Chương XXII NHÀ NGUYỄN (1802 – 1945)-
- Gia Long (1802 – 1820)
- Minh Mạng (1820 – 1840)
- Thiệu Trị (1841 – 1847)
- Tự Đức (1847 – 1883)
- Dục Đưucs (1883)
- Hiệp Hòa )1883)
- Kiến Phúc (1883 – 1884)
- Hàm Nghi (1884 – 1885)
- Đồng Khánh (1885 – 1889)
- Thành Thái (1889 – 1907)
- Duy Tân (1907 – 1916)
- Khải Định (1916 – 1925)
1 – Thế Tổ xưng Đế hiệu:
Ngày 1/6/1802, Nguyễn Ánh làm lễ tại nhà Thế Miếu, lấy hiệu là Gia Long và tuyên bố cáo chung niên hiệu Cảnh Hưng của nhà Hậu Lê.
Tính ra Thế Tổ nhà Nguyễn đã chiến đấu suốt hai mươi lăm năm (1777 – 1802) để hoàn thành sự nghiệp thống nhất và bình định nước Việt Nam từ Cà Mau tới Nam Quan.
Trong một phần tư thế kỷ đó Người đã trải qua bao phen vào sinh ra tử, nhục nhã gian lao, nếu không phải là người có tài, có chí, cương quyết và nhẫn nại thì khó mà thành công được.
Đến khi bước lên ngai vàng, Thế Tổ vừa đúng 40 tuổi.
Lo việc trị loạn xong, Người bắt tay vào việc bình trị. Công chuyện này rất là phiền toái, khó khăn và vĩ đại.
Các cơ quan hành chính và các quan lại ở các địa phương bấy giờ đều thất tán hết, nay phải lập lại các sổ sách về đinh điền, thuế khóa và tuyển trạch nhân viên. Đồng ruộng bỏ hoang, kho tàng rỗng tếch, cướp bóc lung tung, thật là một cuộc đổ nát hoàn toàn.
Việc thứ nhất là Người đổi tên quốc hiệu ra Việt Nam, chính thức dùng Phú Xuân làm kinh đô, tha cho dân một vụ thuế, thăng thưởng cho tướng sĩ, phong tước và cấp ruộng đất cho con cháu hai họ Lê, Trịnh để giữ việc khói hương.
2 – Bộ Máy Chính Quyền Trung Ương
Vua Gia Long không đặt ngôi hoàng hậu trong nội cung, và chức Bồi tụng, hay Tham tụng (tức là chức Tể tướng) ngoài triều đình để tránh những ảnh hưởng quá lớn về chính trị, do đó chỉ có chức Hoàng phi và cung tần trong biệt điện, việc nước thì có Lục bộ phụ trách. Mỗi bộ có một vi Thương thư đứng đầu gồm Tả Hữu Tham Tri Tả, Hữu Thị Lang cùng các thuộc viên Lang Trung, Viên Ngoại Chủ Sự, bát cửu phẩm, thơ lại…
Sáu bộ là:
1) Bộ Lại trông coi việc bổ dung, thuyên chuyển, ban thưởng phẩm trật, khảo xét công trạng, phong tặng ấm nước, thảo các chiếu, sắc, dụ…
2) Bộ Hộ chịu trách nhiệm về các việc đinh điền, thuế má, tiền bạc, kho tàng, hóa vật như bộ Tài chính và Kinh tế ngày nay.
3) Bộ Lễ lo việc tế tự, triều hạ, tôn phong, triệu hội, học chế, khoa cử, phong sắc cho bách thần, khen tặng các người sống lâu, tiết hạnh.
4) Bộ Binh bổ dụng, tuyển mộ binh tướng, tổ chức quân đội, mở các hội thao diễn, lập khoa thi võ cử, ban bố các mệnh lệnh hành quân…
5) Bộ Hình xét hình án, sửa sang pháp luật, duyệt lại các án từ đáng nghi ngờ hay các đơn kháng tố tối cao.
6) Bộ Công phụ trách các công tác xây dựng cung điện, thành trì, hào lũy, tự tạo tàu bè, nghiên cứu các kiểu mẫu lăng tẩm, công thự, mua bán vật liệu, thuê mướn thợ thuyền.
Để kiện toàn việc chính trị cũng như hành chính, nhà vua lập Đô sát viện gồm Tả, Hữu Đô Ngự Sử và Tả, Hữu Phó Đô Ngự Sử đứng đầu, cơ quan này giống như Nha Trang Tra hành chính và chính trị đời nay nhưng rộng quyền hơn là có quyền cản ngăn nhà vua và đàn hặc các quan lớn, nhỏ nếu thấy việc gì trái với phép nước về phương diện này hay phương diện khác. Xét trong triều Gia Long bấy giờ chưa có quan nhất phẩm về hàng văn, các quân nhân hầu hết giữ các việc trọng yếu, có lẽ do tình thế đặc biệt buổi đó. Các việc thưởng phạt, truất biếm, bãi miễn đều có những thể lệ rõ ràng để tránh những việc lạm quyền và thiên vị.
3 – Các Địa Hạt Hành Chính Lớn
Đối với từng địa phương, vua Thế Tổ có một chính sách riêng biệt:
A) Tại Bắc Hà và Nam Hà, nhà vua đặt một quan Tổng Trấn để trông nom mọi việc. Quan Tổng Trấn Bắc Hà bấy giờ là Nguyễn Văn Thành, Tổng Trấn Nam Hà là Lê Văn Duyệt. Cả hai đều là võ quan cấp tướng đối cao. Dĩ nhiên ý của nhà vua là vì việc loạn chỉ mới tạm yên, cần phải có võ tướng để toàn quyền hành động mới giải quyết được mọi vấn đề. Dưới quyền Tổng Trấn có phó Tổng Trấn, có quan Ký Lục và Cai Bạ giúp việc cai trị. Quan lại ở Bắc Hà được tuyển dụng trong các cựu thần của nhà Lê và các thổ hào sở tại.
Bắc Hà được kể từ Thanh Hóa ngoại tức là từ Ninh Bình trở ra, gồm 11 trấn chia ra làm 5 nội trấn: Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ, Sơn Tây Kinh Bắc, Hải Dương. Ngoại trấn có: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên là những tỉnh bao vây vùng Trung Châu từ Tây qua Đông (giáp biển). Nam Hà từ Bình Thuận trở vào là Gia Định thành gồm 5 trấn: Phiên An (thành Gia Định cũ) Biên Hòa, Vĩnh Thanh (Vĩnh Long và An Giang) Vĩnh Tường và Hà Tiên[1].
Đứng đầu các trấn có các quan Lưu Trấn hay Trấn Thủ. Trấn lại chia ra Phủ, huyện, châu (châu là đơn vị hành chính ở các vùng có rừng núi và đồng bào Thượng).
Miền Trung gồm: Thanh Hóa trấn, Nghệ An trấn, Quãng Nghĩa trấn, Bình Định trấn, Phú Yên trấn, Bình Hòa trấn (tức Khánh Hòa) và Bình Thuận trấn. Vùng Kinh Kỳ tức là các tỉnh trực tiếp với hoàng triều gồm bốn doanh: Trực Lệ Quảng Đức doanh (Thừa Thiên ngày nay), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh, Quảng Nam doanh.
P. Cultru cho rằng Bắc Hà và Nam Hà bấy giờ tuy bị lệ thuộc về Phú Xuân nhưng không bị một chế độ cai trị nghiệt ngã vì vua Gia Long xét việc tập trung quyền hành thái quá là điều không thuận lợi.
4 – Binh Chế
Vua Thế Tổ sau khi thống nhất đất nước liền phong thưởng tướng sĩ. Ngài chỉnh đốn binh đội theo tục cũ: đối với quân chính quy cứ 7 xuất đinh từ 19 đến 25 tuổi ấy một Người ra lính thì gia đình được lĩnh một phần ruộng và cứ một năm chỉ ở trong quân ngũ một thời hạn là 4 tháng rồi lại trở về quê làm ăn cày cấy 8 tháng, nhưng khi Nhà nước động dụng đến để làm các tạp dịch thì phải có mặt (xây thành, đắp lũy, mở đường…), gặp thời chiến thì cứ ba xuất đinh lấy một.
Ở Bắc Hà thì 10 người lấy một tại trấn Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên và Quảng Yên. Ở Nam Hà thì 8 người lấy một tại các làng đông đảo.
Ở kinh thành có ba loại lính: thân binh, cấm binh và tinh binh. Thân binh mỗi vệ có 500 người và có 50 người binh tập quân nhạc. Ở các trấn thì có lính cơ, lính mộ. Các binh sĩ chia ra làm ba phiên: 2 phiên về làm ruộng, 1 phiên ở lại phục vụ rồi thay đổi cho nhau.
Vũ khí có: gươm, giáo, mã táu. Súng có: đại bác, thạch cơ điểu thương (sung nhỏ) mổ bằng máy đá lửa. Có ba trường để tập bắn ở kinh thành gọi là xạ trường. Ở các cửa bể có các hải dài là đồn binh có đặt súng để bảo vệ an ninh và kiểm soát tàu bè ngoại quốc. Vua Gia Long đặt ở mỗi hải khẩu một cơ lính thủy và làm thuyền lớn bọc đồng để tuần phòng miền bể. Lính thủy được lấy ở hai doanh Quảng Đức và Quảng Nam, lập thành 6 vệ đóng tại kinh thành.
Cấp bậc về Võ ban: cũng như về Văn ban có 9 bậc: mỗi bậc có chánh, có tùng (phó). Cao nhất là: Trung quân, Tiền quân, Tả quân, Hữu quân, Hậu quân. Chức này vào cấp tướng coi một đạo quân gồm 8 đại đội và 9 cơ (mỗi cơ có 60 binh sĩ). Mỗi đạo quân có một số tượng binh.
Cấm quân là quân canh gác hoàng thành có 30.000 gồm lục quân, kỵ binh, tượng binh. Tổng số lục quân vào năm 1800 là 113.000 người (trong thời chiến), nhưng có thể lên tới 200.000 nếu có chiến tranh. Tổng số hải quân có 26.800 người, đó là theo lời của De Barisy, người đã cộng tác với nhà vua trong thời chiến tranh với nhà Tây Sơn.
Tàu chiến mang 16 đến 22 khẩu đại bác có 200 chiếc.
Thuyền chiến có 40 đến 44 tay chèo mang máy bắn đá cò 500 chiếc.
Thuyền lớn có từ 50 đến 60 tay chèo mang đại bác, máy bắn đá có 100 chiếc.
Binh đội thủy lục này đều luyện tập và áp dụng chiến pháp theo lỗi Âu Châu. Còn kỵ binh thì không có vì xứ ta nhiều núi non sông ngòi, chỉ có một ít để dùng vào việc liên lạc và bảo vệ hoàng thành.
5 – Công Vụ
Mỗi tỉnh có một số nhân viên phụ trách việc sửa sang đường xá, đê điều, sông ngòi. Nhà vua lưu tâm nhiều hơn cả là vấn đề đê điều ở Bắc Hà, vì xứ này hàng năm thường xảy ra việc lụt lội khiến Nhà nước phải bãi thuế cho dân. Cuối đời vua Thế Tổ (1820) việc sửa sang đê điều ở đây mới tạm yên, tiếc rằng việc gìn giữ vẫn thường không được chu đáo lắm nên việc lụt lội vẫn còn xảy ra.
Các quan lộ trong nước đều được chăm nom, chỗ nào cách sông ngòi thì quan địa phương cho làm cầu. Cứ 15.000 trượng đường thì dân được lãnh 10.000 phương gạo. Từ cửa Nam Quan vào đến Bình Thuận, cứ 4.000 trường đường có một trạm bên cạnh quan lộ để quan khách nghỉ ngơi, cả thảy có 98 trạm, còn từ Bình Thuận vào đến Hà Tiên đã có thủy đạo.
Ở mỗi trấn Nhà nước có một kho chứa thóc gạo phòng khi đói kém hay mất mùa để chẩn cấp hay bán rẻ cho dân.
Thành Huế được xây dựng vào năm 1813 hay 1814 đến 1820 mới xong. Thành hình vuông chu vi tới 5 đến 6 dậm theo kiến trúc Tây Phương kiểu Vauban (như thành Strasbourg của Pháp) có 24 pháo đài (mỗi pháo đài có 26 khẩu đại bác từ 18 đến 68 livres), do chính sở đúc của nhà vua làm ra. Thành cao chừng 4 thước tây có những cổng đá cao tới 60 thước Anh (peds) toàn bằng đá phiến rất lớn và dày dặn, nóc cổng cao tới 8 thước. Đây là một công trình kiến trúc vĩ đại và kiên cố rất đáng khen ngợi nếu đem so sánh với những thành lũy ở cửa Hội An hay Nha Trang.
6 – Việc Học Hành Và Luật Pháp
Vua Thế Tổ cũng tôn trọng Nho học, biết rằng việc trị dân cần phải có nhân tài nên cho lập nhà Văn Miếu ở các doanh, các trấn thờ đức Khổng tử. Ngài lập Quốc Tử Giám (1803) ở Kinh Đô để dạy cho các quan và các sĩ tử, mở khoa thi Hương lấy các người có học, có hạnh ra làm quan. Cũng trong năm này, Ngài cho ban hành hai đạo dụ về việc mở các trường ở các tỉnh, ấn định nhân viên giáo giới và chương trình học chế cùng tái lập các khoa thi ở các trấn. Ở mỗi trấn có một quan Đốc Học, một phó Đốc Học hay Trợ Giáo. Cứ tháng 10 hàng năm triều đình mở một kỳ thi.
Binh bộ thượng thư Lê Quang Định đã được phụ trách làm một cuốn Địa dư tức là cuốn Nhất Thống Địa Dư Chí biên soạn từ năm 1806 đến năm 1811. Vua Thế Tổ còn ra lệnh sưu tầm các sách sử ký liên hệ đến Lê triều và nhà Tây Sơn, kêu gọi dân chúng xuất trình các tài liệu bấy lâu thất tán vì ly loạn đem nộp cho các quan tỉnh lấy thưởng. Cũng năm này một số giáo viên được mời về kinh đô để chép sử. Năm 1818 Mạc Công Du là con cháu Mạc Cửu được lệnh sưu tầm các tài liệu về lịch sử đất Hà Tiên.
Về luật pháp, vua Thế Tổ đặt Nguyễn Văn Thành vào chức Tổng Tài để soạn một bộ luật mới. Nguyễn Văn Thành đã mang bộ luật của nhà Thanh ra chép lại gần trọn nguyên văn nên khi áp dụng bộ luật này đã có nhiều điều quá khe khắt. Xin nhắc rằng bộ luật của Thanh triều cay nghiệt là bởi vua quan nhà Thanh là người Mãn vào thống trị Hoa tộc tất nhiên nó không có thể có những điểm khoan hòa của bộ luật Hồng Đức.
Quốc âm như ta thấy dưới đời Lê Mạt và Tây Sơn đã bắt đầu thịnh đạt. Tới đời Nguyễn Sơ, thái bình trở lại thì mầm non của quốc âm cũng nảy nở mạnh dần. Bài văn tế tướng sĩ trận vong đọc tại Bắc Hà do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành không rõ do ai viết, “Hoa Tiên chuyện” của Nguyễn Lai Thạch, “Kim Vân Kiều” của Nguyễn Du, là cả một sự tiên báo văn chương Việt Nam đang đi đến chỗ phong phú, sáng sủa để dân ta có thể bằng tiếng mẹ diễn tả được mọi điều tình cảm hay trình bày được mọi tư tưởng, vẽ nên mọi cảnh trí. Những tác phẩm này đến nay còn được coi là những áng văn chương đại bút trong đó xuất phát được nhiều tinh hoa của dân tộc.
7 – Việc Tài Chính
Tài chính là huyết mạch của quốc gia, là sinh khí của bộ máy Nhà nước, Gia Long quan niệm như vậy nên đã gia công chỉnh đốn mọi ngành thuế khóa như sau: 1/ Từ Quảng Bình đến Bình Thuận dân đóng thuế mỗi năm một lần từ tháng 4 đến tháng 6. 2/ Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Hà được nộp thuế làm hai lần.
Nguyễn triều lập ra Đinh bạ và Điền bạ cùng công bố nhiều đạo luật về công điền, công thổ do sự gian lận, ẩn nặc đã xảy ra bởi nhiều người đã lợi dụng thời chiến tranh đem bán hoặc tự chia nhau công điền, công thổ. Nay triều đình bắt chia lại và cấm ngặt viếc bán công điền, cùng cho danh sách những người từ 18 đến 59 tuổi hầu tránh những trường hợp khai tử hay khai vắng mặt để khỏi đóng thuế này, nếu việc gian xảy ra không những đương sự phải phạt mà cả lý tưởng cũng phải chịu trách nhiệm (hoặc phạt trượng hay phạt tù). Kẻ tố cáo việc này được thưởng tiền hay được miễn tạp dịch, nhưng tố giác sẽ bị nghiêm hình[2].
Thuế điền: chia ra làm ba hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp 20 thăng. Nhị đẳng điền 15 thăng. Tam đẳng điền 10 thăng. Còn thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10 thăng.
Thuế đinh: Nghệ An ra nội ngoại Thanh Hóa mỗi xuất hàng năm phải nộp thuế thân từ 1 đến 2 tiền – Mân tiền: từ 1 đến 2 tiền – Cước mễ: 2 bát. Năm nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên (Hoài Đức bấy giờ) mỗi xuất phải nộp: thuế thân từ 1 đến 2 tiền. 1 mâm tiền 1 tiền. Điệu tiền (tạp dịch) 6 tiền – Cước mễ: 2 bát. Sáu ngoại trấn Bắc thành mỗi xuất phải nộp: thuế thân 6 tiền – Mân tiền: 1 tiền – Điệu tiền: 3 tiền – Cước mễ: 1 bát (1803 và 1805).
Ngoài các thứ thuế kể trên, ta thấy dưới đời Gia Long còn những thuế đánh vào các quý vật như quế ở Thanh Hóa, yến sào ở Quảng Nam, gỗ, chiếu hoặc nộp bằng thực chất hoặc bằng tiền cùng lập ra quan thuế đối với ngoại quốc vào giao thương và các thuê khai thác các quặng mỏ. Nhà vua lại cho lập cả sở đúc tiền (1803 làm ra hai loại tiền đồng và tiền kẽm cùng đúc vàng bạc ra thành lương, thành nén. Tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ Gia Long thông bảo, một mặt in chữ thất phân. Mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng. Giá vàng định là: một làng vàng đổi lấy 10 lạng bạc. Nhà vua cũng chuẩn định lại các thước vuông, chế tạo ra thước đồng để đo ruộng. Năm Gia Long thứ 12, triều đình lập ra cân thiên bình để cân đồng, sắt, chì và thiếc. Còn cân vàng thì dùng cân trung bình.
8 – Việc Ngoại Giao Với Nước Pháp
Như chúng ta biết, chúa Nguyễn Ánh xưa kia gửi con (Thế Tử Cảnh) cho Giám mục Bá Đa Lộc sang ngoại giao cầu viện trợ của Pháp hoàng Louis XVI nếu không có sự hiểu lầm, hoặc rụt rè của Pháp đình thì ngay từ thuở đó nước Pháp đã đặt được nhiều ảnh hưởng ở Việt Nam. Việc này còn bị ngăn trở nữa vì cuộc cách mạng (1789 – 1793) ở nước Pháp đã xảy ra thuở ấy, thêm vào là Pháp đã không dồi dào tài chánh cùng quân lực để tranh giành với Liệt cường ở các vùng Á Châu.
Sau này chúa Nguyễn Ánh đã thành công do sự giúp đỡ của Giám mục Bá Đa Lộc, một số tư nhân Pháp và cả chính giới Pháp lại đề ra việc tái lập ngoại giao với Việt Nam.
Vẫn như dụng ý hai chục năm trước, Pháp muốn giành nhau với Anh quốc nhiều hơn cả vì Anh đã nắm được nhiều nguồn lợi từ Ấn Độ Dương qua Thái Bình Dương. Nay Pháp thấy cần chặn đứng lối tiến của Anh vào bờ biển Trung Hoa vì Trung Hoa là một miếng mồi ngon và vĩ đại hơn hết.
Năm 1812, theo lệnh Hoàng đế Nã-Phá-Luân (Napoleoné), Quốc vụ khanh d’Hauterive được xem xét lại vấn đề Việt Nam nhưng việc này lại gián đoạn vì sau đó ít lâu Ná-Phá-Luân bị lật đổ.
Dưới thời phục hưng của nước Pháp (Restauration), khi Bá tước Portal làm giám đốc các thuộc địa, một thân nhân của Dayot đã nêu ra ý kiến nước Pháp nên mở cuộc ngoại giao trở lại với Nam Hà rồi Pháp đình đã miễn nhiều thuế má cho các tàu buôn đi giao dịch với các xứ Viễn Đông.
Vua Gia Long lên ngôi được hai năm (1804) do lời đề nghị của Công ty Đông Ấn, Anh gửi xứ thần Sir Robert đến Việt Nam. Bấy giờ Chaigneau và Vannier đang có nhiều uy thế bên vua Gia Long đã xúi nhà vua khước từ ngoại giao với Anh, tuy vậy Anh còn đưa thư hai ba lần nữa nhưng Thế Tổ cũng vẫn từ chối.
Sau này vào năm 1803, một hạm đội của Anh gồm 7 chiếc tàu tiến vào Hà Nội bị quân ta đốt cháy, nhưng không thấy Anh phản ứng. Vào tháng 9 năm 1817, tàu La Paix của Pháp cập bến Đà Nẵng do nhà Baluerie và Sarget công ty giới thiệu đến.
Tàu này được tiếp đãi tử tế, sau đó là một chiếc tàu nữa của nhà Philippon. Tàu này không bán được hàng bởi không có hóa phẩm nào hợp với nhu cầu của địa phương. Vua Gia Long có trao cho họ một danh sách hóa phẩm để kỳ sau họ mang hàng tới và sẽ không bị lỡ.
Năm 1817, Chiếc Cybèle đến Tourance vào tháng 12. Thuyền trưởng của tàu này là Bá tước Kergariou đã nhân danh Pháp hoàng Louis XVIII xin nhà vua thi hành hiệp ước 1787[3] để Pháp được hưởng các quyền lợi ở Cửa Hàn và Côn Đảo. Lời yêu cầu này không được thỏa mãn. Đó là điều dễ hiểu vì chính nước Pháp đã không thi hành hiệp ước trước.
Năm 1819, hai chiếc tàu Larose và Henri cũng như mấy nhà trên đây gửi qua, vua Gia Long cũng vẫn mua bán với họ. Tiền nong và giá cả rất là song phẳng, phân minh. Trở về họ mua của ta đường, chè, lụa, mộc và bạc nén.
Tóm lại chỉ riêng về phương diện thương mại người Pháp được ưu thế và ưu thế này có thể dài lâu nếu vua Gia Long còn sống thêm nữa bởi ngài đã hàm ơn một số người Pháp giúp đỡ ngài trong việc tranh đấu với nhà Tây Sơn xưa kia.
Trong giai đoạn này thủ tướng De Richelieu có viết thư cho Chaigneau để hỏi thăm tình hình Việt Namvề nhiều phương diện và giới thiệu các tàu buôn cùng các thủy thủ, sau đó Chaigneau được thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh.
Chaigneau trở về thăm nhà tháng 11/1819 được Pháp Hoàng giao cho chức Lãnh sự Pháp ở Việt Nam, có giấy tờ đàng hoàng với nhiệm vụ điều đình lập các thương ước với vua Gia Long.
Vua Louis XVIII gửi chiếu vua Gia Long một chiếc đồng hồ quả lắc, hai cây đèn thờ, các bình bằng đồng mạ vàng, 16 bức tranh chạm nổi về các trận đánh dưới thời Đế Chính, một khẩu súng trường kiểu mới nhất, một cặp súng lục và một tấm gương rất lớn (ở Huế còn giữ được tấm gương này).
Nhưng khi Chaigneau trở lại Việt Nam năm 1821, thì vua Gia Long đã tạ thế, vua Minh Mạng lên kế vị thì sự liên lạc Việt Pháp thay đổi hẳn. Trong thời vua Gia Long còn sống, người Pháp ở lại làm quan với Nguyễn triều có Philippe Vannier, Jean Baptiste Chaigneau, De Forsans và y sĩ Despiau. Những người này đã được nhà vua phong tước[4] rất trọng hậu (trừ Despiau). Nhà vua được 50 tên lính phục vụ tại tư dinh. Sau vua Gia Long qua đời thì những người Pháp trên đây bỏ về hết vì sự ghen ghét của các quan Việt Nam và sự ghẻ lạnh của vua Minh Mạng. Kể từ giai đoạn này trở đi cuộc giao tiếp giữa Nguyễn triều với nước Pháp bắt đầu nổi sóng gió.
9 – Giao Thiệp Với Trung Quốc
Sau khi lấy được Bắc Hà, vua Gia Long đã cử một sứ đoàn qua Tàu xin cầu phong. Cầm đầu sứ đoàn là Trịnh Hoài Đức. Sứ đoàn này chưa hồi hương thì cuối năm đó 1802, vua Gia Long cử luôn Binh bộ Thượng thư Lê Quang Định sang xin vua Gia Khánh nhà Thanh đổi tên cho nước ta. Năm sau 1802, triều đình Mãn Thanh cho Tổng đốc Quảng Tây sang làm lễ tấn phong cho vua Gia Long và đưa ra hai sắc dụ: một đặt tên nước ta là Việt Nam, một ấn định thể lệ tiến cống từ nay cứ hai năm một lần và cứ 4 năm một lần Việt Nam phái sứ bộ sang làm lễ triều kính. Lễ cống gồm có: ngà voi, sừng tê, lụa vải, gỗ trầm, cau khô. Rồi vua Gia Long thân hành ra Thăng Long để làm lễ thụ phong. Năm sau Gia Long lại cử sứ bộ sang cảm tạ vua Tàu tại Bắc Kinh. Tháng 8 năm 1809, sứ đoàn Việt Nam sang mừng thọ vua Gia Khánh (lúc đó được 50 tuổi). Luôn từ 1813, 1817 và 1819 việc giao dịch giữa Gia Long và nước Tàu được điều hòa, êm đẹp.
10 – Giao Thiệp Với Miên, Lào và Tiêm La:
Gia Long lên ngôi, nước Nam được yên trị, nước Cao Miên tuy mất đất (Thủy Chân Lạp) nhưng vẫn chịu thần phục Việt Nam. Từ lâu đời nước này hay bị người Tiêm quấy rối nên vẫn phải nhờ Việt Nam che chở. Trong thời họ Nguyễn còn đang mắc múi với Tây Sơn, Tiêm La đã định lợi dụng cơ hội để phân chia đất Cao Miên đó là việc đã xảy ra hồi 1779 dưới đời quốc vương Trịnh Quốc Anh (Phya Tak) như trên đã nói.
Thời Tây Sơn còn nắm được miền Nam Việt (1794), Nặc Ấn lưu vong qua Vọng Các rồi được vua Tiêm La cho một đạo quân đưa về nước. Từ ngày đó hai tỉnh Battambang và Angkor nhượng cho Tiêm. Nặc Ấn mất năm 1796. Năm 1802 Miên mới có vua tức là Nặc Ông Chân, con Nặc Ông Ấn. Tuy đã thần phục Tiêm La, Ông Chân vẫn cử sứ đoàn ra chầu vua Gia Long tại Thăng Long. Thế là từ năm 1805 Miên làm triều đình Việt Nam và năm sau lại sang Vọng Các thụ phong. Tiêm không tán thành chính sách nước đôi này nên ngầm xui Nặc Ông Nguyên em Ông Chân nổi loạn. Ông Chân phải chạy sang Việt Nam cầu cứu. Tiêm liền tiến quân đánh thành La Bích và gửi thư cho vua Gia Long nói quân Tiêm vào đất Miên chỉ có ý thu xếp việc của hoàng gia Miên mà thôi. Vua Gia Long làm bộ tin lời vua Tiêm rồi cử Lê Văn Duyệt. Tổng trấn thành Gia Định dẫn 10.000 binh hộ vệ Ông Chân trở về nước: Tiêm và Nặc Ông Nguyên phải rút lui. Để phòng ngừa mầm loạn, Lê Văn Duyệt đặt chế độ bảo hộ trên đất Miên từ đấy và xây thành Nam Vang cùng thành La Lem. Sau đó vua Thế Tổ cử Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân sang trấn giữ xứ này như một thuộc quốc.
Dù sao việc giao thiệp giữa triều Gia Long và Tiêm La vẫn giữ được sự hòa hảo. Từ 1802 trở đi hai bên vẫn có sự sứ bộ qua lại trao đổi tình thân thiện và tặng phẩm.
Tại Ai Lao, Việt và Tiêm cũng đặt ảnh hưởng nhưng không vì thế mà có sự gây lộn. Rồi quốc vương Ai Lao xin thân phục cả Việt lẫn Tiêm. Các rợ Cam Lộ ở các vùng Cao Nguyên hai tỉnh Thanh Nghệ, các dân thượng (Mọi) và Thủy Xá, Hỏa Xá (người Rhadé) cũng có cống phẩm đến để tỏ lòng tuân theo chính quyền của triều Nguyễn.
11 – Bàn Về Loạn Phong Kiến Việt Nam
Các nhà viết sử Pháp xưa và nay khi nói đến vua Gia Long và những trận giặc cuối cùng Tây Sơn và chúa Nguyễn đã không thể ngăn được những tiếng thở dài. Quả vậy, trận giặc này là một cuộc nội tranh, một cuộc xung đột chỉ liên hệ đến quyền lợi giữa hai dòng họ.
Theo ý này chúng tôi, hãy đặt ra vài câu hỏi:
Ngót 300 năm ly loạn từ đời Lê mạt 1527 đến 1802 là năm cuộc nội chiến kết liễu có phải tự người dân dấy loạn hay là tự tại hai họ Trịnh Nguyễn giành nhau ngôi bá chủ mà mở màn cho cảnh núi xương sông máu? Đứng trên lập trường nhân dân, nhà làm sử phải có bổn phận lên án những kẻ gây loạn khiến dân dã điêu đứng lầm than. Ta thử nghĩ: dưới thời Trịnh Giang cũng như dưới thời Võ Vương vì tệ chính đói rét, dịch lệ và giặc giã đã lượm đi quá nửa phần dân số; để theo đuổi chiến tranh Trịnh Nguyễn và Tây Sơn bắt lính cứ 10 người lấy tới ba bốn xuất ở mỗi làng, đám trai tráng này có đi chẳng có về, cuộc thủy chiến tại Thị Nại mấy tao làm chết tới ít nhất năm bảy chục ngàn sinh linh, đó là việc gần, còn kể con số nạn nhân chiến tranh trên khắp các nẻo đường đất nước luôn ba thế kỷ trước ngày bình định (1802) thì rõ rệt hàng triệu con người đã làm cô hồn trên các chiến trường từ Nam ra Bắc.
Như vậy, từ thế kỷ thứ XVI là từ buổi ở Việt Nam bị cái thảm cảnh thiên hạ tam phân (Mạc Trịnh Nguyễn, rồi sau là Tân Nguyễn và Cựu Nguyễn) đến cuối thế kỷ XVIII những vụ loạn ly đó là công hay tội của các ông Chúa phong kiến nước ta? Trong cuốn sách này chúng tôi đặt riêng ra chương “Loạn phong kiến Việt Nam” là do ý nghĩ kể trên để trái lại, chỉ tán thành, chỉ ca ngợi, chỉ hoanh nghênh những trận giặc chống đế quốc, diệt xâm lăng mà thôi. Xương máu của người dân lành đâu có phải là những thứ để xây ngai vàng, nghiệp bá cho những cá nhân, cho những dòng họ!
Nước Việt Nam cũng như dân Việt Nam tự nó trên thực tế đã đồng nhất và bất phân, nhưng có chuyện qua phân, đó là do tham vọng của các nhà chính trị, các người lãnh đạo. Mỗi kẻ năm quyền chúa tể một địa phương, nền thống nhất quốc gia tất nhiên bị tan rã. Thật chẳng khác chi hai võ sĩ đấu gươm trên võ đài, kẻ bại ngã gục, kẻ thắng đứng lại, không còn đối thủ nữa thì kẻ ở lại ca khúc khải hoàn, có gì lạ! dĩ nhiên quốc gia lại thống nhất. Riêng giữa hai họ Tân Nguyễn, Cựu Nguyễn, đồng ý với các sử gia Pháp, chúng tôi nghĩ rằng Việt Nam đã thống nhất dưới thời Tây Sơn bởi khi nhà Tây Sơn toàn thắng (1788), Nhạc làm Trung Ương Hoàng Đế, Huệ làm Bắc Bình Vương, Lữ làm Đông Định Vương, chúa Nguyễn Ánh lưu vong hải ngoại, ai đừng bảo khi đó Việt Nam không thống nhất? Sau này nhà Tây Sơn bị diệt, còn lại chúa Ánh, ai chia xẻ nước Việt Nam nữa mà chẳng thống nhất?
Còn việc mở rộng cương vực miền Nam tới đất Hà Tiên, sát Vịnh Tiêm La cũng là một sự kiện tất nhiên của Lịch sử. Trịnh nắm được toàn cõi Việt Nam từ Linh Giang ra tới Cao Bằng. Nguyễn không khuếch trương thế lực thì tranh giành với Trịnh sao được. Huống hồ Nguyễn ở cạnh Chiêm Thành, một dân tộc đang bị hao mòn suy nhược do ảnh hưởng của nhiều chiến cuộc với nhà Hậu Lê xưa kia, không mở đất về phương Nam chẳng hoài lắm ru! Và còn đợi cơ hội nào khi mà Nguyễn đang cần có một cái vốn để chạy đua với miền Bắc? Ngoài ra cũng đừng quên rằng trong việc bành trước cương thổ vào vùng Đồng Nai, chính người dân cày của chúng ta đã gây được nhiều thành tích. Một phần lớn những người dân ấy đã tự động vượt biển hay tràn qua đất Chiêm vào khẩn hoang tại Biên Hòa, Bà Rịa, Gia Định do đó ta có thể nói rằng chính họ đã viết nhiều trên những trang sử Nam tiến của dân tộc chúng ta.
12 – Vài Ý Kiến Về Vua Gia Long
Ở vua Gia Long, từ con người quân nhân đến con người chính trị có nhiều điểm khác biệt khiến ta phải coi vua Gia Long cũng là một nhân vật kỳ kiệt của Lịch Sử trên nhiều phương diện. Nhân vật này có nhiều điều hay cũng như có nhiều điều dở.
Chiếu theo cỗi rễ thì Gia Long thuộc về một dòng họ có nhiều danh tướng, giàu mưu cơ, đởm lược, nhẫn nại, cần cù, thông minh, trác lạc nhờ vậy mà trong thời trung suy, Nguyễn Ánh mới 17 đã cầm đầu được binh tướng, nắm vững được lòng dân, bốn phen vinh nhục ở đất Gia Định, nhiều tao siêu bạt ngoài khơi, trôi dạt cả vào đất Tiêm, nương nhờ triều đình Vọng Các có lúc phải hy sinh cả tính mạng (trừ giặc Miên và Mã Lai cho Tiêm) để mua thiện cảm của người hòng có chỗ nương thân. Trên 20 năm ròng, vua Gia Long xông xáo khắp các chiến trường từ vùng Đông Nai ra Thuận Hóa, vượt biển trèo non trong vòng khói lửa mịt mùng mà vẫn không bao giờ lui bước, con người ấy thật đáng là một chiến sĩ. Trước điểm này ta không thể không vỗ tay khen ngợi Thế Tổ nhà Nguyễn.
Về chính trị, khi sức cùng lực tận, Gia Long đã cho Giám mục Bá Đa Lộc đem con đi cầu cứu nước Pháp rồi luôn luôn giao thiệp khéo léo với các lân bang để lấy ngoại viện, nhờ đó chẳng những người Âu Châu mà cả các quân Tiêm, Miên, Lào thường qua lại đánh Tây Sơn giúp mình. Ngoại giao đến thế là khéo léo tuy rằng mang người ngoài về đánh anh em nhà là làm một hành động không đẹp nếu so với việc 12 sứ quân trên tám thế kỷ trước. Nhưng đến khi sự nghiệp đã thành, ngôi quốc chủ đã vững. Gia Long thay đổi luôn thái độ, lên tiếng kẻ cả với Tiêm, đặt Miên và Lào vào vòng lệ thuộc. Tiến thoái, kinh quyền đến thế quả thật là mau lẹ, quỷ quyệt…Tuy vậy vua Gia Long có ít nhiều sở đoản:
Các cộng sự viên người Pháp đã chê Thế Tổ ở điểm khi đang chiến tranh, ngài đã quá cẩn thận nên hay do dự, nếu biết đánh dân Tây Sơn đang lúc đại thần, tướng lĩnh của họ chia rẽ thì ngày vinh quang của nhà vua còn sớm hơn nhiều.
Đối với các cộng thần, vì hay nghe lời sàm tấu Gia Long đã có khí quá bạc bẽo và tàn nhẫn, vì vậy Đỗ Thành Nhân, Lê Văn Cầu, Nguyễn Văn Thanh, Đặng Trấn Thường là những kẻ đã theo phò Nguyễn chúa từ lúc gian nan đều bị bất đắc kỳ tử. Đời Lê còn có trường hợp “Bát nghị”; Nguyễn triều với bộ luật của nhà Thanh y sao chính bản, chẳng nương nhẹ cho ai dầu kẻ đó đã có nhiều công lao hãn mã. Dến Minh Mạng, nắm xương khô của Lê Văn Duyệt và Lê Chất cũng không khỏi xiềng xích, và họ tội tình gì cho cam!
Khi suy bĩ, Gia Long biết cầu cứu nước Pháp, đã mục kích được dã tâm đế quốc của Liệt cường Tây Phương trước thời của ngài và cả trong thời ngài, vậy mà không tìm nổi một kế sách giữ nước cho khỏi “Bạch họa”, chỉ biết “bế quan tỏa cảng”, các triều đại kế tiếp cũng chẳng sáng suốt hơn làm gì mà không mất nước.
Đặt quốc đô ở Phú Xuân là một mảnh đất gầy, dân thưa, của ít về phương diện quân sự nơi này là một vị trí chiến lược bất lợi về cả thủy lẫn bộ. Trái lại Bắc Hà là cội rễ của dân tộc, nói gần là từ hai chục thế kỷ trở về đây ruộng đất phù nhiêu, dân cư đông đảo, anh hùng hào kiệt đời nào cũng sẵn chống xâm lăng nhiều phen như trúc chẻ, ngói tan. Vậy mà vua Gia Long bỏ thật là uổng. Phải chăng Gia Long đã e ngại những uy tín còn xót lại của hai họ Lê Trịnh, nhưng nếu đủ tài thi thố ân suy thì mình là thái dương mà các triều đại đã qua chỉ là những ngọn lửa tàn, đâu đáng sợ! Sau này Bắc Hà ly loạn liên miên, lòng dân khảng tảng vì triều đình ở quá xa rồi 50 năm sau giặc Pháp tiến vào nội địa của ta, hàng vạn quân của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết không chống nổi mấy chiếc tàu, vài trăm lính của Francis Garnier, H. Rivière và De Courcy. Đấy chẳng là sự vụng tính của vua Gia Long vì đã bỏ gốc lấy ngọn đó sao?
Còn về các qui mô lập quốc, ta thấy vua Gia Long cũng làm đủ mọi việc, tỏ được sự siêng năng, cần mẫn nhưng không có gì đặc biệt hơn các triều đại trước.
Thế Tổ mất năm Kỷ Mão (1819) ở ngôi được 18 năm, thọ 59 tuổi, miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế.
II – THÁNH TỔ (1820 – 1840)- Việc nội trị
- Các vụ phiến loạn
- Việc ngoại giao
- Việc Ai Lao
- Việc Chân Lạp
- Việc cấm đạo
1 – Hoàn Thiện Bộ Máy Chánh Quyền:
Tháng giêng năm 1820, lên kế vị vua Thế Tổ là Hoàng Tử Đởm, niên hiệu là Minh Mạng. Bấy giờ, Ngài đã 29 tuổi lại sẵn óc thông minh, ham nghiên cứu việc triều chính, am hiểu văn học nên tới khi ra cầm quyền, có thể nói vua Minh Mạng không có chút gì bỡ ngỡ.
Ngài là một ông vua rất hoạt động nên trong 20 năm trị vì, Ngài đã làm được rất nhiều việc và trong đời Ngài cũng đã xảy rất nhiều điều quan trọng.
Ngài đặt thêm ra các tự, các viện. Hai cơ quan trọng yếu nhất là Nội các và Cơ mật viện. Trước đây vào hồi vua Thế Tổ đã có Thị Thư Viện coi các biểu, sách, chế, cáo, chương, tấu, sắc, mệnh…Năm 1820, nhà vua đổi ra Văn Thư Phòng và năm sau ra Nội các, lấy các quan Tam Tứ Phẩm vào giúp việc.
Năm 1834, do nhiều việc quan trọng, cơ yếu, Ngài đặt ra Cơ Mật viện lấy các đại thần vào làm nhân viên.
NĂm 1836, Ngài lập Tôn Nhân phủ. Cơ quan này trông coi mọi việc trong họ nhà vua cho có trật tự tôn ty và cấp dưỡng cho kẻ cơ ấu, giúp đỡ việc hiếu hỷ.
Quan chế được đặt từ Nhất Phẩm cho đến Cửu Phẩm, mỗi phẩm có 2 trật cho 2 ban văn võ, đặt các chức Tuần phủ, Bố Chính, Án sát, Lãnh binh…ở các tỉnh (Minh Mạng thứ 20), các chức vị quan lại này còn tồn tại đến sau này và thay thế cho chế độ Tổng Trấn, Trấn Thủ, Lưu Trấn kể từ Minh Mạng thứ 12 theo lối nhà Thanh.
Để tránh nạn tham nhũng. Ngài phát cho quan lại hàng năm một số tiền dưỡng liêm tùy theo đẳng cấp.
2 – Việc Học Hành Thi Cử:
Vua Minh Mạng rất chú trọng vào việc văn học để lấy nhân tài vào việc trị nước an dân. Ngài mở Quốc Tử Giám và cấp lương bổng cho các giám sinh.
Về tiền triều chỉ có thi Hương, sáu năm mới có một kỳ thi, nay đổi làm 3 năm một khoa, cứ năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thi Hương; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi Hội, thi Đình.
Hai khoa thi này mở ra để lấy Tiến sĩ, đến năm Minh Mạng thứ 10 (1829), nhà vua lấy thêm Phó Bảng ở những người trúng cách.
Vua Minh Mạng có một quan niệm rất sáng suốt về việc học. Ngài thấy lối học cử nghiệp chỉ chuyên về thi phú phù phiếm để thi lấy đỗ chứ không thể có một thực học là một lối học đi tới chỗ thấu đáo nhân tình, am hiểu việc đời một cách thực tế để mở mang xã hội, nâng cao trình độ dân sinh. Cái học từ chương cử nghiệp, than ôi, đến nay vẫn còn là một điều mà trong xã hội Việt Nam còn nhiều người hamchuộng. Kể cũng đáng buồn thay!
Ngài có lần đã nói:
“Lâu nay cái học khoa cử làm cho người ta sai lầm, Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay những văn cử - nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại”.
Tiếc rằng biết điều này là một cái bệnh nguy hại cho sự tiến hóa của dân tộc, Ngài muốn canh cải nhưng lại không biết canh cải ra sao. Triều thần của Ngài lại phần nhiều chỉ là những hủ nho lạc hậu, nên không giúp đỡ được Ngài kế hoạch nào cho quốc phú dân cường. Sự thực nếu là cái cổ học thì cổ học không lầm bởi nó cũng rất vụ thực. Trái lại từ đời Đường cái học vụ thực suy tàn để trở nên cái học huấn hỗ, cái học tầm chương trích cú, chỉ lo việc khoa cử hơn là lo việc thiết yếu cho thiên hạ. Tóm lại cái học nghĩa lý đã mất, cái học mà Trình Tử đã nói ở câu: Phong chi tác dĩ lục hợp, quyển chitawcs thoát tăng ư mật kỳ vị vô cùng giai thực học dã (Phóng ra thì đầy cả vũ trụ, thu vào thì náu ẩn ở thâm tâm; Ý vị của nó vô cùng xác đáng nhưng người Tàu lầm mà ta cũng lầm theo).
Sau này Phan Tây Hồ trong bài phú Lương Ngọc Tất Danh Sơn đã phải than dài:
- Đời chuộng văn chương, người tham khoa mục.
- Đại cô, tiểu cô, suốt tháng dùi mài.
- Ngũ ngôn, thất ngôn, quanh năm lăn lóc.
- Ngóng hơi thở của quan trường để làm văn sách.
- Chích có thể phải, mà Thuấn có thể sai.
- Nhặt dãi thừa của người Tàu để làm từ phú.
- Biền thì phải tứ, Ngẫu thì phải lục.
- Tíu tít những phường danh lợi.
- Chợ Tề chực đánh cắp vàng.
- Lơ thơ bao kẻ hiền tài, sân Sở luống buồn dâng ngọc.
- Ấy chẳng riêng gì kẻ vị thân gia, tham vì lợi lộc.
- Mà đến cả mấy kẻ quần chùng áo rộng trong một nước.
- Lùa vào mấy ngàn vạn nơi hắc ám địa ngục…
3 – Sách Vở
Ngài chăm lo văn hóa, khích lệ việc tu thư bằng những sự ban thưởng, cho nên vào thời Ngài nhiều sách có giá trị được ra đời.
1) Gia Định thống chí
2) Minh bột di hoán văn thảo của Trịnh Hoài Đức
3) Bản triều ngọc phả và 2 bản Ký sự của Hoàng Công Tào
4) Khai quốc công nghiệp điển chí (7 quyển) của Cung Văn Hi
5) Minh lương khải cáo lục của Nguyễn Đình Chính (34 quyển).
6) Cố sự biên lục của Vũ Văn Bưu
7) Khâm Định tiểu bình lưỡng kỳ phỉ khấu phương lược
8) Ngự chế thi tập … (2 cuốn sách này do các quan họp lại cùng soạn)
Ngoài ra, Ngài còn giải quyết được nhiều việc khác không kém phần quan trọng như sửa đổi phong tục vì trải bao nhiêu thời loạn ly, trật tự xã hội đổ nát, nhân tâm đồi bại. Ngài lập ra 10 điều răn bảo dân chúng để gây lại tinh thần luân lý của trăm họ. Ngài cho dựng nhà dưỡng tế để nuôi những người tàn tật, cô độc.
Việc dinh điền cũng có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn. Ruộng đất ở Nam Việt được đo đạc lại, tính ra được 630.075 mẫu. Tổng số đinh toàn quốc là 970.516 xuất và 4.063.892 mẫu ruộng, đất.
Người Tàu sang làm ăn khai khẩn cũng được đối đãi tử tế. Đồng niên mỗi người phải nộp hai lạng bạc. Những người lão hạng và tàn tật chỉ phải chịu một nửa. Việc võ bị cũng được Ngài lưu ý rất nhiều: lập đồn ải, pháo đài ở các nơi hiểm yếu. Binh chế có thủy binh chia ra từng Cơ, Đội, Vệ, Doanh. Tiếc rằng việc binh bị thiếu người chuyên môn và có năng lực, lại thêm vào thời đó có quan niệm trọng văn khinh võ gây nhiều ảnh hưởng tai hại nên tuy nhà vua luôn luôn ra lệnh và khuyến khích, việc này chẳng tiến được là bao mà mỗi ngày còn suy nhược thêm nữa.
4 – Những Cuộc Phiến Loạn
Những cuộc phiến loạn xảy ra dưới thời vua Minh Mệnh suốt Trung, Nam, Bắc, kể từ năm 1822 đã do nhiều nguyên nhân:
A) Về phía ngoại bang, nước Tiêm la vẫn giữ thái độ hằn học về vấn đề Chân Lạp (chúng ta đã thấy ở trên đây) nên ngoài mặt tuy êm dịu nhưng bên trong Tiêm La vẫn tìm cơ hội để quấy rối Việt Nam.
B) Ngoài Bắc, một phần nhân tâm còn luyến tiếc Lê triều, vẫn chờ dịp nổi lên chống lại nhà Nguyễn và để khôi phục lại dòng họ Lê.
C) Bọn quan lại hay nhũng nhiễu dân chúng, dèm pha nhau, tang công, nịnh hót mà nhà vua lại thường không minh, nhất là đối với kẻ công thần. Nhiều người trung lương đâm ra chán nản, trái lại phe gian nịnh nảy nở mỗi ngày một nhiều, nước tất nhiên phải sinh loạn do đó ngoại quốc mới dám nhòm ngó vào.
Những vụ phiến loạn quan trọng đánh kể là vụ Phan Bá Vành khởi sự ở Nam Đinh, Lê Duy Lương ở Ninh Bình và Nông Văn Vân ở Tuyên Quang (vụ Phan Bá Vành xảy vào năm 1826 đã làm cho quan quân của triều đình tổn hại rất nhiều, đến năm 1827 Nguyễn Công Trứ lúc đó làm Tham Biện được cử đi dẹp mới yên). Vụ Lê Duy Lương phát sinh vào 1832, tức là năm Minh Mệnh XIII ở Ninh Bình. Lê Duy Lương là con cháu nhà Lê cũng dấy động với các thổ tù là Quách Tất Công, Quách Tất Tế và Đinh Thế Đức… Vua Thánh Tổ huy động Tổng Đốc Nghệ Tĩnh là Tạ Quang Cự đem quân ra Ninh Bình cùng với Tổng Đốc Thanh Hóa là Nguyễn Văn Trọng đi đánh, sau vài tháng Lê Duy Lương bị bắt giải về Kinh trị tội và tất cả con cháu Lê bị đày ra Quảng Nam, Bình Định. Biên pháp này tỏ rằng chính sách “Phù Lê” đã chấm dứt.
Vụ Nông Văn Vân và Lê Văn Khôi
Việc Lê Duy Lương ngoài Bắc Hà chưa yên hẳn thì trong Nam Việt bấy giờ có Lê Văn Khôi cũng chống lại triều đình. Vì Khôi là người Bắc và có anh em họ hàng ở Tuyên Quang nên có lệnh cho bắt các thân nhân của Khôi. Nông Văn Vân là anh vợ Khôi và là Tri Châu Bảo Lạc hồi đó hoảng sợ liền chiêu tập đồ đảng nổi lên cướp phá Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn từ tháng 7 năm 1833 cho đến tháng 3 năm 1835 làm quan quân đã tổn phí rất nhiều. Dự vào việc tiểu trừ Nông Văn Vân có Sơn-Hưng-Tuyên Tổng Đốc Lê Văn Đức làm Tam Tuyên Tổng Quân Vụ, Hải An Tổng Đốc là Nguyễn Công Trứ làm Tham Tán và Ninh Thái Tổng Đốc Nguyễn Đình Phổ. Các tỉnh Thượng du hồi đó bị quân giặc vây hãm kịch liệt. Họ nhờ được thế rừng núi hiểm trở và lại thông thuộc các miền này, nên quan quân phải chật vật vô cùng mới dẹp xong.
Theo Việt Nam Sử Lược từ khi ông Lê Văn Duyệt mất đi, đất Nam Việt tuy là nơi lập nghiệp của nhà Nguyễn mà lại xảy ra nhiều sự rối ren là vì vua Thánh Tổ thiếu sự rộng lượng đối với các cựu thần (trên đây chúng tôi đã nói qua về các vị đó) lại nghe bọn xu nịnh nên dân sự bí áp bức quá nhiều. Vụ án Lê Văn Duyệt đáng lẽ yên rồi thì Bạch Xuân Nguyên ra làm Bố Chánh Gia Định (bâu giờ là thành Phan An) nói rằng phụng mật chỉ truy xét thêm về Tả Quân Lê Văn Duyệt. Lê Văn Khôi tuy là con nuôi của Lê Văn Duyệt nhưng vẫn bị nghi ngờ sẽ có phản ứng nên người ta bắt giam Khôi liền. Hành động này đã khiến cho Khôi nảy ý làm loạn. Đêm 18-5 năm 1833 tức Minh Mệnh XIV, Lê Văn Khôi thông với các đồng đảng cùng một số tù nhân người Bắc trong lao và một số cũng ở trong trại gian hoặc ở bên ngoài được làm ăn như dân sự hay bị bắt làm lính hồi hương (27 người) phá ngục vào dinh Bố Chánh Bạch Xuân Nguyên và giết cả nhà. Tổng Đốc Nguyễn Văn Quế đem quân đến cứu cũng bị giết. Còn các quan khác như Án Sát. Lãnh Binh đều bỏ chạy cả chẳng bao lâu quân đội trong thành Phan An đều theo Khôi hết. Khôi bèn thiết lập các chức vị cho đảng viên, rồi tự phong cho mình làm Đại Nguyên Soái, lập triều đình riêng một góc trời. Sau đó Khôi cho đi đánh phá các nơi, chỉ trong một tháng, sáu tỉnh miền Nam lọt cả vào tay Khôi. Trong dịp này Khôi lấy danh nghĩa tôn phù một người con của Hoàng Tử Cảnh mất năm 1801. Vị Vương tôn đó bấy giờ đang ở Huế.
Nghe tin này vua Minh Mệnh cho giết ngay con cháu và chị dâu để bọn Khôi hết đường lợi dụng.
Triều đình phái Tống Phúc Lương làm Thảo Nghịch Tướng quân và Nguyễn Xuân làm Tham Tán Quân Vụ cùng nhiều tướng ta đem quân thủy bộ vào đánh Khôi.
Trung quân của Khôi là Thái Công Triều trước kia là vệ úy người ở Thừa Thiên, coi về biền binh đóng ở Gia Định, khi Khôi dấy động liền theo Khôi nay thấy quân đội của Triều đình tới lại phản Khôi trở về với Triều đình.
Lê Văn Khôi đại bại ở nhiều nơi, sau chỉ cố thủ ở thành Phan An và cho người đi cầu cứu quân Tiêm La. Tiêm La liền đưa sang giúp Khôi 5 đạo quân, chia đường thủy bộ tiến vào Việt Nam. Đạo thứ nhất là 100 chiến thuyền vào Hà Tiên, đạo thứ hai là lục quân đánh Nam Vang (Pnom Pênh) mục đích chiếm Châu Đốc và An Giang, đạo quân thứ ba đánh Cam Lộ, đạo thứ tư đánh Cam Cát, đạo thứ năm đánh Trấn Ninh.
Chủ đích của Tiêm La tất nhiên không phải là đến giúp Khôi mà nhân cơ hội này cướp đất Chân Lạp và Nam Kỳ, họ tung quân ra đánh nhiều nơi để phân tán lực lượng của Việt Nam.
Triều đình ta liền huy đông ngay quân lực để đối phó, Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân được lệnh giữ mặt An Giang về phía Tây Nam đánh đuổi được Tiêm ra khỏi bờ cõi. Việc này khởi từ tháng giâng năm Giáp Ngọ (1834) đến tháng năm thì kết liễu.
5 – Việc Ngoại Giao Với Người Pháp
Vua Minh Mệnh không có cảm tình với người Pháp, điều này xét ra thuở đó cũng là một thái độ chung của người Á Đông đã coi người Âu Châu là bọn man di, là quân xâm lược.
Ngài đã không ưa người ngoại quốc vì lý do chính trị, lại không thích cả tôn giáo của Âu Châu, một thứ tôn giáo cách mạng mà nhiều vua chúa La Mã xưa kia đã kịch liệt đả phá. Ngài đã quyết liệt trong việc giết đạo, cấm đạo do đso nhiều giáo sĩ đã đặt cho vua Minh Mệnh biệt hiệu là “Néron Việt Nam”. Với cộng sự viên người Pháp, Ngài cũng có ý lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại Việt Nam, tuy các lễ vật được thâu nhận vui vẻ nhưng bọn ông không được trọng dụng nữa. Rồi nhà vua cho Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước giữa hai chính phủ, người Việt Nam vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ.
Tóm lại vua Minh Mệnh chỉ thỏa thuận mua bán với người Pháp nhưng không chấp nhận xây dựng cuộc bang giao chính thức với nước Pháp, nên quốc thư của Pháp đình xin đặt Chaigneau làm Lãnh Sự Pháp ở Việt Nam không được đếm xỉa đến.
Năm 1822, tàu Cléopâtre đến Tourance; mặc dầu có sự can thiệp cảu Chaigneau tàu này cũng không được đổ bộ. Hai năm sau một thương thuyền khác bị quan ta làm khó dễ. Rồi ông Bougainville đén với tàu Thétis và L’Espérance ngạc nhiên là Chaigneau đã rời khỏi đất Việt[5].
Vua Minh Mệnh không tiếp lấy cớ rằng ở đây không ai hiểu tiếng Pháp nên quốc thư của Pháp không phiên dịch nổi. Sự thực lúc này thiếu gì giáo sĩ Pháp đang truyền giáo ở Việt Nam để làm công chuyện đó cho triều đình của Ngài.
Tuy vậy cuộc giao thiệp giữa ta và Pháp không gián đoạn ngay sau khi hai ông Vannier và Chaigneau về Pháp. Người Pháp vẫn cố chấp nối lại mối liên lạc. Năm sau (1826) cháu Chaigneau là Eugène Chaigneau còn trở qua Việt Nam nhưng cũng không lượm được kết quả gì tốt đẹp, năm 1829 ông này phải bỏ về nước.
Xét ra các vua đầu tiên của nhà Nguyễn đã thấy cái Bạch họa lan tràn từ thế kỷ XVII và XVIII ở khắp Á Châu nên không muốn giao dịch với nước Tây Phương nào hết. Vua Gia Long đối xử tốt với người Pháp chỉ vì hàm ơn một số người Pháp đã giúp mình xưa kia nhưng trong thâm tâm vẫn có sự e dè. Đến đời Minh Mệnh thì người ta coi rằng không cần nể vì người Pháp nữa và không liên lạc mật thiết với Pháp càng khỏi gặp nhiều điều khó khăn phiền phức với các cường quốc Âu Châu khác.
6 – Việc Ai Lao và Chân Lạp
A-Năm Minh Mệnh thứ VIII (1827), Tiêm La đánh Vạn Tượng, Quốc Vương xứ này là A Nộ chống không nổi phải sang cầu cứu triều đình Việt Nam. Vua Thánh Tổ cho Thống Chế Phan Văn Thúy làm Kinh Lược Biên Soạn Đại Thần mang viện quân theo đường Qui Hợp và Lạc Phàm sang giúp. Việc xuất binh này bị thất bại.
A Nộ phải theo quân ta về Nghệ An đợi thu xếp quân sĩ xong sẽ đánh báo thù. Năm sau (1828) A Nộ chiêu mộ được quân Lào liền xin quan quân của ta hợp sức. Phan Văn Thúy và Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào được lệnh vua Thánh Tổ đem 3000 quân và 24 con voi đưa A Nộ về Trấn Ninh, rồi tiến vào Vạn Tượng (Vientiane). Đạo quân của ta và A Nộ lại bị thua phải xin viện binh Nghệ An. Vua Thánh Tổ chán việc này hạ lệnh bãi bỏ và chỉ phòng về các địa điểm biên giới mà thôi. Sau A Nộ chạy về Trấn Ninh bị thủ lĩnh Chiêu Nội bắt nộp cho Tiêm La.
Quân Tiêm được dà đánh dấn vào cá miền phụ cận Quảng Trị. Thống Chế Phạm Văn Điển và Tham Tán Quân Vụ Lê Đăng Doanh cùng với các đạo quân ở Lào phải đi ngăn giặc, đằng khác gửi thư cho Tiêm La để trách cứ. Tiêm La trả lời khiêm nhượng rồi rút quân về. Tuy vậy Tiêm vẫn bí mật dung túng người Chân Lạp nổi lên chống lại chính quyền của ta hoặc hà hiếp Vạn Tượng và các xứ quy phụ triều đình Việt Nam. Rồi cuối năm Quí Tỵ (1833), Tiêm lai lợi dụng lời kêu gọi của Lê Văn Khôi mang quân vào nội địa Nam Hà và Chân Lạp như trên đã nói. Tóm lại Tiêm La từ khi mất quyền bảo hộ ở Chân Lạp vẫn hằn học với Việt Nam, lúc không sinh sự được với ta thì lại quay ra quấy rối Ai Lao và Chân Lạp, hoặc khi thấy có biến cố xảy ra trên đất Việt Nam liền nắm ngay cơ hội để xâm lấn.
Xin nhắc rằng dưới đời Thánh Tổ nhiều xứ nhỏ thuộc về Ai Lao và ở sát đất nước ta cũng xin quy phục như đất Lạc Phàm, Tam Động (hai xứ này được triều đình của ta đổi làm hai phủ), Xa Hổ, Sầm Tộ (Sam- Teu), Mường Soạn, Mang Lan (Mường Lam), Trình Cố (Xiêng-Khô), Sầm Nứa (Sam-Neua), Mường Duy, Cam Cát (Kham-Keut) ở Ngọc Ma, Cam Môn và Cam Linh (các xứ này hợp thành ba phủ Trấn Biên, Trấn Định và Trấn Man). Phủ Trấn Biên chia ra làm 4 huyện, còn hai phủ Trấn Định và Trấn Man chia mỗi phủ làm 3 huyện.
Ở Cam Lộ thuộc Quảng Trị, các dân Mường, Mang Vang, Ná Bí, Thượng Kế, Tả Bang, Xương Thịnh, Tầm Bồn, Ba Lan, Mang Bổng, Lang Thời cũng xin nội thuộc và được chia ra làm 9 châu theo lệ triều cống. Có thể nói rằng đất Sầm Nứa, Trấn Ninh, Cam Môn và Savanhaket bấy giờ đã thuộc về Việt Nam dưới đời Thánh Tổ và nước ta bấy giờ kể cả các xứ nội phụ rộng lớn hơn bao giờ hết. Việc lệ thuộc của các xứ kể trên đã được ghi vào năm Đinh Hợi (1827) do ý muốn tránh sự quấy nhiễu của Tiêm La và được sự che chở của triều đình Việt Nam.
A- Cuối năm 1834 vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân qua đời không có con trai kế tự, quan phụ trách việc bảo hộ Chân Lạp là Trương Minh Giảng liền đặt em gái Nặc Ông Chân là Ang Mey lên làm Quận Chúa gọi là Ngọc Vân Công Chúa. Việc này được sắp đặt vào đầu năm Ất Vị (1835) rồi Chân Lạp được đổi ra Trấn Tây thành chia làm 32 phủ và 2 huyện. Trông nom việc quân dân xứ này trên có một Tham Tán Đại Thần, một Đề Đốc, một Hiệp Tán và dưới có bốn chánh – phó lãnh binh.
Năm Canh Tý (1840) Lê Văn Đức làm Khâm Sai Đại Thần và Doãn Uẩn làm phó cùng Trương Minh Giảng sang khám xét việc buôn bán, đặt các thứ thuế đinh, điền, đò giang, sản vật.
Sau này quan lại Việt Nam làm nhiều điều càn rở, lại bắt cả Ngọc vân công chúa đem về Gia Định cùng đày bọn quan Chân Lpaj là La Kiên, Trà Long ra Bắc Kỳ nên dân Chân Lạp bất mãn nổi lên đánh phá, Tiêm La lợi dụng dịp này giúp em Nặc Ông Chân là Ông Đôn khởi nghĩa, quan quân của ta dẹp mãi không xong. Tới khi vua Thánh Tổ mất (1840) thì các nhà cầm quyền của ta ở Trấn Tây thàh phải rút về hết.
7 – Việc Cấm Đạo
Buổi đầu vua Minh Mệnh mới lên ngôi, Ngài chưa có áp dụng ngay chính sách sắt máu với các đạo trưởng Tây phương và các tín đồ Thiên Chúa, nhưng dần dà triều đình Việt Nam thấy người Pháp đến Việt Nam có một thái độ ương ngạnh, tàu buôn Pháp thỉnh thoảng lại đổ bộ bí mật một số giáo sĩ vào nội địa mặc dầu người Pháp đã biết rõ chính quyền Việt Nam không ưa đạo này. Tỉ dụ năm Ất Dậu (1825) tàu Thétis vào cửa Hàn đã đem giáo sĩ Logerot tới một cách lén lút. Nếu ngược dùng lịch sử mà nói thì việc này chẳng phải là lần đầu. Các quan Việt Nam khám xét ráo riết mà vẫn không xiếtđược. Ngoài ra nhà vua đã ban nhiều đạo dụ để khuyên nhủ và nghiêm cấm dân chúng, còn với các giáo sĩ, Ngài cho mời về Huế để dịch các sách Tây ra tiếng Việt, thực ra chỉ để ngăn cản việc giảng kinh Phúc Âm mà thôi. Mọi phương sách rốt cuộc đều vô hiệu, rồi chính quyền Việt Nam dầu muốn dầu không đã phải đi đến chỗ quyết liệt. Đạo dụ cuối cùng tuyên bố xử tử hình những ai vi phạm lệnh và cả những ai chưa chấp giáo sĩ cũng như giáo dân. Năm ấy một giáo sĩ đã bị bắt và bị xử giáo, quân quan lục lạo khắp nơi, đốt nhà thờ, bắt giáo sĩ và quân dân gần như loạn. Ngoài Bắc nổi lên nhiều phong trào chống nhà Nguyễn, tất nhiên có một số giáo dân dự vào các vụ phiến động này. Trong vụ đánh thành Phiên An, người ta bắt được Cố Du (P. Marchand, giáo sĩ này bị tra tấn rất nhiều nhưng vẫn không nhận có giúp Lê Văn Khôi) việc giết đạo từ đó (1834-1838) lại càng dữ dội hơn trước, nhưng sắt và máu của nhà vua chỉ làm cho các giáo dân say mê thêm đạo Thiên Chúa. Người Công Giáo cho rằng chết vì đạo là “chết vì Chúa” và sẽ được lên nước Thiên Đàng để hưởng hạnh phúc vô tận bên cạnh Chúa Trời.
Vua Minh Mệnh thấy mọi việc cấm đoán, giết choc không có kết quả phải cử một sứ đoàn sang điều đình với chính phủ Pháp. Sứ đoàn tới nơi nhưng bị Hội Truyền Giáo Ngoại Quốc xin Pháp Hoàng Louis Philippe đừng tiếp. Phá đoàn đành ra về, đến nước nhà thì vua Minh Mệnh đã mất. Rồi việc cấm đạo vẫn cứ tiếp tục mà việc truyền đạo, theo đạo cũng vẫn không ngừng, sau này Pháp chiems được nước Việt Nam (cuối thế kỷ XIX) đạo Thiên Chúa mới chấm dứt được những trang th