh (quận Vân Nam) cướp được hai châu Tiêu Châu và RIêu gồm tất cả đến 32 xứ. Nam Chiếu biết lợi dụng rừng núi, nhử quân Đường vào sâu rồi vây hãm và tấn công. Tiết Độ Sứ ở Kiêm Nam là Trọng Thông rồi tới Tiết Độ Sứ Đường Quốc Trung hai lần huy động 28 vạn quân đánh nhau với Nam Chiếu đều bị thua rất thảm hại.

Năm Đường Trình Nguyên thứ 16 (800) An Phủ Sứ Vân Nam là Vi Cao đánh quân Nam Chiếu thua ở Thiết Kiều, phủ Lệ Giang.

Năm Bính Dần (846) Nam Chiếu tràn qua Giao Châu nhưng Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên Dụ đánh đuổi được. Sau đó, đến Vương Thức thay Bùi Nguyên Dụ biết cách cai trị nên mọi mầm loạn đều tắt. Đến năm Canh Thìn (860), Lý Hộ sang làm Đô Hộ thì Nam Chiếu đã mạnh thêm nhiều lắm. Con Phong Hưu (vua Nam Chiếu) là Tư Long tự xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông, sau lại đổi ra Đại Lễ. Tư Long to tăng cường ráo riết về quân sự, động viên thanh niên từ 15 tuổi để đưa vào quân ngũ. Rồi một việc đã xẩy ra dẫn đường cho quân Nam Chiếu bước thêm lần nữa vào đất Giao Châu. Nguyên Lý Hộ ỷ thế mạnh của “thiên triều” giết người tù trưởng của dân Mường là Đổ Thủ Trừng khiến toàn thể dân Mường bất mãn. Dân Mường vốn có liên lạc với Nam Chiếu, muốn báo thù nhưng không đủ sức liền vạch đường chỉ nẻo và xui giục quân Nam Chiếu xâm lược Giao Châu. Tháng 11 năm ấy, Thành Đô Hộ bị thất thủ, Lý Hộ và Giám Quận bỏ chạy về Vũ Châu. Tháng Giâng năm sau Đường triều phải cho Vương Khoan đem quân Ung Châu và các miền lân cận sang cứu viện. quân Nam Chiếu lại rút về, nhưng hai năm sau họ lại lần đến. Tướng Đường là Thái Tập đem ba vạn quân sang đối phó, Nam Chiếu lại lui binh. Sau này Tiết Độ Sứ Lĩnh Nam là Thái Kinh sợ Thái Tập lập được công to, mật tấu về triều đình rằng tình hình Giao Châu đã ổn định không cần phải để quân đội ở lại. Vua Đường liền rút đoàn quân viễn chinh về, Thái Tập muốn để lại 5.000 binh cũng không được.

Hiểu được sự lục đục kể trên, năm Quý Mùi tức một năm sau Nam Chiếu mở cuộc tấn công mãnh liệt hơn bao giờ hết, bằng số 50.000 quân tràn như nước lũ vào Giao Châu, chiếm được phủ thành. Thái Tập thế cô phải tự sát. Tướng Đường là Nguyên Duy Đức đem 400 quân Kinh Nam đến cứu cũng thua, chạy ra đến bờ sông thì bí lối vì không có thuyền bè. Y liền hô hào quân sĩ quay lại, liều sống mái với quân Nam Chiếu vì thế nào cũng chết. Cuộc phản công này hại được hai ngàn binh sĩ Nam Chiếu nhưng đến đêm Nguyên Duy Đức kiệt lực, bị tướng Nam Chiếu vây đánh và giết được cả bọn. Thắng trận hoàn toàn, quân Nam Chiếu vào phủ thành sát hại tới 15 vạn nhân mạng.

Giao Châu lọt vào tay Nam Chiếu, vua Nam Chiếu là Mông Thế Long cử Dương Tử Tấn trấn thủ Giao Châu với 2 vạn quân, và đặt Đoàn Tú Thiên làm Tiết Độ Sứ.

Trong câu chuyện này, ta thấy ro vì sự đố kỵ nhau của bọn văn võ tướng nhà ĐƯờng mà Giao Châu lâm vào cuộc binh lửa vô cùng tàn hại. Nhưng vẫn chưa hết!

Mất Giao Châu, tạm thời nhà Đường Thiên An Nam Đô Họ Phủ về Hải Môn rồi triệu tập quân các đạo về Lĩnh Nam, lo việc thuyền bè và lương thực. Mùa thu năm sau (864), Cao Biền được lệnh xuất quân.

7 – Cuộc thất bại của quân Nam Chiếu và sự nghiệp của Cao Biền

Năm Ất Dậu (865), Cao Biền được nhà Đường cử làm tướng hợp cùng Giám Quận là Lý Duy Chu đem quân sang đóng ở Hải Môn để giải quyết vấn đề Nam Chiếu, Cao Biền sinh ở cửa tướng lại là tay văn học uyên thâm, dẫn 5.000 quân làm tiền đạo và ước cùng Lý Duy Chu điều động quân hậu viện tiến sau. Lý Duy Chukhông muốn Cao Biền thành công, biết rằng Cao Biền giàu mưu lược, có tài quân sự, tất sẽ thắng trận, và Nam Chiếu tuy đông nhưng man mọi và ô hợp, chiến đấu lại không có phương pháp. Y chỉ còn cách không đem quân tiếp viện để Cao Biền hao mòn dần thực lực mà thất bại bại chăng. Cao Biền cất quân đi rồi, Lý Duy Chu vẫn cứ đóng nguyên vẹn tại chỗ.

Giám Quận nhà Đường là Trần Sắc lại phái thêm một đạo quân 7.000 người nữa, do tướng Vi Trọng Tể lĩnh đạo, sang tăng cường cho đoàn quân viễn chinh của Cao Biền. Bấy giờ Cao Biền mới xuất trận, thắng được Nam Chiếu mấy kỳ, (năm 866 hồi tháng 6) và cho báo tiếp về Trung Quốc. Hồi tháng 9, năm thứ 6 hiệu Hàm Thông (865) Cao Biền đánh lén 5 vạn quân Nam Chiếu lúc đang gặt hái ở Phong Châu (Vĩnh Yên) giết được một số quân Nam Chiếu và cướp được thóc lúa đem về nuôi quân lính. Ta nhận thấy Cao Biền khôn ngoan ở chỗ không đánh mạnh ngay vì chưa có tiếp tế và chưa đầy đủ lực lượng. Việc đánh Phong Châu trước đỏ chỉ do vấn đề cần lương thực. Và khi có tiếp viện hẳn hoi (quân của Vi Trọng Tể đến) Cao Biền mới thwucj sự lâm chiến.

Biết tình thế khó khăn, vào khoảng tháng 4 năm 866, Tư Long thăng cho Đoàn Tú thiên làm Tiết Độ Sứ đất Thiên Xiển (kinh đô riêng của Nam Chiếu ở phía tây bắc Giao Châu) cho Dương Thấp Tư (An Nam Chí Nguyên chép là Dương Tư Tấn) đến giúp Tú Thiên giữ Giao Châu, cho Phạm Nê Ta làm Đô Thống Phủ Đô Hộ. Nay Vân Nam còn thành Phủ Ta ở huyện La Thư.

Tin báo thắng trận của họ Cao đến Hải Môn thì bị Lý Duy Chu chận lại. Triều đình Trung Quốc lâu không thấy tăm hơi của bọn Cao Biền liền cho hỏi Lý, thì Lý nói dối rằng Cao Biền không chịu xuất trận và vẫn án binh bất động ở Phong Châu. Thựa ra, Cao Biền đã phá được quân Nam Chiếu là bọn Trương Thuyên, Lý Ta và Long man, hàng được hơn 1 vạn quân, nhờ được ba lũy ở Ba Phong và đang vây hãm quân Nam Chiếu ở La Thành quá 10 hôm rồi. Cuộc đắc thắng chỉ còn là vấn đề thời gian thì vua Đường Ý Tông phái Vương Án Quyền và Lý Duy Chu tới thay. Họ Cao trước khi về kinh đã mật phái tiểu hiện Tăng Cổn về Trung Quốc trình bày tin tức thắng trận và mọi sự hãm hại của Lý. Rồi sau khi giao binh quyền cho Vi Trọng Tể, Cao Biền cùng 100 thủ túc lên đường. KhiVua Đường hiểu rõ manh mối, Cao Biền lại được thăng chức Kiểm Hiệu Công Bộ Thượng Thư và được quay gót về Giao Châu tiếp tục việc đánh dẹp. Trong lúc này, bọn Vương Án Quyền, Lý Duy Chu mới đánh thành. Vương Án Quyền nhút nhát, việc gì cũng tùy ở Duy Chu. Còn Duy Chu thì tham lam, tàn ác, tướng tá khôi phục, nhờ vậy quân Nam Chiếu giải được hai lần vây, trốn được quá nửa. Đến khi Cao Biền trở lại, hạ được thành, bại được Dương Thấp Tư, chém được bọn Tú Thiến, Nê Ta, Nạc Mi và Chu Cổ Đạo là Thổ Mán đã làm hướng đạo cho Nam Chiếu, cùng giết được 3 vạn quân Nam Chiếu.

Cao Biền lại đánh phá 2 động Thổ Mán đã theo Nam Chiếu và giết tù trưởng. Thổ Mán quy phục một vạn bảy nghìn người.

Mùa Đông tháng 11 năm ấy, Vua Đường ban chiếu đặt Tĩnh Hải Quận ở Châu Giao, cho Cao Biền làm Tiết Độ Sứ kiêm hành Doanh Chiêu Thảo Sứ các đạo. Từ Lý Hộ tham nhũng, độc ác, quân Man khởi loạn gần 10 năm đến bấy giờ mới yên và “An Nam Đô Hộ Phủ” đổi thành Tĩnh Hải Quân bắt đầu từ đấy.

Xét ra, Giao Châu bị nạn Nam Chiếu ròng ra 10 năm vô cùng tàn hại. Từ đó Cao Biền phục hồi được uy tín cho nhà Đường và ở lại làm Tiết Độ Sứ Giao Châu. Theo tu viện trưởng A. Launay, Hội Truyền Giáo Ngoại Quốc, tác giả “Histoire ancienne at modern de I’An Nam” trang 34, sau khi bại trận vài năm, Nam Chiếu lại lợi dụng cơ hội Trung quốc có loạn để dấy quân: Vua Đường phải điều đình gả công chúa cho Vua Nam Chiếu. Theo lời khuyên của Cao Biền, nhà Vua đánh thuốc độc giết chết 3 đặc phái viên sang đón công chúa là linh hồn của Nam Chiếu. Do đó nước này tê liệt và nhà Đường giữ được Giao Châu thêm một thời gian.

Cao Biền thi hành những công cuộc gì ở đây?

Ông ta đã làm tất cả những việc của một võ tướng và một văn quan có tài. Trước hết ông ta khởi việc xây thành đắp lũy ở các nơi biên cảnh để đề phòng giặc giã, do đó ông vội cho đắp ngay lại thành Đại La bên bờ sông Tô Lịch. Thành này bề mặt dài hơn 1.982 trượng, cao 2 trượng linh 6 thước. Bên ngoài thành có một con đê chạy theo để bao bọc lấy thành. Đê dài hơn 2.125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dầy 2 trượng. Trong thành có tới 40 vạn nóc nhà sự sống của nhân dân rất là sầm uất. Ông lại khai phá các ghềnh thác để mở rộng đường thủy cho các thuyền bè buôn bán đi lại.

Về mặt cai trị ông cũng có một chính sách rõ rệt tránh được mọi điều nhũng lạm của bọn thừa hành nên ông đã gây được thiện cảm giữa ông và dân chúng cho nên ông được tôn là Cao Vương. Ông lập các sở thuế để có tiền chi dụng. Sau này người ta cho rằng người Việt Nam phải đóng sưu thuế từ thuở Cao Biền làm Tiết Độ Sứ ở Giao Châu. Điều đó không hẳn thế. Có lẽ rằng với Cao Biền Giao Châu chịu một chế độ thuế khóa phân minh thì phải hơn, còn trong thời các tiền triefu vì không có hẳn một chính sách thu nạp rõ rệt nên sự đóng góp của dân phần lớn chỉ vào cái túi tham nhũng không đáy của bọn quan lại Trung Quốc.

Năm Ất Vị (875) vua Đường đổi Cao Biền đi làm Tiết Độ Sứ tại Tây Xuyên (Tứ Xuyên) và ưng thuận lời đề nghị của Cao Biền cho Cao Tầm (cháu Cao Biền) thay thế chú ở phương Nam.

Chẳng bao lâu nước Tàu lại loạn và cái cảnh tam phân ngũ liệt lại tái diễn. CŨng như mọi lần, cuộc thay đổi chính sự bên Trung Quốc là một dịp tinh thần quốc gia Việt nam được thức tỉnh.