← Quay lại trang sách

Chương 4

Trăng sáng đến mức soi rõ cả bóng của Hằng và Hạ trên đường đi vào cổng tiểu đảo Đầm Sen. Trăng dát ánh vàng trên những tán lá và con đường đất đỏ, trăng lung linh óng ánh trên mặt hồ. Những con thiên nga - Ôi, lại những con thiên nga! - tối sẫm lượn lờ trên mặt nước lấp lánh ánh vàng ấy, làm Hạ chợt quay quắt nhớ lại ngày nào với Long ở Văn Thánh. Đôi mắt to đen buồn buồn của Long lại hiện ra trước mắt cô, nặng trĩu một nỗi niềm không sao bày tỏ...

Chuyện đáng buồn ở lớp 12A2 đã qua, nhưng không hề được quên trong tâm khảm mọi người. Cô hiệu phó tạm thời xuống dạy thay thầy Tùng, trong khi chờ Sở điều về một giáo sư Vật lý mới. Cô rất cố gắng, nhưng vẫn không sao lấp được khoảng trống thầy Tùng để lại. Giờ Vật lý trở nên nặng nề, khô cứng, và giá trị của người thầy đã vắng mặt càng thêm lấp lánh.

Ngôn đã vào lớp học trở lại, nhưng hầu như bị cô lập hẳn. Nhóm Bốn Mùa xem như tan rã. Không khí trong lớp chùng lại như sau một đám tang. Công việc của Minh trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Chi đoàn lớp họp và chính thức phản đối việc xử lý kỷ luật quá nhẹ với Ngôn, từ đó đã đưa đến việc thầy Tùng phải bỏ dạy. Nhiều học sinh tỏ thái độ bất mãn và mất niềm tin với Ban giám hiệu qua việc xử lý này.

Có lần, Hằng đã nói chuyện riêng với Minh:

- Thưa thầy, nếu Ngôn không phải là con của giám đốc ngân hàng quận thì đã bị đuổi học rồi phải không?

Minh tìm cách tránh né:

- Xin em hiểu cho Ban giám hiệu đã phải quyết định dựa trên rất nhiều yếu tố, trong đó có cả yếu tố tạo điều kiện cho Ngôn sửa đổi trong năm học cuối cùng của bậc phổ thông. Nếu đuổi học em ấy thì coi như con đường vào đời sẽ bị cắt ngang. Cũng có yếu tố chiếu cố vì ba mẹ Ngôn đi làm suốt ngày, không có thời gian chăm sóc con cái...

Hằng nhìn thẳng vào mắt Minh bằng một ánh mắt trong veo - Minh vẫn sợ cái nhìn ấy:

- Nhưng không đuổi học thì ít ra cũng phải cảnh cáo và buộc Ngôn xin lỗi thầy Tùng, đồng thời Ban giám hiệu phải bằng mọi cách giữ thầy Tùng lại chứ? Thầy là chủ nhiệm lớp tụi em, không biết thầy đã làm gì...

Làm gì? Minh đang phấn đấu để trở thành giáo viên phụ trách cả khối 12. Anh cũng vừa được kết nạp Đảng, đang trong thời kì dự bị. Làm sao anh dám làm gì trái với tinh thần của Ban giám hiệu? Nhưng làm sao anh dám xác nhận điều đó với Hằng?

Minh thở dài, vờ cúi mặt:

- Thầy cũng đã có ý kiến với Ban giám hiệu đó chứ...

Hằng tiếp tục truy thầy:

- Thầy có ý kiến thế nào?

- Thì cũng như em vừa nói, phải có kỷ luật thích đáng hơn với Ngôn, và phải tìm cách giữ thầy Tùng ở lại...

Cả hai cùng im lặng, rồi Minh cố lấy giọng thật tự nhiên:

- Thứ bảy tới, ở công viên Đầm Sen sẽ có một đêm thơ giới thiệu các nhà thơ trẻ, trong đó có thầy. Thầy có một ít vé mời và muốn mời em đi. Không biết em có thích không? Đêm ấy là đêm rằm, trăng đẹp lắm!

Hằng tròn mắt:

- Sao thầy không rủ nhỏ Hạ? Nó thích văn thơ lắm đó.

Minh hơi sượng:

- Thì em đi với Hạ. Thầy thật tình muốn mời em.

Minh đã nói đúng ý của mình. Thật tình anh muốn mời Hằng, và chỉ một mình Hằng. Không hiểu sao, càng ngày anh càng cứ thấy mình phải nghĩ về Hằng, cô học trò mới mười tám tuổi mà đã có vóc dáng và phong cách trưởng thành hơn các bạn. Những ngày không có tiết dạy ở lớp Hằng, Minh cảm thấy như đang bị thiếu vắng một điều gì đó rất cần thiết. Anh thường tìm cách đi qua cái lớp 12A2 mà anh làm chủ nhiệm ấy, chỉ để liếc mắt nhìn vào và được thấy Hằng. Nếu cô nhìn thấy anh và khẽ chào, mắt long lanh sáng, thì anh cảm thấy lòng nhẹ hẳn. Minh hiểu như thế là mình đã sai, rất sai, nhưng anh không có cách nào chống cự được nỗi xúc cảm của mình. Lẽ nào cái điều kinh khủng ấy - một ông thầy, mà lại là một ông thầy đã có vợ con, đi thương yêu cô học trò của mình - lại đang xảy đến với anh? Minh tự tin cho rằng không phải điều ấy đang xảy ra. Chỉ là một thoáng rung động lãng mạn nghệ sĩ trước một vẻ đẹp tinh khôi mà thôi. Rồi tất cả sẽ qua đi khi năm học chấm dứt.

Hằng cười, cái răng khểnh dễ thương đến mức khó hiểu:

- Em dốt thơ lắm, sợ không biết thưởng thức, bị thầy cười. Nhưng thôi, để em đi với nhỏ Hạ. Nếu thầy còn vé, cho tụi em thêm hai cái...

Minh còn, nhưng từ chối vì biết Hằng sẽ rủ cả nhóm 4H cùng đi. Anh chịu đựng có thêm một Hạ là đã quá đủ. Là giáo viên dạy Văn, anh biết Hạ rất giỏi môn này và theo dõi rất sát hoạt động sáng tác văn thơ của thành phố. Trong lớp, người làm anh cảm thấy thiếu tự tin nhất chính là Hạ. Cô bé rất kín đáo, nhưng nhiều lần, trong lúc giảng bài, Minh vẫn cảm thấy nhột nhạt khi bắt gặp ánh mắt Hạ chăm chú nhìn như đang đánh giá trình độ của anh. Chỉ một lần duy nhất Hạ đứng lên hỏi Minh, sau tiết dạy của anh về văn học lãng mạn 1930 - 1945:

- Thầy nói văn học lãng mạn có nội dung bạc nhược, suy đồi và có tính chất phản động, không chiếm được cảm tình của quần chúng tiến bộ, và đã bị dư luận lên án nhiều. Nhưng sao em thấy những tác phẩm của nền văn học ấy vẫn cứ tồn tại bất chấp thời gian?

Đó là câu hỏi Minh vẫn hằng sợ nhất, mỗi khi giảng đến bàiVăn học lãng mạn. Trong thâm tâm anh, bài giảng khó thuyết phục nhất - cả với chính anh - cũng là bài này. Những tác phẩm thuộc dòng văn học lãng mạn 30- 45, dù thế nào đi nữa, vẫn có một sức quyến rũ đặc biệt, và theo anh, rất khó chê về giá trị văn học. Đó là cả một kho tàng của dân tộc, nhưng năm nào anh cũng mất mấy tiết đứng trên bục giảng kết tội nó. Kết tội, nhưng trong đầu anh vẫn thuộc làu làu những bài thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh... của thời tiền chiến, và tự thâm tâm anh luôn phải nhìn nhận những đoạn văn xuôi của nhómTự lực văn đoàn,Tiểu thuyết thứ bảycó tầm cỡ mẫu mực của các bậc thầy trong thời kì bình minh của nền văn học Việt Nam.

Minh nói mà nghe như là ai khác đang nói:

- Điều gì đã khiến em kết luận như vậy? Ý nghĩa của sự tồn tại kiểu ấy, theo em là gì? Đâu là đa số và đâu là thiểu số? Đâu là giá trị đích thực và đâu là cái hào nhoáng phù phiếm?

Hạ không trả lời mà chỉ nói:

- Cảm ơn thầy.

Từ đó, không bao giờ cô đặt một câu hỏi nào với Minh nữa...

Giờ thì Hằng và Hạ đang đi bên nhau, dưới ánh trăng sáng vằng vặc. Hằng cười khẽ, hỏi Hạ:

- Ê mày, thơ thầy Minh có hay không?

- Cũng có một vài bài được. Lúc đầu, ổng làm hay hơn, bây giờ theo tao thì hơi sút, nhiều bài chẳng có hồn gì cả!

- Sao ổng hay khoe tao những tờ báo đăng thơ của ổng? Lúc này người ta đăng thơ ổng nhiều lắm mà.

- Nhưng chắc tại lúc này ổng nổi tiếng rồi. Nhưng theo tao, thơ là một mặt hàng mà thường thường chất lượng ít đi đôi với số lượng... Ừa, mà sao ổng lại đi khoe mày thơ của ổng?

- Ừ, tao cũng không biết sao nữa. Ổng cho tao mượn cả những tập thơ chép tay của ổng nữa, mà ông gọi là thơ không đăng báo. Vậy là cũng có loại để đăng báo và loại thơ không để đăng báo nữa sao mày?

Hạ không trả lời, có vẻ trầm ngâm, liếc trộm bạn. Hằng vẫn rất hồn nhiên:

- Tức cười lắm, ổng đưa tao coi, rồi hỏi tao thích nhứt bài nào. Tao đâu biết nói sao, rủi nhằm bài ổng thấy là dở nhứt mà mình khen hay thì... Tao nói đại là bài nào tao cũng thích. Ồng khoái lắm!

- Mày khéo lo. Với các nhà thơ thì không có bài nào của họ là dở đâu. Văn mình vợ người mà!

- Nghĩa là sao?

- Nghĩa là bao giờ văn của mình cũng hay hơn của người khác, trong khi vợ người khác thì bao giờ coi cũng hay hơn vợ mình!

- Gì kì vậy?... Ờ, hèn gì mấy ông đàn ông có vợ rồi mới hay lộn xộn hả mày?

Hạ lại không nói gì. Cô chợt nhớ tới người đàn ông trông rất giống ông Quang, trong buổi tối ngày nào ở Văn Thánh. Không hiểu sao từ ấy đến nay Hạ vẫn không thể xóa được mối nghi ngờ rằng đó chính là ba của Hằng. Rồi Hạ lại nghĩ không hiểu tại sao thầy Minh lại quá quan tâm đến việc “giới thiệu sản phẩm” cho Hằng. Thường thì các nhà văn nhà thơ bao giờ cũng muốn giới thiệu thơ văn của mình một cách đặc biệt với những người mà mình cảm thấy đồng điệu. Thầy Minh tìm thấy điều gì đồng điệu ở Hằng nhỉ?

Hằng có vẻ lo lắng:

- Một hồi mày nhớ cho tao biết bài nào, câu nào hay, nghe. Ổng hỏi mà tao ú ớ nữa là kì lắm!

Họ đi qua chiếc cầu gỗ để sang tiểu đảo. Đã thấy Minh đứng chờ sẵn phía bên kia cầu. Mặt Minh sáng lên khi nhìn thấy Hằng, Hạ:

- À, hai em đến đúng giờ lắm. Mời vào.

- Thầy còn đợi ai nữa không?- Hạ hỏi.

Minh lúng túng:

- À... không.

Chỉ như vậy thôi là đã đủ cho Hạ hiểu thầy Minh chỉ đứng đó để chờ họ, nói cho đúng hơn là chờ Hằng. Trong khi đó thì Hằng hỏi, rất ngây thơ:

- Cô đâu thầy?Tụi em muốn chào cô.

Minh càng lúng túng hơn:

- Không... Cô không đi. - Và anh cười nói một cách đùa bỡn. - Hôm nay thứ bảy, tivi có tuồng cải lương. Mà cô thì vẫn thích cải lương hơn thơ của thầy.

Hạ bỗng thấy mất hết cảm tình với Minh. Dù đó là sự thật, hay dù chỉ là một câu nói đùa, Hạ vẫn coi đó là một lời nói xấu vợ, người vắng mặt. Chính vì vợ tôi như vậy nên tôi buồn lắm, chúng tôi không bao giờ hiểu nhau, tôi rất cần một người cảm thông, chia sẻ... Phải vậy không, cái điệp khúc ấy?Giờ này, phải chăng vợ thầy Minh đang ngồi coi cải lương, hay lại loay hoay với con cái, việc nhà, tạo điều kiện cho thầy đi bay nhảy, làm nghệ thuật, gặt hái những vinh quang hào nhoáng?

Minh đưa Hằng, Hạ vào ngồi ở một chiếc bàn gần sân khấu mà anh đã dành sẵn. Ở đó, còn có một thanh niên khác đang ngồi, chìm trong bóng tối. Anh ta mặc một bộ đồng phục thanh niên xung phong cũ kĩ. Đôi mắt anh lóe sáng theo mỗi làn đốm lửa ở đâu điếu thuốc trên môi anh cháy rực lên qua từng hơi rít. Thanh niên khẽ gật đầu chào Hạ. Nhưng khi quay qua Hằng, anh bất chợt nhìn cô, sững sờ. Môi anh chỉ khẽ mấp máy được một tiếng gì đó. Minh thích chí thấy bạn bối rối trước Hằng, chắc chắn là vì cô bé quá đẹp.

- Giới thiệu với hai em đây là anh Đoàn Hùng, nhà thơ thanh niên xung phong còn đây là Hằng và Hạ, hai cô học trò của tôi, rất yêu thơ.

Hùng đã trấn tĩnh lại được. Anh gượng cười, cất tiếng, giọng rất trầm, ấm:

- Rất hân hạnh. Bao giờ đứng trước các cô nữ sinh, tôi cũng có mặc cảm già nua và ngu dốt.

Hằng và Hạ đều phải bật cười. Hạ nói:

- Anh Hùng đùa hoài. Ai lại không biết anh đã tốt nghiệp Đại học Tổng hợp khoa Văn rồi mới đi thanh niên xung phong?

Hùng tròn mắt:

- Trời đất, sao cô nắm lý lịch của tôi còn hơn trưởng phòng tổ chức nông trường vậy?

Minh chen vào:

- Tôi quên giới thiệu với ông, cô Hạ này giỏi Văn nhất lớp và rất thích đọc các sáng tác mới trên báo. Chắc chắn tên tuổi của ông không xa lạ với Hạ đâu. Phải không Hạ?

- Dạ phải. - Hạ chỉ đáp vắn tắt.

Cô còn mải nhìn Hùng. Từ lâu cô vẫn rất thích thơ anh, những dòng thơ hồn nhiên giản dị, nhưng mạnh mẽ, quả đúng y như con người đang ngồi trước mặt cô. Hạ bỗng có ý nghĩ trêu chọc anh.

- Em không ngờ có ngày lại được biết anh. - Cô nói.

Hùng cười mỉm:

- Rồi sao?Biết rồi... chán lắm, phải không?

Hạ lắc đầu:

- Điều đó thì em chưa biết. Nhưng...

Hạ bỏ lửng câu nói, đưa tay hất nhẹ mái tóc ra sau lưng, đầu lúc lắc nhè nhẹ, trông thật tinh nghịch, dễ thương.

- Nhưng sao?- Hùng hỏi.

- Người ta vẫn nói là không nên biết con người cụ thể của một nhà văn nhà thơ, một khi đã yêu thích tác phẩm của ông ta. Em không hiểu câu đó có đúng không?

Hùng bật người ra sau, cười sảng khoái:

- Đúng quá rồi chứ còn gì nữa!

Rồi anh quay sang Minh:

- Đúng là các cô học trò của ông ác liệt thật!

Cuộc trò chuyện diễn ra khá vui vẻ. Nhưng không hiểu sao, Hùng hầu như không nói gì với Hằng, dù thỉnh thoảng Hạ bắt gặp anh thường nhìn trộm Hằng với một nét gì đó hơi khó hiểu cho buổi gặp mặt lần đầu tiên như thế này.

Trăng đã lên cao, tỏa ánh sáng nồng nàn quyến rũ xuống cả khu vực. Đêm thơ như nhờ được trăng soi mà trở nên lôi cuốn hơn. Trong phần giới thiệu về anh, Minh lên đọc hai bài thơ tình có một bài anh cho biết là để tặng riêng các cô học trò lớp 12 của anh. Minh liếc mắt xuống phía Hằng và Hạ, Hạ hiểu ánh mắt của thầy không phải dành cho mình. Sau đó, một cô gái khác bước ra ngâm hai bài thơ khác của Minh, cũng về đề tài tình yêu. Đại khái tình yêu là một điều gì đó vô cùng riêng tư, thiêng liêng, và tác giả là người luôn sẵn sàng chết cho tình yêu nhưng lại không bao giờ tìm được một mối tình như ý. Cả bốn bài thơ của Minh đều được vỗ tay như những bài thơ khác của các tác giả trước đó. Thậm chí còn có một cô gái cầm bó hoa đồng tiền ra tặng Minh. Nét mặt Minh sáng rỡ, và lúc đó Hạ mới hiểu rằng người ta có thể sống thích thú với những thứ rất phù phiếm như những đóa hoa đồng tiền kia, chỉ trong sáng mai là đã rũ tàn.

Đoàn Hùng đã làm thay đổi hẳn không khí đêm thơ khi tới phần dành cho anh, anh đã xin phép được hát một bài dân ca miền Trung, bằng một giọng địa phương rất chuẩn. Bài dân ca nói lên nỗi lòng của một anh chồng nghèo than thở về sự phụ tình của người vợ, được diễn đạt bằng lời văn hết sức mộc mạc nhưng lại thấm tận vào những cảm xúc bên trong của người nghe.

... Hồi nào em thất nghiệp em đi lang thang. Anh thấy em nửa tội nghiệp anh (đi) mang anh nuôi rày.

Hồi nào em bán nước đá anh đi may, hai đứa mình chung sống (chứ) không biết ngày (rồi) mai sau.

Hồi nào em bắt ốc (rồi) anh hái rau. Bây giờ em để lại mối sầu này choqua.

Hồi nào trái chuối chín cũng cén làm ba, trái cam tươi cũngcénlàm bốn, nửa trái cà cũngcénlàm năm. Bây giờ em lấynẫuemennằm, em bỏqua(chứ)quahiu quạnh năm canhquamột mình.

Anh bây giờ khóe mắt sầu cứ rung rinh.

Giọt lệ sầu, giọt lệ thảm như nước trong bình tuôn ra.

Anh bây giờ như con cuốc nó kêu tù oa.

Nó lẻ đôi, nó lẻ bạn, ôi chu choa là buồn...

Khán giả vỗ tay nồng nhiệt. Hằng thúc khuỷu tay vào hông Hạ, cười thích chí:

- Ông này vui quá há mày!

- Ờ dân thanh niên xung phong mà!

Trên sân khấu, Đoàn Hùng nghiêng mình, giọng buồn buồn:

- Thơ của tôi, nhất là thơ tình, thật chẳng là gì so với chất tình trong văn học dân gian chúng ta trong những bài ca dao, những điệu hò, lý... Vì thế, tôi chỉ dám đọc thơ tình cho một người duy nhất nghe, mà người đó hiện không có mặt ở đây. Xin các bạn thông cảm cho, tôi chỉ đọc hai bài thơ viết về cuộc sống của chúng tôi, những người thanh niên xung phong.

Hùng đứng im và nhắm mắt lại, như để tập trung. Mọi người cùng im lặng chờ đợi. Bài thơ thứ nhất anh kể về cái chết của một cô thanh niên xung phong ở biên giới Tây Nam. Cô và nhân vật xưng “tôi” trong bài thơ vốn cùng một đơn vị, từ lâu đã yêu nhau nhưng cũng chưa dám nói. Cái chết của cô đã để lại trong anh một nỗi đau khôn nguôi. Bài thứ hai, Hùng viết về những vui buồn sau mười năm ở thanh niên xung phong tự nhìn lại. Tất cả mọi gian khổ rồi cũng qua đi, cái còn lại chính là những kỷ niệm được chắt lọc, mãi mãi sẽ theo ta đến hết cuộc đời.

Sau những câu thơ quá trau chuốt và kiểu cách - thậm chí có những chỗ còn có phần lập dị, siêu thực - của Minh, những vần thơ mộc mạc, chân thành của Hùng càng trở nên có giá trị hơn. Khán giả vỗ tay nồng nhiệt, Hằng và Hạ cũng vỗ, mỏi cả tay. Hùng trở thành nhà thơ được hoan nghênh nhiều nhất từ đầu chương trình đến giờ. Anh cảm động đến lúng túng trên sân khấu. Còn Minh thì có vẻ khó chịu, mất tự nhiên, Hạ để ý thấy anh đốt thuốc hút mà tay hơi run run.

Hằng vô tình quay sang Minh:

- Anh Hùng làm thơ hay quá phải khòng thầy?

Minh phải gật đầu:

- Ừ, Hùng làm thơ về thanh niên xung phong thì khó ai qua được. Nhưng thơ tình thì...

Hạ nhìn sững thầy mình. Minh không thấy cái nhìn ấy, nhưng anh cũng đã kịp dừng câu nói. Sao thầy lại quá tự tin như vậy, Hạ nghĩ. Hùng không thích đọc thơ tình cho mọi người nghe, không có nghĩa là thơ tình của anh dở. Thậm chí Hạ còn thuộc được vài bài thơ tình của anh, chứ thơ của thầy Minh thì không. Tự tin, hay là một cách dè bỉu? Hạ tiếp tục nhìn thầy mình bằng một đôi mắt phán xét. Cô biết các nhà văn nhà thơ hiếm khi phục tài nhau, nhưng những lời chê bai thốt ra vào đúng lúc này thì thật không hay.

Hùng đã định đi xuống, nhưng tiếng vỗ tay kéo dài đã giữ anh lại. Một cô gái cầm đóa hồng nhung chạy ào lên sân khấu, trao tặng anh. Hết sức tự nhiên, Hùng quàng tay qua vai cô gái và cúi xuống hôn thật nhanh lên má cô. Tiếng cười và tiếng vỗ tay càng dữ dội hơn. Cô gái thẹn thùng chạy xuống. Người điều khiển chương trình tươi cười tiến ra:

- Trước tình cảm của khán giả như vậy, chúng tôi xin đề nghị anh Hùng phá lệ, đọc cho khán giả nghe một, hai bài thơ tình. Các bạn có đồng ý như vậy không?

Tiếng vỗ tay lại vang lên. Hùng ngần ngại một chút trước khi nói:

- Tôi xin phép chỉ đọc một bài thơ nữa thôi, để tặng mối tình đầu của tôi. Điều tôi muốn nói là mỗi người trong chúng ta đều có một mối tình đầu. Hãy biết trân trọng và gìn giữ nó, bởi đó cũng sẽ là một mối tình đẹp nhất trong đời.

Và anh cất tiếng đọc:

- Khi xa em

anh thắp đuốc nghìn phương soi người đẹp

những Tây Thi Đắc Kỷ cũng dễ tìm

duy có phiên bản của em là thất lạc.

Phiên bản của

người con gái đã đi qua đời anh

long lanh biển mắt buổi đầu

môi hôn thiết tha gặp lại

tình yêu không hề nói

vẫn đầy chật buồng tim.

Người ta có thể yêu nhau lan từ lúc biết yêu

cho đến khi không yêu được nữa

Ngày và Đêm rồi cũng theo nhau

những hạnh phúc trôi qua không ngừng lại

ai chà đạp tình yêu

thì hạnh phúc chẳng còn.

Khi anh không còn em

Ngày và Đêm giống nhau hết sức

ngày có lửa trời nóng nực

đêm bện ngót đêm đen.

Chào em, hạnh phúc của anh

phút thoảng qua đau nhói

những ngày đêm héo mòn chờ đợi

cuộc sống riêng tì vết của mỗi người

những nỗi buồn chen lẫn niềm vui

sự đổ vỡ bất ngờ đến thế?

Khi hạnh phúc bay đi lặng lẽ

cái bóng của đời ngước mắt tráo trưng

anh và em lẽ nào chỉ là những chứng nhân

cái o ép của đời bắt ta quay mặt lại

bên hông đời còn bày những con diều giấy

những hình nhân biết múa biết cười

những nông cạn bên trong

những hào nhoáng bên ngoài

những sâu thẳm chỉ đời ta biết được...

Tưởng như mình kết thúc

ngỡ mình sẽ nguội lòng yêu

lẽ đâu dễ dàng như thế

nên hoài hoài nhớ nhau

người ta có thể yêu nhiều lần từ lúc biết yêu

cho đến khi không yêu được nữa

có ai tan vỡ chẳng buồn?

Chính là anh đã mất em

chính là anh đã mất

phiên bản thứ hai của em không bao giờ anh còn bắt gặp

dẫu trên đời vẫn có những Tây Thi

những sắc đẹp và những con người mới

anh sẽ còn ôm đến cuối đời phiên bản tình yêu

em chẳng bao giờ gặp lại

dẫu cho anh thắp đuốc đi tìm...

Và như thế

đời bình yên hay đời sóng gió

hạnh phúc tầm thường hay hạnh phúc cao sang

những gặt hái trong đời anh nếu mai này tính lại

có lẽ nào không có mối tình em?[1]

Hùng dừng lại và đám đông phải bàng hoàng mất mấy giây. Giọng điệu của thơ đã được đổi hẳn. Sự giản dị đan kết với những suy gẫm sâu xa. Nỗi đau mất mát và sự nuối tiếc chân thật như một lời tâm sự với chính mình. Hùng bước xuống sân khấu trong tràng pháo tay cuối cùng dành cho anh.

Chú thích:

[1] Thơ Phạm Thị Ngọc Liên)